Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tiểu luận Công tác xã hội với Người khuyết tật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (78.16 KB, 12 trang )

1. Đặt vấn đề
Theo thống kê, trên thế giới có khoảng 10% người khuyết tật tương đương
với 650 triệu người (khảo sát năm 2007). Việt Nam có khoảng 6,1 triệu người
khuyết tật, tương đương 7,8% dân số (thống kê của báo điện tử Dân Trí, 20-022011). Phần lớn người khuyết tật tại Việt Nam sống ở khu vực nông thôn và
tham gia học tập ở mức thấp hơn rất nhiều so với người không khuyết tật. Gần
37% người khuyết tật trưởng thành bị mù chữ so với tỷ lệ 10% của dân số
không khuyết tật (thống kê của USAID, 2009). Người khuyết tật gặp nhiều khó
khăn trong môi trường làm việc, rất ít người có công việc ổn định và thu nhập
thường xuyên. Rất nhiều người khuyết tật không được làm việc ở khối việc làm
chính thức. Nhìn chung, tỷ lệ người khuyết tật thất nghiệp cao hơn khoảng 30%.
Với trình độ giáo dục và đào tạo thấp, hầu hết người khuyết tật phải dựa vào
những mối quan hệ gia đình để tìm việc, gần 33% hộ gia đình có thành viên là
người khuyết tật sống dưới mức nghèo (thống kê của Handicap International,
2009).
Thực tế cho thấy nếu không hòa nhập xã hội, cuộc sống của người khuyết
tật sẽ hết sức khó khăn. Phần lớn xã hội nhìn nhận người khuyết tật là những
người không bình thường và đầy khiếm khuyết, sự kỳ thị này là một trong
những lý do lớn để gạt họ ra khỏi cuộc sống xã hội. Họ không được chăm sóc
sức khỏe thỏa đáng, không có bạn bè và thậm chí không có cơ hội học tập. Do
không được tạo điều kiện học tập nên người khuyết tật thiếu kiến thức và kỹ
năng sống, dẫn đến mất cơ hội việc làm và không tham gia vào hoạt động lao
động trong xã hội. Các nhóm người khuyết tật có nhiều bất cập, thách thức với
sự thích ứng trong cuộc sống do khó khăn về kinh nghiệm sống, về sức khỏe và
khả năng thu nhập. Trong khi đó, sự hòa nhập xã hội là một trong những điều
kiện quan trọng hàng đầu giúp người khuyết tật sống và tồn tại. Xuất phát từ
những lý do trên, em đi vào nghiên cứu đề tài “Tiếp cận vì sự hòa nhập của
Người khuyết tật tại Thành phố Hồ Chí Minh”.

1



2. Nội dung
Tìm hiểu thực trạng nhu cầu hòa nhập xã hội của người khuyết tật, những
yếu tố dẫn đến nhu cầu hòa nhập xã hội của người khuyết tật. Từ đó đề xuất ra
một số giải pháp giúp người khuyết tật dễ dàng hòa nhập xã hội hơn.
2.1. Tình hình chung
Người khuyết tật gặp khó khăn trong giao tiếp với bạn bè, với những người
xung quanh và khó khăn trong tạo dựng hôn nhân gia đình.
Người khuyết tật mong muốn được tạo điều kiện để học tập, làm việc phù
hợp với bản thân và mong muốn được sự tôn trọng, thừa nhận của những người
xung quanh.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu hòa nhập xã hội của người khuyết
tật bao gồm cả yếu tố khách quan và chủ quan.
2.2. Tình hình tại địa phương
ST
T
1
2
3
4
5
6
7
8
9

Khó khăn

Tần số

Khó khăn trong tìm việc làm

Khó khăn trong việc tạo dựng mối quan
hệ hôn nhân gia đình
Khó khăn trong việc tạo ra thu nhập để
nuôi sống bản thân
Trong việc học tập, học nghề, tiếp cận với
tri thức
Trong mối quan hệ giao tiếp với đồng
nghiệp
Trong mối quan hệ giao tiếp với bạn bè
Khó có được sự thừa nhận từ những
người xung quanh
Mặc cảm, tủi thân về khiếm khuyết của
bản thân
Trong mối quan hệ giao tiếp với gia đình

2

Tỉ lệ (%)

63
54

78.8
67.5

54

67.5

39


48.8

38

47.5

37
34

46.2
42.5

34

42.5

24

30


Kết quả thống kê tại Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy khó khăn lớn nhất
mà người khuyết tật gặp phải là “tìm việc làm”, chiếm tỉ lệ là 78,8%. Người
khuyết tật gặp nhiều khó khăn bởi vì học vấn thấp, học nghề khó khăn,… Việc
đào tạo nghề khó đáp ứng được nhu cầu tuyển dụng. Nhất là việc làm dành cho
người khuyết tật không nhiều và không đa dạng. Doanh nghiệp cũng chưa có
nhận thức đúng về người khuyết tật. Chính vì không tìm được việc làm nên
người khuyết tật khó có cơ hội để tạo ra thu nhập và gây khó khăn trong việc tự
lập, giúp ích cho gia đình, xã hội, từ đó họ cảm thấy tự ti, mặc cảm dẫn đến khó

hòa nhập xã hội.
Các khó khăn có tỉ lệ cao (trên 60%) là khó khăn trong việc tạo dựng mối
quan hệ hôn nhân, trong việc tạo ra thu nhập để nuôi sống bản thân. Ta có thể
thấy rằng, để người khuyết tật tìm được việc làm đã khó, việc có được thu nhập
đủ để trang trải cho cuộc sống còn khó hơn. Hầu như người khuyết tật đều được
trả lương khá thấp và không có cơ hội thăng tiến trong công việc. Chính điều đó
cũng làm cho việc duy trì hôn nhân của người khuyết tật hiện nay đang gặp rất
nhiều trở ngại trong chăm sóc con cái và đảm bảo điều kiện sống gia đình.
2.2.1. Tiếp cận thông tin
Việc tiếp cận thông tin của người khuyết tật có sự liên hệ chặt chẽ với khả
năng tiếp cận cơ sở vật chất của họ. người khuyết tật đặc biệt là người
khuyết tật tại những khu vực kém phát triển, rất khó khăn để tiếp cận với
các nguồn lực vật chất bao hàm cả việc tiếp cận truyền thông, thông tin, do
đó khả năng tiếp cận với các thông tin khác nhau liên quan đến đời sống của họ
đều bị giới hạn.
Truyền thông và công nghệ thông tin tiếp cận là phương diện khác của sự
tiếp cận, giúp cho người khuyết tật có thể tiếp cân được với công nghệ
thông tin cùng các dịch vụ của nó với những khoảng cách rào cản, tức là
giảm thiểu tối đa cản trở với các nguồn lực đặc thù này.
Khó khăn cơ bản trong việc tiếp cận thông tin của người khuyết tật hiện
nay khả năng tiếp cận thông tin dịch vụ của người khuyết tật còn gặp
3


nhiều khó khăn. Một số rào cản hành chính và liên quan đến chương trình ngăn
cản các gia đình tiếp cận và sử dụng các hỗ trợ bao gồm thiếu thông tin, các
tiêu chuẩn điều kiện còn hạn chế, thủ tục hành chính rườm rà và không linh
hoạt của các dịch vụ.
Khó khăn trong tiếp cận thông tin, tư vấn tâm lý đời sống của người
khuyết tật, bản thân người khuyết tật vẫn luôn tồn tại những nhu cầu tâm lý,

tình
cảm, tình dục. Họ mong muốn được hỗ trợ, hướng dẫn, tìm hiểu những
thông tin này nhưng thực tế ít khi có sự quan tâm và hiếm những hỗ trợ
đáp ứng được những mong muốn này của họ. Tâm lý của khá đông
người khuyết tật là mặc cảm, tự đánh giá thấp bản thân mình so với
những người bình thường khác. Ở những người mà khuyết tật nhìn thấy
được - chẳng hạn như khuyết chi - họ có các biểu hiện tâm lý giống như
mặc cảm ngoại hình (Body Dysmorphic Disorder), tức là sự chú trọng
quá mức đến khiếm khuyết cơ thể đến nỗi gây khổ đau lớn - mặc dù vậy
trong tâm lý học, mặc cảm ngoại hình không được chẩn đoán cho người
có khiếm khuyết cơ thể nghiêm trọng, rối loạn tâm lý này chỉ hướng tới
những người có khiếm khuyết nhỏ nhưng lại cứ cường điệu chúng lên.
Tiếp đến một ảnh hưởng khác cần xét đến là ám ảnh sợ xã hội một kiểu
trốn tránh và sợ hãi khi thực hiện các hoạt động mang tính cộng đồng
như giao lưu gặp gỡ ở chỗ đông người. Tuy nhiên điều này không phải
luôn luôn đúng, người ta nhận thấy ở nhiều người khuyết tật nỗ lực tồn
tại và phát triển đặc biệt cao.
Chương trình dạy ngôn ngữ ký hiệu trên truyền hình ra đời nhằm giúp
người khiếm thính cùng gia đình và những người quan tâm có thể học ngôn
ngữ ký hiệu từ xa, là hoạt động nhân văn và thiết thực, góp phần thực hiện
Công ước Quốc tế về Quyền của Người khuyết tật và Luật Người khuyết tật
nhằm xây dựng một xã hội hòa nhập - không rào cản đối với người khiếm
thính.
4


Nhìn chung tại Thành phố Hồ Chí Minh, người khuyết tật rất được sự quan
tâm, chăm sóc và giúp đỡ, qua những kênh thông tin họ có thể tiếp cận, hòa
nhập với xã hội rất nhanh và dễ dàng.
2.2.2. Tiếp cận chính sách

Những năm qua, Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư, tài trợ về
tài chính, kỹ thuật để chăm sóc, giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm, cung cấp dịch
vụ khác trợ giúp người khuyết tật. Theo đó, người khuyết tật được nhập học ở
độ tuổi cao hơn so với độ tuổi quy định đối với giáo dục phổ thông; được ưu
tiên trong tuyển sinh; được miễn, giảm một số môn học mà khả năng của cá
nhân không thể đáp ứng; được miễn, giảm học phí, chi phí đào tạo; được xét cấp
học bổng, hỗ trợ phương tiện, đồ dùng học tập... Bên cạnh đó, Nhà nước bảo
đảm để người khuyết tật được tư vấn học nghề miễn phí, lựa chọn và học nghề
theo khả năng, năng lực bình đẳng như những người khác. Cơ sở dạy nghề tổ
chức dạy nghề cho người khuyết tật bảo đảm điều kiện dạy nghề cho người
khuyết tật và được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật.
Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động là người khuyết
tật thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật về lao động đối với lao động là
người khuyết tật. Ngoài ra, người khuyết tật tự tạo việc làm hoặc hộ gia đình tạo
việc làm cho người khuyết tật được vay vốn với lãi suất ưu đãi để sản xuất kinh
doanh, được hướng dẫn về sản xuất, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ tiêu thụ sản
phẩm theo quy định của Chính phủ. Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức và
doanh nghiệp nhận người khuyết tật vào làm việc.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh hầu hết người khuyết tật đều tiếp cận được
chính sách sách mà nhà nước ban hành bên cạnh việc dạy nghề và tạo việc làm,
Nhà nước cũng tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du
lịch cho người khuyết tật. Cùng với đó là hoạt động chăm sóc sức khỏe và phục
hồi chức năng giúp người khuyết tật tự tin hòa nhập cộng đồng.
2.2.3. Tiếp cận dịch vụ xã hội

5


Nhà nước bảo đảm cho người khuyết tật tham gia bình đẳng vào các hoạt
động xã hội; sống độc lập, hòa nhập cộng đồng; được miễn hoặc giảm một số

khoản đóng góp cho các hoạt động xã hội; được chăm sóc sức khỏe, phục hồi
chức năng, học văn hóa, học nghề, việc làm, trợ giúp pháp lý, tiếp cận công
trình công cộng, phương tiện giao thông, công nghệ thông tin, dịch vụ văn hóa,
thể thao, du lịch và dịch vụ khác phù hợp với dạng tật và mức độ khuyết tật; và
được thụ hưởng các quyền khác theo quy định của pháp luật. Và người khuyết
tật thực hiện các nghĩa vụ công dân theo quy định của pháp luật.
2.2.4. Tiếp cận giáo dục
Thực hiện Luật giáo dục, Pháp lệnh về người tàn tật, Chính phủ, các bộ
ngành, địa phương đã có nhiều quan tâm tạo điều kiện để người khuyết tật
tiếp cận dịch vụ giáo dục. Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã có nhiều chính sách
hỗ trợ người khuyết tật đến trường như miễn giảm tiền học phí cho
người khuyết tật nghèo, hỗ trợ về vay ưu đãi cho người khuyết tật đi học các
trường đào tạo chuyên nghiệp, cùng với các đoàn thể nhân dân tuyên truyền
vận động nhân dân nơi cư trú, gia đình tạo điều kiện thuận lợi để người
khuyết tật đến trường, tuyên truyền, lên án các hành vi phân biệt đối xử, kỳ
thị đối với người khuyết tật.
Hiện này hầu hết những người khuyết tật trong độ tuổi đều được đến
trường và được tạo những điều kiện thuận lợi để theo học các ngành, nghề phù
hợp với khả năng, sức khoẻ của họ.
Đây là một yếu tố vô cùng quan trọng để người khuyết tật có thể hoà
nhập với cuộc sống cộng đồng. Ngoài việc giúp người khuyết tật tiếp cận với
hệ thống giáo dục quốc dân- giáo dục hoà nhập, thì Sở Lao động- Thương
binh và Xã hội còn phối hợp với các gia đình và 02 cơ quan là Trung tâm Kỹ
thuật Chỉnh hình và phục hồi chức năng và Trung tâm phục hồi chức năng
Việt- Hàn đưa một số em khuyết tật vào các lớp giáo dục đặc biệt. Đây là
những trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hoà nhập được trang bị những thiết
bị, có nội dung, chương trình và phương thức giáo dục phù hợp với các đặc
6



điểm, hoàn cảnh của người khuyết tật. Các lớp học này bước đầu đã thu được
những kết quả khả quan.
Bên cạnh những kết quả đạt được thì công tác trợ giúp người khuyết tật
tiếp cận với những dịch vụ giáo dục trên địa bàn vẫn còn những hạn chế. Tính
đến thời điểm hiện nay, thị xã vẫn còn gần một bộ phận nhỏ người khuyết tật
mù chữ. Tuy nhiên số người này chủ yếu là đối tượng trung và cao tuổi. Điều
này là một khó khăn lớn trong việc giúp họ tiếp cận với giáo dục.
2.2.5. Tiếp cận môi trường việc làm, văn hóa, thể thao
Học nghề là một nhu cầu quan trọng đối với người khuyết tật, bởi
nghề nghiệp là điều kiện quan trọng để họ có thể tiếp cận với việc làm, tạo
thu nhập đảm bảo cuộc sống. Nhận thức được tầm quan trọng của việc dạy
nghề cho người khuyết tật, chính quyền đã có nhiều chính sách hỗ trợ
họ trong việc giúp họ tiếp cận với việc học nghề. Một điều kiện thuận lợi là
trên địa bàn có một số các trường đào tạo và dạy nghề cho người khuyết tật là
điều kiện thuận lợi để người khuyết tật có thể tiếp cận với việc học nghề.
Tuy nhiên, những trường nghề này có những đòi hỏi nhất định về học vấn,
sức khoẻ và tài chính nên không phải người khuyết tật nào cũng có khả năng
theo học những trường đó mặc dù nhà nước đã có những chính sách hỗ trợ
về học phí và vay ưu đãi cho người khuyết tật.
Thực hiện các chính sách giải pháp tạo việc làm người khuyết tật, Thành
phố hiện có nhiều doanh nghiệp và cơ sở sản xuất, kinh doanh có người khuyết
tật đang làm việc, tạo việc làm ổn định cho lao động là người khuyết tật tại
Thành phố và các tỉnh lân cận. Việc giúp đỡ người khuyết tật trong việc tiếp
cận với việc làm đã góp phần to lớn để họ có thu nhập tự đảm bảo cuộc sống,
thấy cuộc sống có ý nghĩa, có niềm tin vàơ cuộc sống và tự tin hoà nhập cộng
đồng.
Bên cạnh những kết quả đạt được như vậy thì vẫn còn những hạn chế
nhất định, đó là hiện trên địa bàn Thành phố vẫn còn một số người khuyết tật có
7



khả năng lao động nhưng thiếu hoặc chưa có việc làm. Điều này đặt ra yêu cầu
phải có sự quan tâm giúp đỡ hơn nữa của chính quyền, cộng đồng
dân cư, gia đình người khuyết tật để tạo ra cơ hội tiếp cận nghề nghiệp và việc
làm cho họ và sự nỗ từ phía người khuyết tật cũng là một yếu tố vô cùng quan
trọng trong vấn đề tạo và tìm việc làm.
Trong những năm qua nhiều hoạt động văn hóa, thể thao đã được tổ
chức từ Trung ương đến địa phương. Các hoạt động văn hoá, thể thao, giải trí
của người khuyết tật ngày càng được quan tâm, nhiều cuộc thi đấu thể thao
được tổ chức để người khuyết tật được tham gia hoạt động góp phần tăng
cường sức khỏe, cải thiện đời sống tinh thần người khuyết tật xóa bỏ mặc
cảm. Tham gia hoạt động thể dục thể thao giúp người khuyết tật hòa nhập
cộng đồng.
Mặc dù kinh phí còn hạn chế nhưng hàng năm vẫn hỗ trợ kinh
phí cho câu lạc bộ thể thao người khuyết tật hoạt động, Trung tâm thể dục thể
thao của từng Quận đã tạo những điều kiện về vật chất để câu lạc bộ thể thao
người khuyết tật luyện tập.
Tuy nhiên, phong trào văn hóa, thể thao của người khuyết tật mới chỉ
phát triển bước đầu và chủ yếu ở khu vực các nội thành, còn khu vực lân cận,
vùng ven chưa được quan tâm đúng mức.
2.3. Vai trò của nhân viên Công tác xã hội
2.3.1 Nhân viên xã hội (NVXH) đóng vai trò cung cấp cho Người khuyết tật và
gia đình họ nhiều loại dịch vụ hỗ trợ, từ hỗ trợ tâm lý cho đến việc phát triển
mạng lưới liên kết để có thể chuyển thân chủ đến các dịch vụ y tế và xã hội
hoặc các tổ chức liên quan đến nhu cầu của họ.
Đánh giá ban đầu sẽ cung cấp cơ sở để NVXH phát triển kế hoạch hỗ trợ.
Công việc đánh giá này bao gồm đánh giá sức mạnh, nguồn lực, và cả những hỗ
trợ sẵn có thí dụ như: những hành vi trong quá khứ thân chủ của họ đã xử dụng
để ứng phó thành công với hoàn cảnh, sự hỗ trợ của gia đình, sự sắp xếp cuộc
8



sống, mức độ học vấn, việc làm, sở thích, hoàn cảnh kinh tế, v.v... Người
NVXH cũng phải hiểu được cảm xúc và phản ứng của thân chủ đối với sự
khuyết tật, ảnh hưởng của sự khuyết tật đối với gia đình của Người khuyết tật,
tác động của sự khuyết tật đến vai trò và mối quan hệ của các thành viên trong
gia đình, và cả những rắc rối cá nhân hay vấn đề xã hội khác.
Với các nhân viên y tế hoặc chuyên gia sức khỏe, người NVXH sẽ cung
cấp cho họ những thông tin liên quan đến tâm lý của Người khuyết tật để họ có
thể hỗ trợ những bệnh nhân khuyết tật của họ đúng cách hơn. Người NVXH
cũng sẽ tham vấn cho Người khuyết tật và gia đình, giúp họ lập kế hoạch cá
nhân và sử dụng tối đa những nguồn nội lực và ngoại lực sẵn có trong cộng
đồng.
2.3.2 Sống quá lâu trong một môi trường xem Người khuyết tật chỉ là người
“tàn tật” nên Người khuyết tật ít có cơ hội học tập và phát triển, do đó đại đa số
Người khuyết tật thiếu hẳn kỹ năng sống. Vì vậy, NVXH còn phải đóng vai trò
của nhà giáo dục, giúp Người khuyết tật phát triển những kỹ năng xã hội cần
thiết để họ có thể tự tin mà tham gia vào mọi hoạt động xã hội có ích cho cuộc
sống của họ.
2.3.3 Đồng thời, NVXH cũng giúp cho các thành viên khác trong xã hội hiểu rõ
hơn về Người khuyết tật và bản chất của sự khuyết tật để xã hội có cái nhìn
đúng về Người khuyết tật và sự thiếu công bằng cơ hội mà họ luôn gặp phải, từ
đó tác động đến những người liên quan đến việc phát triển các chính sách cũng
như những tổ chức có những chương trình phát triển xã hội để những người này
bao gồm sự tham gia của Người khuyết tật vào quá trình ra quyết định, cũng
như tham gia giám sát và lượng giá việc thực hiện những quyết định liên quan
đến cuộc sống của chính họ.

9



Trong lúc vai trò quan trọng của ngành công tác xã hội đã được nhà nước
và cả xã hội công nhận, và việc đào tạo NVXH đang được thực hiện ở rất nhiều
trường đai học và cao đẳng trên khắp cả nước, chúng ta cũng nên cân nhắc đến
việc đào tạo NVXH chuyên ngành để có thể phục vụ tốt hơn các đối tượng thiệt
thòi trong xã hội, đặc biệt là Người khuyết tật - một bộ phận không nhỏ của xã
hội vẫn được xem như “thiệt thòi nhất trong số những người thiệt thòi” - và giúp
họ và gia đình “có được chất lượng cuộc sống tốt đẹp hơn” theo đúng triết lý
của ngành công tác xã hội.
2.4. Đề xuất
Nhà nước cần phối hợp với các tổ chức phi chính phủ để xây dựng các
chương trình hỗ trợ người khuyết tật học nghề và tìm việc làm. Thông báo rộng
rãi các chính sách hỗ trợ người khuyết tật. Cộng đồng và xã hội nên thể hiện sự
tôn trọng, sự công bằng với người khuyết tật, thay đổi cách nhìn một cách tích
cực, đầy thiện chí và quan tâm họ nhiều hơn. Chính bản thân người khuyết tật
nên mở lòng để đón nhận sự quan tâm, giúp đỡ và hỗ trợ của người khác,
thường xuyên tham gia các hoạt động xã hội, câu lạc bộ dành cho người khuyết
tật để tạo dựng các mối quan hệ và gắn kết với mọi người rút ngắn khoảng cách
của sự khác biệt trên cơ thể.
3. Kết luận
Qua quá trình nghiên cứu cho thấy đa số những khó khăn hay nhu cầu để
để hòa nhập xã hội của người khuyết tật đều liên quan đến học nghề và việc
làm, cụ thể là khó khăn lớn nhất mà người khuyết tật gặp phải là: “tìm việc
làm”, “Mong muốn những người xung quanh hỗ trợ, chia sẻ, giúp đỡ khi học
tập, học nghề”; Mong muốn các tổ chức xã hội tạo điều kiện cho những người
có khiếm khuyết về bản thân được làm việc. Một số nhu cầu chiếm tỉ lệ cao
như: Mong được hòa nhập, giao lưu với bạn bè, mọi người xung quanh để tạo
dựng các mối quan hệ; Mong muốn được tham gia các chương trình hỗ trợ
người khuyết tật. Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến hòa nhập xã hội của người
10



khuyết tật là: Khó có cơ hội để kết hôn, lập gia đình; “không có việc làm ổn
định để nuôi sống bản thân”. Chính vì vậy, giải pháp để giúp người khuyết tật
hòa nhập tốt hơn là: “Xã hội cần có trung tâm giảng dạy về văn hóa, về nghề
nghiệp phù hợp cho người khuyết tật, xã hội cần tạo việc làm hay tạo điều kiện
để người khuyết tật tự tạo công việc phù hợp với bản thân, những người xung
quanh cần đối xử công bằng, hòa nhã với người khuyết tật, xã hội cần tạo điều
kiện, có những trung tâm cho người khuyết tật giao lưu kết bạn, xây dựng các
mối quan hệ hay tiến tới hôn nhân.

11


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Một số tài liệu trên web site:
1. />
ng%20Kim%20Kieu%20Duyen.pdf
2. />3. />itemid=25823
4. />5. />6. />tabid=57&ctl=ViewNewsDetail&mid=437&NewsPK=6716

12



×