Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

SỰ CHUYỂN BIẾN KINH TẾ XÃ HỘI HUYỆN QUẢNG TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH (1986 – 2014)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.22 MB, 118 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT

PHẠM VĂN TUYÊN

SỰ CHUYỂN BIẾN KINH TẾ - XÃ HỘI HUYỆN
QUẢNG TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH
(1986 – 2014)

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH LỊCH SỬ VIỆT NAM

Lâm Đồng - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT

SỰ CHUYỂN BIẾN KINH TẾ - XÃ HỘI HUYỆN
QUẢNG TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH
(1986 – 2014)

Chuyên ngành: Lịch Sử Việt Nam
Mã số: 60.22.03.13

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH LỊCH SỬ VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học:

T.S Ngô Xuân Trường

Học viên thực hiện:



Phạm Văn Tuyên


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô trong khoa
Lịch Sử, phòng Đào tạo sau đại học - trường Đại học Đà Lạt đã truyền đạt những kiến
thức, kỹ năng học tập và nghiên cứu khoa học cho tôi trong suốt khóa học.
Xin chân thành cảm ơn đến trung tâm lưu trữ Đảng bộ tỉnh Quảng Bình, ủy
ban nhân dân tỉnh Quảng Bình, ủy ban nhân dân huyện Quảng Trạch, ủy ban nhân
dân Thị xã Ba Đồn, chi cục thống kê thị xã Ba Đồn đã tạo điều kiện cho tôi trong
việc thu thập và nghiên cứu các tài liệu liên quan đến đề tài.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Ngô Xuân Trường đã
tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã
khích lệ, hỗ trợ tôi trong suốt quá trình học tập.
Do hạn chế về nguồn tư liệu cũng như những kỹ năng nghiên cứu khoa học
của bản thân, nên không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý
của Thầy Cô và bạn bè, đồng nghiệp để bổ sung và hoàn thiện luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn của
TS. Ngô Xuân Trường. Các số liệu, tài liệu được nêu ra trong luận văn là trung
thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học, Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc xuất
xứ rõ ràng.
Đà Lạt, ngày 12 tháng 12 năm 2016
Người cam đoan


Phạm Văn Tuyên


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNXH: Chủ nghĩa xã hội
CNH -HĐH : Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
HTX: Hợp tác xã
GDP: Tổng sản phẩm quốc dân
VHTT: Văn hóa thông tin
TDTT : Thể dục thể thao
UBND: Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU................................................................................................................... 6
1. Lý do chọn đề tài..............................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề...............................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu........................................................................................5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...................................................................5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.....................................................6
6. Bố cục đề tài......................................................................................................6
CHƯƠNG I KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ TÌNH HÌNH
KINH TẾ XÃ HỘI HUYỆN QUẢNG TRẠCH TRƯỚC NĂM 1986..................7
1.1 Điều kiện tự nhiên..........................................................................................7
1.1.1 Vị trí địa lý.................................................................................................7
1.1.2 Địa hình.....................................................................................................7
1.1.3 Đất đai.......................................................................................................8
1.1.4 Khí hậu......................................................................................................8

1.1.5 Thủy văn....................................................................................................8
1.1.6 Rừng và hệ động thực vật..........................................................................9
1.2 Đặc điểm kinh tế - xã hội...............................................................................9
1.2.1 Đặc điểm kinh tế........................................................................................9
1.2.2 Đặc điểm xã hội.......................................................................................10
1.3 Khái quát về tình hình hình - xã hội huyện Quảng Trạch giai đoạn 1975 1985..................................................................................................................... 12
1.3.1. . Khái quát về tình hình kinh tế huyện Quảng Trạch giai đoạn 1975 - 1985
....................................................................................................................... 12
1.3.2 Khái quát về tình hình xã hội huyện Quảng Trạch giai đoạn 1975 - 1985.....16
CHƯƠNG II QUÁ TRÌNH CHUYỂN BIẾN KINH TẾ - XÃ HỘI HUYỆN
QUẢNG TRẠCH TỪ 1986 - 2014........................................................................19
2.1 Tình hình kinh tế - xã hội huyện Quảng Trạch giai đoạn 1986 - 1996......19
2.1.1 Bối cảnh lịch sử và quá trình hình thành đường lối đổi mới...................19


2.1.2 Những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, tỉnh Quảng Bình và
huyện Quảng Trạch..........................................................................................22
2.1.3 Kinh tế huyện Quảng Trạch từ 1986 - 1996.............................................25
2.1.4 Xã hội......................................................................................................33
2.1.5 Nhận xét chung về sự chuyển biến kinh tế - xã hội huyện Quảng Trạch
giai đoạn 1986 - 1996.......................................................................................36
2.2 Tình hình kinh tế - xã hội huyện Quảng Trạch giai đoạn 1996 - 2014......37
2.2.1 Kinh tế.....................................................................................................37
2.2.2 Xã hội......................................................................................................63
2.2.3 Nhận xét chung về sự chuyển biến kinh tế - xã hội huyện Quảng Trạch
giai đoạn 1996 - 2014.......................................................................................79
CHƯƠNG III ĐÁNH GIÁ CHUNG, NGUYÊN NHÂN, BÀI HỌC KINH
NGHIỆM VÀ TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI HUYỆN
QUẢNG TRẠCH THỜI GIAN TỚI....................................................................82
3.1 Đánh giá chung về quá trình chuyển biến kinh tế - xã hội huyện Quảng

Trạch từ 1986 - 2014...........................................................................................82
3.1.1 Thành tựu................................................................................................82
3.1.2 Hạn chế...................................................................................................85
3.2 Nguyên nhân.................................................................................................87
3.2.1 Nguyên nhân của thành tựu.....................................................................87
3.2.2 Nguyên nhân của hạn chế........................................................................89
3.3 Bài học kinh nghiệm.....................................................................................90
3.4 Triển vọng phát triển kinh tế - xã hội huyện Quảng Trạch trong thời gian
tới.............................................................................................................................
............................................................................................................................. 96
KẾT LUẬN............................................................................................................99
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................101
PHỤ LỤC.............................................................................................................109


BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH HUYỆN QUẢNG TRẠCH – TỈNH QUẢNG BÌNH


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước là một trong những thắng lợi to
lớn của cách mạng Việt Nam vào cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI. Đất nước ta thoát
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, bước đầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đã có
những bước đi vững chắc trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Nền kinh tế tăng trưởng nhanh, ổn định, đời sống của nhân dân được
cải thiện. Việt Nam đã phá được thế bao vây cấm vận của các thế lực thù địch, tăng
cường mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế được nâng cao, giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng,
an ninh. Những thành tựu mang ý nghĩa to lớn đó là nhờ vào đường lối đổi mới do

Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo.
Cùng chuyển mình với đất nước, huyện Quảng Trạch đã nắm bắt thời cơ
thuận lợi, khắc phục mọi khó khăn, thách thức, từng bước thực hiện đường lối đổi
mới trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình là nơi có bề dày lịch sử và văn hóa lâu
đời, có vị trí chiến lược quan trọng đối với Quảng Bình nói riêng và cả nước nói
chung. Trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, đặc biệt trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ (1954 - 1975), Quảng Trạch đã gắn với nhiều chiến công góp phần giải
phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc. Trải qua hai cuộc chiến tranh ác liệt và những
chuyển biến về kinh tế - xã hội của đất nước, Quảng Trạch vẫn mang trong mình
tinh thần chịu thương chịu khó vượt lên hoàn cảnh để hoàn thành các chỉ tiêu về
kinh tế - xã hội, góp phần nâng cao đời sống kinh tế xã hội của toàn huyện.
Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng bộ huyện Quảng Trạch đã phát huy truyền
thống năng động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm của người dân. Sau 28 năm đổi mới,
kinh tế - xã hội của huyện đạt được nhiều thành tựu to lớn: kinh tế tăng trưởng
nhanh, ổn định, cơ cấu kinh tế có nhiều chuyển biến tích cực, bộ mặt của huyện có
nhiều thay đổi; đời sống của nhân dân không ngừng được nâng cao; an ninh chính
trị; trật tự an toàn xã hội được giữ vững; vai trò lãnh đạo của Đảng bộ được củng
cố, tăng cường, đáp ứng nhu cầu phát triển xã hội cả bề rộng lẫn chiều sâu. Thành


2
tựu đó góp phần không nhỏ vào sự phát triển của huyện, vào chủ trương phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước. Do đó, tìm hiểu và
nghiên cứu sự chuyển biến tình hình kinh tế - xã hội huyện Quảng Trạch trong thời
kỳ đổi mới 1986 - 2014, rất có ý nghĩa về mặt khoa học và thực tiễn.
Về phương diện khoa học: luận văn làm rõ quá trình phát triển kinh tế - xã
hội của huyện Quảng Trạch thời kỳ đổi mới giai đoạn từ 1986 - 2014, nêu bật
những chủ trương của Đảng bộ cùng với sự lao động sáng tạo của nhân dân huyện
đã thực hiện nhằm đạt được những mục tiêu chung của đất nước. Trên cơ sở đó,

luận văn góp phần tìm hiểu rõ hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn về đường lối
đổi mới của Đảng, về việc hiện thực hóa đường lối đó vào hoàn cảnh cụ thể ở huyện
Quảng Trạch; đồng thời thấy được những thành công và tồn tại của nền kinh tế - xã
hội huyện Quảng Trạch trong gần 30 năm đổi mới.
Về phương diện thực tiễn: luận văn chỉ ra những tồn tại, hạn chế, cùng với
những kiến nghị, giải pháp về quá trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện
cho hiện nay và tương lai, góp phần giúp Đảng bộ và chính quyền huyện tham khảo
để đề ra những giải pháp xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp
Mặt khác, luận văn cung cấp một số tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, biên
soạn lịch sử Đảng bộ huyện Quảng Trạch mới. Luận văn còn là một tài liệu giúp cho
giáo viên các cấp học ở thị xã Ba Đồn và huyện Quảng Trạch hiện nay tham khảo, vận
dụng trong những tiết học về lịch sử địa phương. Đồng thời, góp phần củng cố thêm
niềm tin của nhân dân vào sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo cũng như giáo dục
truyền thống yêu quê hương, đất nước cho thế hệ trẻ ở địa phương.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Sự chuyển biến kinh tế - xã
hội ở huyện Quảng Trạch tỉnh Quảng Bình (1986 – 2014)” làm đề tài luận văn
Thạc sĩ, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ trước đến nay vấn đề kinh tế - xã hội cả nước nói chung, ở các địa
phương nói riêng, không chỉ được các nhà lãnh đạo mà cả các nhà nghiên cứu khoa
học tự nhiên và khoa học xã hội quan tâm


3
Ngoài các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc, Đảng bộ tỉnh, Đảng bộ huyện
cùng các chủ trương của Đảng, còn có các cuốn sách khảo cứu như:
Văn kiện Nghị quyết của Đảng, nhất là văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI. Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX có
nêu lên hai nội dung rất quan trọng, mang tính chất định hướng cho sự phát triển là
“chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010” và “phương hướng nhiệm vụ, kế

hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005” của Ban chấp hành trung ương
Đảng do nhà xuất bản Sự thật - Hà Nội xuất bản năm 1991.
Ngoài ra, còn có nhiều công trình của các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước
viết về vấn đề đổi mới như:
Trường Chinh (1987), Đổi mới là đòi hỏi bức thiết của đất nước và thời đại
Nxb Sự thật, Hà Nội đã nêu lên yêu cầu cấp thiết về vấn đề đổi mới đối với sự phát
triển của đất nước. Trong tác phẩm này, tác giả cũng nêu lên đường lối đổi mới phù
hợp với tình hình thực tiễn của đất nước và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cuốn sách con đường công nghiệp hóa,hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Việt Nam của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Bộ Nông nghiệp và phát triển
nông thôn (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002) đã giới thiệu khái quát về quá
trình hình thành và phát triển quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp nông thôn và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện, phương
phướng và giải pháp, đồng thời nêu một số bài học kinh nghiệm của một số điểm
sáng trong phát triển kinh tế.
PGS. TS. Nguyễn Trọng Phúc trong cuốn Một số kinh nghiệm của Đảng
cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới (Nxb Chính trị Quốc
gia Hà Nội, 2000), đã tổng kết một số chủ trương của Đảng và những thành tựu tiêu
biểu mà chúng ta đã đạt được, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm của Đảng
trong lãnh đạo.
Bên cạnh đó là những thông tin trên các trang web,, tờ thời báo kinh tế Việt
Nam, tạp chí Lịch sử Đảng, tạp chí Cộng sản, báo Nhân dân và một số tạp chí liên
quan.


4
Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài ở tỉnh Quảng Bình có các
công trình tiêu biểu sau:
Nguyễn Khắc Thái (2014), Lịch sử Quảng Bình, Nxb Chính trị - Hành
chính. Công trình đề cập đến lịch sử hình thành và phát triển cũng như sự chuyển

biến về kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Bình qua các thời kỳ.
T.S Lại Vĩnh Cẩm (2004), Luận cứ phục vụ định hướng phát triển kinh tế xã hội khu vực miền Tây Quảng Bình, sở Khoa học công nghệ Quảng Bình. Đây là
một đề tài khoa học phục vụ cho việc định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội khu vực miền Tây Quảng Bình. Đề tàiđề cập đến một số vấn đề về kinh tế - xã
hội của huyện Quảng Trạch, tuy nhiên chỉ ở mức độ cơ bản.
Nhìn chung đây là những công trình có đề cập đến các vấn đề kinh tế - xã hội
của huyện Quảng Trạch. Đây là nguồn tài liệu có giá trị tham khảo và nguồn tư liệu
quý để thực hiện đề tài.
Về kinh tế - xã hội huyện Quảng Trạch, các văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện
lần thứ XIV đến XXIII và một số tài liệu khác đã đề cập đến.
Các báo cáo hàng năm, báo cáo trong những nhiệm kỳ đại hội về tình hình
kinh tế - xã hội của huyện Quảng Trạch từ năm 1986 đến năm 2014 của Tỉnh ủy,
UBND tỉnh Quảng Bình và huyện Quảng Trạch.
Hệ thống niên giám thống kê của cục Thống kê tỉnh Bình Trị Thiên (1976 1989), tỉnh Quảng Bình (1997 - 2014) và phòng Thống kê huyện Quảng Trạch đã
phản ánh tình hình kinh tế xã hội hàng năm. Tuy nhiên những công trình này chỉ
mang tính chất thống kê.
Nhìn chung, những công trình trên đây ở những khía cạnh khác nhau đã đề
cập đến vấn đề kinh tế - xã hội của huyện Quảng Trạch nói riêng. Song cho đến nay
chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu về sự chuyển biến kinh tế - xã hội của
huyện Quảng Trạch trong thời kỳ đổi mới từ 1986 - 2014. Tuy nhiên, những công
trình trên đã giúp cho chúng tôi phương hướng tiếp cận để tiếp tục đi sâu nghiên
cứu vấn đề mà chúng tôi đặt ra.


5
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu chính của đề tài là tìm hiểu quá trình chuyển biến các
mặt về kinh tế - xã hội huyện Quảng Trạch từ năm 1986 đến năm 2014. Qua đó nêu
được những thành tựu, hạn chế của quá trình này, đồng thời, chỉ ra được những
nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế. Từ đó rút ra một số bài học kinh

nghiệm và những triển vọng của sự phát triển kinh tế - xã hội huyện Quảng Trạch
trong những năm sắp tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về sự chuyển biến kinh tế - xã hội huyện
Quảng Trạch giai đoạn 1986 - 2014, trong đó xác định nội dung nghiên cứu cụ thể
bao gồm:
Tình hình kinh tế - xã hội Quảng Trạch trước khi tiến hành đổi mới. Những
chủ trương và biện pháp của Đảng bộ và chính quyền huyện để phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ đổi mới. Những nhân tố tác động đến sự chuyển biến kinh tế xã hội của huyện Quảng Trạch.
Những chuyển biến kinh tế của huyện Quảng Trạch trong những năm đổi
mới trên các bình diện: nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp, dịch
vụ, tài chính...
Dưới sự tác động của chuyển biến kinh tế dẫn tới những thay đổi về mặt xã
hội như: sự biến động về dân cư, lao động và việc làm, mức thu nhập và đời sống
nhân dân, tình hình văn hóa, giáo dục, y tế.
Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi thời gian: Mốc mở đầu nghiên cứu là 1986, là năm bắt đầu công
cuộc đổi mới đất nước. Mốc kết thúc là năm 2014 - huyện Quảng Trạch tách ra
thành hai đơn vị hành chính gồm thị xã Ba Đồn và huyện Quảng Trạch.
Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu các vấn đề kinh tế - xã hội trong
địa bàn huyện Quảng Trạch trước khi chia tách.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận: Việc nghiên cứu đề tài trước hết dựa trên cơ sở lý luận và


6
phương pháp của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, luận văn coi đó
là những căn cứ lý luận định hướng tư tưởng cơ bản cho việc tiếp cận, nhìn nhận
đáng giá các vấn đề.
5.2 Phương pháp nghiên cứu: Đề tài thuộc chuyên ngành Lịch sử Việt Nam
nên chúng tôi sử dụng hai phương pháp chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương

pháp logic. Kết hợp vận dụng các phương pháp liên ngành như phân tích, tổng hợp,
so sánh, đối chiếu, thống kê, phỏng vấn để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu.
Quá trình điền dã giúp chúng tôi thẩm định lại những báo cáo, đánh giá từ
nhiều nguồn khác nhau để đưa ra một kết luận hợp lý nhất, sát thực như nó đã diễn
ra và phát hiện thêm những vân đề mới nhằm hoàn thiện lại hệ thống những cứ liệ
cho bài viết
6. Bố cục đề tài
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của
Luận văn được chia thành ba chương:
Chương 1: Khái quát về điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế xã hội huyện
Quảng Trạch trước năm 1986.
Chương 2: Quá trình chuyển biến kinh tế xã hội huyện Quảng Trạch từ 1986 - 2014.
Chương 3: Đánh giá chung, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm và triển vọng
phát triển kinh tế xã hội huyện Quảng Trạch thời gian tới.


7
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ
HỘI HUYỆN QUẢNG TRẠCH TRƯỚC NĂM 1986
1.1 Điều kiện tự nhiên
1.1.1 Vị trí địa lý
Quảng Trạch là một huyện nằm ở phía bắc tỉnh Quảng Bình có địa thế trải
dài từ 17042’ đến 17059’ vĩ độ bắc và 106015’ đến 108034’ kinh độ đông; diện tích
613 km2, dân số tính đến năm 2012 là 210.738 nhân khẩu, mật độ trung bình 343
người/km2.
Quảng Trạch có ranh giới phía Bắc giáp tỉnh Hà Tĩnh qua Đèo Ngang, phía
Nam giáp huyện Bố Trạch, phía Tây giáp huyện Tuyên Hóa và phía Đông giáp Biển
Đông. Quảng Trạch có 34 xã, thị trấn, trung tâm kinh tế - chính trị của huyện là thị
trấn Ba Đồn.

Nằm trong khu vực Bắc Trung Bộ, Quảng Trạch ở vị trí trung độ của cả nước
(trung điểm cách Hà Nội 500km, cách thành phố Đà Nẵng 300km, cách thành phố
Hồ Chí Minh 1200km), là nơi giao thoa đặc thù lãnh thổ miền Bắc và miền Nam nên
dễ hòa nhập, tiếp thu những tiến bộ kinh tế, khoa học kĩ thuật; nơi mà các tuyến
đường giao thông quan trọng của Quốc gia xuyên suốt chiều dài tỉnh (Quốc lộ 1A,
Quốc lộ 12A, đường sắt Bắc Nam), là đầu mối giao lưu của hai miền Nam - Bắc.
Là huyện có lợi thế về phát triển nông nghiệp và công nghiệp dịch vụ, lại gần
các trung tâm kinh tế của vùng và đất nước, gần cửa khẩu quốc tế và cảng biển lớn.
Đó là lợi thế để huyện Quảng Trạch phát triển kinh tế đa ngành nghề.
1.1.2 Địa hình
Quảng Trạch là một huyện đồng bằng nhưng có cả đồi núi và biển, phía tây
và phía bắc là vùng đồi núi thuộc dãy Trường Sơn ăn lan ra sát biển; ở giữa là đồng
bằng nhưng bị chia cắt bởi các con sông và những cồn cát nội địa với diện tích tập
trung hơn 1500 ha; đồng bằng ven biển có các đụn cát kéo dài, địa hình ngiêng theo
hướng tây bắc - đông nam.


8
1.1.3 Đất đai
Theo các số liệu điều tra, Quảng Trạch có 3 hệ thống đất đai cơ bản được
hình thành trên hệ thống phong hoá: chủ yếu ở vùng đồi núi chiếm 78,2%, đất phù
sa chiếm tỷ lệ 16,7%, vùng đất cát ven biển chiếm tỷ lệ 5,1%. Huyện nằm trong
vùng khí hậu duyên hải miền Trung Việt Nam, chịu ảnh hưởng của khí hậu chuyển
tiếp giữa hai miền Nam - Bắc với 2 mùa chủ yếu là mùa khô (từ tháng 4 đến tháng
8) và mùa mưa (từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau).
Trong tổng diện tích 613 km2 có trên 10.000 ha đất nông nghiệp, 29.000 ha
đất lâm nghiệp, 3.000 ha đất chuyên dùng, 11.225 ha đất chưa sử dụng (Trong đó có
600 ha đất bãi bồi, 10.000 ha đất đồi núi có khả năng khai thác để trồng cây lâm
nghiệp, đặc biệt có khoảng 1.500 ha đất đồi có độ phù sa độ mùn dày dưới 1 mét, có
khả năng trồng cây công nghiệp, cây ăn quả cho năng suất cao).

1.1.4 Khí hậu
Quảng Bình nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, luôn bị tác động bởi
khí hậu của phía Bắc, phía Nam và được chia làm hai mùa rõ rệt.
Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa trung bình từ 1.600 2.800 mm/năm, thời gian mưa tập trung vào các tháng 9,10,11.
Mùa khô từ tháng 4 đến tháng 8 với nhiệt độ trung bình 24 - 25 0C, ba tháng
có nhiệt độ cao nhất là các tháng 6, 7, 8. Nhiệt độ cao nhất tuyệt đối lên đến 40,6 0C
tháng 7 năm 1998, nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối là 7,60C tháng 12 năm 1975.
Nhiệt độ trung bình năm của Quảng Trạch tăng dần từ Bắc vào Nam, từ Tây
sang Đông. Cân bằng bức xạ đạt 70 - 80 kcal/cm 2. Số giờ nắng bình quân năm
khoảng 1.700 - 2.000 giờ.
1.1.5 Thủy văn
Huyện Quảng Trạch có đường bờ biển dài 32,4 km, vùng đặc quyền kinh tế
khoảng 6.584 km2, là huyện giàu tài nguyên biển. Dọc bờ biển có hai cửa sông
chính là sông Gianh và sông Roòn, có vịnh nước sâu Hòn La với nhiều lợi thế để
phát triển vận tải biển, công nghiệp đóng tàu và các dịch vụ phục vụ cho nghề biển.
Ngư trường Quảng Trạch rộng hàng trăm hải lý có nguồn hải sản phong phú, trong


9
đó có nhiều hải sản giá trị cao như tôm hùm, mực nang, mực ống..; các loại cá
ngon như cá chim, thu, đồng thời bờ biển còn có nhiều điểm thích hợp phát triển
nghề nuôi hải sản nước mặn, nước lợ.
Ngoài ra, nhờ sự kiến tạo của thiên nhiên và thời gian, vùng đất Quảng Trạch
có nhiều cảnh quan đẹp như: khu vực Vũng Chùa - Đảo Yến, khu Hoành Sơn Quan,
đền Công chúa Liễu Hạnh là điều kiện phát triển các loại hình du lịch sinh thái, văn
hóa.
1.1.6 Rừng và hệ động thực vật
Quảng Trạch có 29.000 ha đất lâm nghiệp với tổng diện tích rừng khoảng
8.500 ha với trữ lượng khoảng 648.000 m 3 gỗ, trong đó có khoảng 3.000 ha rừng tái
sinh hơn 10 năm, có những khu rừng tái sinh như ở Quảng Lưu đã tạo được một

khu rừng tái sinh rộng lớn, có thảm thực vật phong phú, nhiều động vật hoang dã
được bảo tồn đang tái sinh nhanh chóng. Toàn huyện có hơn 4.000 ha thông nhựa
đang được giữ gìn, bảo quản và thu hoạch mỗi năm có trên 750 tấn nhựa thông. Đặc
biệt các vùng rừng đầu nguồn của các hồ đập thuỷ lợi được bảo vệ an toàn và
nghiêm ngặt. Từ đó có chiều hướng tạo ra nhiều cảnh quan, mở ra các chương trình
du lịch sinh thái phong phú, đầy triển vọng trong tương lai. Huyện có bờ biển dài
32,4 km, có hệ thống hồ đập sông ngòi, mặt nước, bờ sông, bãi biển khá rộng lớn,
tạo nên nguồn lợi tự nhiên khá phong phú.
1.2 Đặc điểm kinh tế - xã hội
1.2.1 Đặc điểm kinh tế
Với tổng diện tích 61.388,50 ha với tiềm năng đất đai, nhân dân cần cù lao
động, giàu kinh nghiệm trong sản xuất, Quảng Trạch có điều kiện phát triển nông
nghiệp trong đó lúa là cây lương thực chính. Ở đây điều kiện tự nhiên khá thuận lợi
cho việc thâm canh tăng vụ, vừa có thể gieo trông lúa nước, vừa trồng các loại rau
màu, ngô, khoai, đậu, lạc, phát triển chăn nuôi. Ngoài việc trồng cây lương thực và
rau màu, Quảng Trạch có hàng trăm hécta mặt nước có khả năng nuôi và đánh bắt
thủy sản, tạo thành một nguồn thu nhập quan trọng trong kinh tế gia đình. Sản xuất
nông nghiệp tuy còn khó khăn, phụ thuộc vào thiên nhiên nhưng từ xưa tới nay


10
Quảng Trạch vẫn được coi là một trong những vựa lúa của tỉnh Quảng Bình.
Bên cạnh sản xuất nông nghiệp, Quảng Trạch cũng có nhiều nghề thủ công
đáng chú ý là nghề làm nón lá ở Quảng Thọ, Quảng Thuận, nghề mây tre đan ở
Quảng Văn, Quảng Lộc, nghề rèn ở Quảng Hòa... những nghề thủ công này đã góp
phần làm cho kinh tế Quảng Trạch thêm đa dạng.
Quảng Trạch có đường quốc lộ 1A, quốc lộ 12A và tuyến đường sắt Bắc Nam đi qua nên rất thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế và phát triển thương mại,
dịch vụ với các trung tâm kinh tế lớn của cả nước. Đặc biệt ở Quảng Trạch có các
nhà máy sản xuất xi măng, vật liệu xây dựng dựa trên việc khai thác các núi đá vôi.
Đồng thời Quảng Trạch cũng có hệ thống vận tải bằng đường thủy tiêu biểu là cảng

biển Hòn La đã phục vụ tối đa cho nhu cầu vận chuyển hàng hóa trên địa bàn cũng
như các khu công nghiệp lân cận nhất là khu công nghiệp Vũng Áng ở Hà Tĩnh.
Trong những năm qua, cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
tỉnh và cả nước, các ngành kinh tế của huyện đã có những bước phát triển đáng kể ở
hầu hết các ngành, các lĩnh vực từ nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản đến công
nghiệp, xây dựng cơ bản, tiểu thủ công nghiệp và thương mại dịch vụ, đặc biệt là
nhóm ngành công nghiệp đã tạo đà cho quá trình hòa chung công cuộc công nghiệp
hóa - hiện đại hóa của đất nước. Đồng thời phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
cũng tạo cơ sở cho sự phát triển các lĩnh vực xã hội như giáo dục, y tế, văn hóa...
cải thiện đáng kể đời sống người dân trên địa bàn.
1.2.2 Đặc điểm xã hội
Quảng Trạch có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, từ thời Hùng Vương
thuộc bộ Việt Thường. Cùng với sự phát triển đầy biến động của nước nhà, Quảng
Trạch đã trải qua nhiều tên gọi khác nhau, năm Minh Mạng thứ 18, vùng đất này
được đặt tên là Phủ Quảng Trạch gồm có 5 tổng và 93 làng, tên gọi này tồn tại đến
tháng 8 năm 1945. Sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945, huyện Quảng Trạch được
chia làm 8 xã. Với sự phát triển, thay đổi của đất nước, qua các chặng dường lịch
sử, trước khi chia tách Quảng Trạch có 33 xã và 1 thị trấn.
Năm 2012, dân số của huyện Quảng Trạch có 210.738 người trên tổng diện


11
tích 613 km2 với mật độ dân số vào khoảng 339 người/km2. Tuy nhiên, trong những
ngày đầu khai hoang lập huyện, Quảng Trạch mới chỉ có khoảng 2.389 người. Họ
đến đây từ nhiều miền quê, có nhiều dòng họ và thuộc nhiều thành phần xã hội khác
nhau nhưng lại cùng chung một mục đích: khai khẩn đất hoang, biến nơi đây thành
những vùng đất phì nhiêu để xây dựng một cuộc sống mới. Họ là những người dân
thông minh, sáng tạo, dũng cảm, biết chịu đựng gian khổ, bất khuất, kiên cường
chống chọi lại với thiên nhiên khắc nghiệt để khai hoang. Điều này góp phần làm
nên tính cách của người dân Quảng Trạch hiện nay. Ở Quảng Trạch không có một

làng, xã nào không có sự du nhập, sự đan xen cư dân của các huyện, các tỉnh khác
đến. Vì vậy, Quảng Trạch có bản sắc văn hóa đa dạng nhưng chưa được định hình
bền vững và rõ nét. Tuy vậy, vì yêu cầu cuộc sống đòi hỏi phải gắn bó với nhau để
chống chọi với thiên nhiên, đấu tranh chống áp bức, bất công xã hội nên đã sớm
hình thành truyền thống đoàn kết của cư dân huyện Quảng Trạch.
Nhìn chung lực lượng lao động chủ yếu tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp
và tiểu thủ công nghiệp, bên cạnh đó còn có một bộ phận không nhỏ người lao động
ở một số xã tham gia vào lĩnh vực ngư nghiệp, nuôi trồng thủy hải sản.
Ngay trong những ngày đầu khai phá, bên cạnh đồng bào lương giáo thì
những đồng bào công giáo cũng có mặt ở đây rất sớm. Chính trong những điều kiện
lao động khó khăn, vất vả ban đầu mà tinh thần đoàn kết của những đồng bào nơi
đây ngày càng được củng cố. Hiện nay, Quảng Trạch có 1 tôn giáo chính đó là Công
giáo. Đồng bào theo đạo Công giáo chiếm khoảng 27% dân số, cả huyện có 21 nhà
thờ. Ở đây, đồng bào theo Công giáo đang sống theo phương châm tốt đời đẹp đạo,
phúc âm giữa lòng dân tộc, góp phần quan trọng trong cuộc cuộc bảo vệ và xây
dựng quê hương. Do có truyền thống đoàn kết ngay từ trong những ngày đầu tiên
nên người dân ở đây ít có sự phân biệt về tôn giáo, dù kẻ địch có lợi dụng, phá hoại
thì tinh thần đoàn kết của nhân dân vẫn được đề cao.
Với vị trí địa lý đặc biệt, nơi giao thoa của hai nền văn hóa Đại Việt - Chăm
Pa, dân cư Quảng Trạch có nền văn hóa đa sắc diện, mang tính đặc trưng riêng.
Cùng với những miền đất khác trong tỉnh, huyện Quảng Trạch là địa phương có bề


12
dày văn hóa đáng kể. Nằm trong hệ thống văn hóa nông nghiệp nói chung, người
dân Quảng Trạch theo tín ngưỡng đa thần. Họ thờ cúng tổ tiên, ông bà, đồng thời
cũng tôn thờ thành hoàng, thần linh những vị có công đức với làng, với dân. Các tập
tục lễ hội ở đây phong phú đa dạng nhưng rất quy cũ, thể hiện sự nề nếp và có tác
dụng cố kết cộng đồng.
1.3 Khái quát về tình hình hình - xã hội huyện Quảng Trạch giai đoạn

1975 - 1985
1.3.1 Khái quát về tình hình kinh tế huyện Quảng Trạch giai đoạn 1975 1985
Sau ngày đất nước thống nhất, nhân dân huyện Quảng Trạch đã trải qua 13
năm hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế trong cơ cấu hành chính tỉnh
Bình Trị Thiên. Tuy nhiên, do hậu quả nặng nề của chiến tranh để lại cùng với
những bất cập trong chỉ đạo, điều hành, quản lý nên việc khôi phục kinh tế gặp
nhiều khó khăn. Các ngành kinh tế chủ yếu bị đình đốn, lâm vào tình trạng suy
thoái. Sản xuất trong huyện không đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, một số nhu cầu thiết
yếu của đời sống chỉ cân đối được ở mức thấp.
Giá cả thị trường không ổn định, ngân sách bội chi lớn. Bình quân lương
thực đầu người đạt thấp “năm 1985 là 240 kg/người, chỉ đáp ứng 80% nhu cầu khu
vực ở nông thôn, 75% nhu cầu xã hội”[70, tr. 7]. Hàng năm, tỉnh phải viện trợ lương
thực với khối lượng lớn để cân đối phần thiếu hụt. Hầu hết vật tư kỹ thuật, trang
thiết bị sản xuất, xây dựng, hàng hóa phục vụ sinh hoạt đều phụ thuộc bên ngoài,
nhất là các sản phẩm công nghiệp phục vụ may mặc, đi lại, học tập… Hệ thống giao
thông vận tải, thông tin liên lạc chậm khắc phục sửa chữa, bị chia cắt. Các công
trình phục vụ giáo dục, y tế, văn hóa bị xuống cấp nghiêm trọng, có những công
trình văn hóa bị phá hủy hoàn toàn. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân bị
giảm sút, nhiều mặt xã hội không ổn định.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (12/1977), Đại hội
đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Trị Thiên lần thứ nhất (19 - 23/5/1977) đã quyết định
“tập trung sản xuất lương thực, thực phẩm đề làm trọn nhiệm vụ hậu cần tại chỗ cho


13
công nghiệp phát triển và cải tạo đời sống nhân dân”[13, tr. 23].
Xuất phát từ đường lối kinh tế của Đảng, Nghị quyết 23, 24 (1977) của
Trung ương và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh, Đảng bộ huyện Quảng Trạch đã
xác định 4 thế mạnh để phát triển kinh tế của huyện là: lương thực, vật liệu xây
dựng, cây công nghiệp và chăn nuôi.

Trên cơ sở phân tích mặt mạnh, mặt yếu của huyện, Đại hội đại biểu huyện
Quảng Trạch lần thứ XIII đã khẳng định:
Ra sức phát triển sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, công nghiệp và thủ công
nghiệp một cách toàn diện, ổn định và đảm bảo đời sống nhân dân. Tích cực thâm
canh cây trồng và chăn nuôi phát triển ngành giao thông, thủy lợi. Củng cố, hoàn
thiện quan hệ sản xuất, ra sức cải tiến quản lý kinh tế, quản lý xã hội, lưu thông
phân phối, tăng cường xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, bảo vệ an ninh, sẵn sàng
chiến đấu chống quân xâm lược, bảo vệ Tổ quốc.[4, tr. 32].
Về nông nghiệp, thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XIII, huyện
tập trung phát triển theo hướng thâm canh, tăng vụ đi đôi với tổ chức lại sản xuất,
đẩy mạnh khai hoang, cải tiến kĩ thuật canh tác. Với ý chí tự lực tự cường, vượt qua
mọi khó khăn trước mắt, năm 1977 huyện đã thu được kết quả “tổng sản lượng
lương thực năm 1977 đạt 22.000 tấn, năm 1979 đạt 26.676 tấn”[5, Tr 24].
Ngày 13 tháng 1 năm 1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 100 CT/TW về “Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm
và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp (gọi tắt là “Khoán 100”)” [19, tr.3].
Quán triệt Chỉ thị số 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Huyện ủy đã lãnh đạo
nhân dân trong huyện nêu cao lòng yêu nước, phát huy ý thức tự lực, tự cường để
vượt qua mọi khó khăn giành các mục tiêu về kinh tế - xã hội đã đề ra.
Đến tháng 7 năm 1981, toàn huyện có 35 hợp tác xã thực hiện khoán sản
phẩm đến nhóm và người lao động. Chỉ thị số 100 “đã thúc đẩy sản xuất phát triển,
củng cố được một bước công tác quản lý,... quần chúng tin tưởng phấn khởi, ba lợi
ích được đảm bảo, quyền làm chủ tập thể của xã viên được tôn trọng và phát huy
một cách thiết thực" [15, tr. 28]. Những tín hiệu bước đầu trong thực hiện Chỉ thị


14
100 và tiến hành đổi mới cục bộ trên các mặt sản xuất công nghiệp, phân phối và
lưu thông theo tinh thần chỉ đạo của tỉnh trên địa bàn Quảng Bình nói chung và
huyện Quảng Trạch nói riêng cho thấy đổi mới kinh tế là xu thế khách quan đáp ứng
yêu cầu thực tiễn và quy luật phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội đối với cách mạng

Việt Nam.
Với việc thực hiện cơ chế khoán sản phẩm, nông dân phấn khởi hăng hái lao
động sản xuất, bộ máy quản lý được cải tiến gọn nhẹ, hiệu quả sản xuất tăng lên rõ
rệt. Sản xuất lương thực có những bước tiến bộ đáng kể, diện tích ngày càng mở
rộng, nhất là trong “vụ đông xuân năm 1982 diện tích gieo trồng lên đến 350 ha là
năm có diện tích sản xuất cao nhất, góp phần nâng sản lượng lương thực cả năm của
toàn huyện đạt 2,8 vạn tấn” [15, tr. 32].
Nguyên nhân dẫn đến sản lượng lương thực tăng bắt nguồn từ việc diện tích
gieo trồng được mở rộng ở một số xã, trong thời gian này huyện cũng đã thực hiện
nhiều chính sách nhằm khuyến khích người dân tập trung phát triển sản xuất, như
mở rộng hệ thống kênh mương, áp dụng một số loại giống mới năng suất cao,
Trong chăn nuôi cũng có bước phát triển, “đàn lợn năm 1978 có 38.000 con
tăng 19,7% so với năm 1977”[5, tr. 14], tuy vậy quy mô chăn nuôi vẫn còn nhỏ lẻ
chưa mang lại hiệu quả cao.
Thực hiện đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế qua việc triển khai thực hiện
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khóa IV) tháng 8/1979, Nghị quyết số
26-NQ/TW ngày 23/6/1980 của Bộ Chính trị về Cải tiến công tác phân phối, lưu
thông (tài chính, tiền tệ, giá cả, tiền lương, thương nghiệp và quản lý thị trường).
Huyện Quảng Trạch đã chủ động thực hiện phân phối và điều tiết lưu thông hàng
hóa, tạo điều kiện cho việc phân phối và lưu thông hàng hóa trở nên thuận lợi hơn.
Nhờ vậy, tình hình cung ứng lương thực thực phẩm bớt gay gắt. Thị trường hàng
hóa trở nên sôi động hơn.
Trong lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, huyện đã thực hiện nhiều
biện pháp, cách thức tổ chức sản xuất của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
và đề ra chủ trương cụ thể, hình thức tổ chức đối với các thành phần kinh tế. Trên


15
tinh thần đó, nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế phát triển
nhanh chóng, đặc biệt đã khơi dậy các ngành nghề truyền thống của nhân dân và

các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế cá thể, kinh tế gia đình được khuyến khích.
Hệ thống thương nghiệp với chợ làng, chợ phiên vốn đóng vai trò quan trọng
trong việc giao lưu, trao đổi hàng hóa của người dân thời kỳ trước vẫn tiếp tục giữ
vị trí quan trọng trong quá trình trao đổi và buôn bán hàng hóa giữa các địa phương.
Trong giai đoạn này, bên cạnh hệ thống thương nghiệp truyền thống tiếp tục tồn tại
và phát triển nhiều loại hình khác như hợp tác xã mua bán, tín dụng đang ngày càng
được củng cố, tổ chức và nâng cao khả năng quản lý, phục vụ tốt hơn cho sản xuất
cũng như phân phối lưu thông, đáp ứng nhu yếu phẩm của đời sống nhân dân.
Lĩnh vực giao thông vận tải và thông tin liên lạc, sau ngày giải phóng các
tuyến đường từng bước được khôi phục. Tuyến đường bộ được liên thông, nối liền
các xã trong huyện và các huyện khác trong tỉnh. Giao thông thuận tiện chính là
điều kiện để thúc đẩy sản xuất và buôn bán phát triển. Trong những năm 1975 1985, trên cơ sở tiềm năng và thế mạnh về hệ thống giao thông, huyện Quảng Trạch
đã khai thác có hiệu quả các phương tiện vận tải hiện có, phát triển lực lượng vận
tải đường bộ, đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa, đi lại của nhân dân.
Cùng với ngành giao thông, hệ thống thông tin liên lạc cũng được chú trọng
phát triển, mạng lưới thông tin liên lạc được mở rộng, phục vụ các nơi trọng điểm
sản xuất, vùng kinh tế mới bảo đảm thông tin liên lạc thường xuyên, thông suốt,
nhanh chóng, bí mật, an toàn từ xã lên huyện và từ huyện về cơ sở nhất là những lúc
thời tiết xấu.
Bên cạnh những kết quả đạt được, nhìn chung kinh tế huyện Quảng Trạch
trong giai đoạn này vẫn còn nhiều hạn chế nên chưa khai thác hết được những thế
mạnh của huyện. Sản xuất phát triển chậm, năng suất thấp, chưa đáp ứng yêu cầu
của đời sống và sẵn sàng chiến đấu; tinh thần làm chủ tập thể của nhân dân lao động
chưa được phát huy mạnh mẽ, còn nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Trong
nông nghiệp chưa chuyển mạnh vào thâm canh nhất là phân, giống, thời vụ đều
kém. Năng suất thấp, mở rộng diện tích sản xuất chưa đi đôi với thâm canh, tăng vụ,


16
chưa coi trọng phân bổ lao động trong nông nghiệp. Công tác quản lý kinh tế và khu

vực quốc doanh tập thể và kinh tế phụ gia đình còn nhiều khuyết điểm, làm cho sản
xuất phát triển chậm.
Việc tổ chức lại sản xuất, xây dựng huyện còn yếu. Việc củng cố và tăng
cường công tác quản lý kinh tế trong các hợp tác xã và xí nghiệp quốc doanh nhìn
chung còn yếu kém về nhiều mặt, nhất là xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất,
quản lý và sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn và phân phối sản phẩm còn lúng túng
và có nơi còn tùy tiện. Vì vậy, sản xuất chậm phát triển, năng suất lao động thấp, giá
thành cao và một số nơi bị lỗ vốn, diện trung bình và yếu kém còn trên 50%. Các
cấp, các ngành chưa nhận thức đầy đủ về ứng dụng khoa học kĩ thuật là then chốt
nên việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn kém.
1.3.2 Khái quát về tình hình xã hội huyện Quảng Trạch giai đoạn 1975 - 1985
* Giáo dục
Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước nên giáo dục tiếp tục phát triển, có
chuyển biến về chất lượng giáo dục toàn diện, phát huy được những kinh nghiệm,
điển hình là phong trào dạy tốt - học tốt, duy trì và giữ vững chất lượng học tập qua
các năm học. Phong trào bổ túc văn hóa phát triển mạnh, nhất là trong hai năm
1980, 1981. “Toàn huyện đã phổ cập cấp I cho 100%, cấp II cho 60% số xã, thị trấn
bao gồm các đối tượng cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh niên”[5, tr 38]. Khối mẫu
giáo đã thu hút trên 50% số cháu đến lớp. Sự nghiệp nuôi dạy trẻ có nhiều tiến bộ,
hàng năm thu nhận gần 4000 cháu vào nhà trẻ.
* Y tế
Sau năm 1975, huyện Quảng Trạch có một đội ngũ y sĩ, y tá khá mạnh giúp
người dân chữa bệnh và phòng bệnh. Các trạm y tế được phát triển, trình độ của cán
bộ y tế được nâng cao, phương tiện phục vụ tốt hơn, một số nơi đã trồng cây thuốc
nam tại chỗ để phục vụ cho nhu cầu khám chữa bệnh. Giai đoạn 1981 - 1985, công
tác y tế có những chuyển biện tích cực, trong chữa trị đã kết hợp Đông y và Tây y.
Công tác phòng chống dịch bệnh được quan tâm đúng mức, công tác tiêm phòng,
khám và điều trị bệnh thông thường bước đầu được đảm bảo



17
* Văn hóa văn nghệ, an ninh quốc phòng
Phong trào thể dục thể thao, rèn luyện thân thể được chú ý, nhất là trong các
trường học, xí nghiệp, cơ quan và lực lượng vũ trang được nâng lên. Hoạt động văn
hóa thông tin đã tích cực bám sát nhiệm vụ chính trị, kịp thời tuyên truyền các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tuyên truyền gương người tốt, việc tốt
đấu tranh phê phán các hiện tượng tiêu cực, góp phần khích lệ, động viên phong
trào cách mạng trong quần chúng.
Công tác an ninh quốc phòng được quan tâm, mạng lưới an ninh tại địa
phương được xây dựng làm cho người dân nhận thức rõ về chính trị, tin tưởng vào
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đồng thời xây dựng lực
lượng dân quân tại chỗ theo chủ trương của Đảng với phương châm: bình là dân,
chiến là lính. Vì thế, công tác quốc phòng được chuẩn bị chu đáo, sẵn sàng đối phó
với mọi tình huống.
Công tác thương binh xã hội có nhiều cố gắng trong tạo việc làm giúp đỡ các
đối tượng chính sách, giải quyết kịp thời các chế độ, làm tốt công tác toàn dân chăm
sóc, giáo dục, đỡ đầu con liệt sỹ; thúc đẩy phong trào thi đua xây dựng nếp sống
văn minh, gia đình văn hóa mới, làm cho các đối tượng hiểu rõ hơn tình hình đất
nước tự giác tham gia sản xuất, công tác, giảm bớt hiện tượng tiêu cực.
Nhìn chung, sau ngày đất nước thống nhất, đặc biệt là từ sau khi thành lập
tỉnh Bình Trị Thiên, huyện Quảng Trạch đã tranh thủ mọi thời cơ, huy động mọi
nguồn lực để khôi phục kinh tế, ổn định đời sống, từng bước vượt qua thời kỳ suy
thoái kinh tế để bước sang giai đoạn phát triển mới.
Các lĩnh vực văn hóa, xã hội được quan tâm đầu tư phát triển. Nhiều thiết
chế văn hóa xã hội từng bước xây dựng, tạo môi trường văn hóa lành mạnh trong
nhân dân, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa cộng đồng, đặc biệt là thế hệ trẻ. Cuối
năm 1985 huyện Quảng Trạch cơ bản giải quyết được những vấn đề then chốt trong
đời sống xã hội như an ninh lương thực, bước đầu khai thác được nguồn lực địa
phương cho đầu tư phát triển theo hướng nâng cao hiệu quả thực tế của sản xuất,
huy động mọi khả năng có thể để thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn cho tỉnh Bình



×