Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 5 qua phân môn tập đọc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.34 KB, 25 trang )

I/ PHẦN MỞ ĐẦU
I.1 Lí do chọn đề tài
Trong các môn học quy định hiện nay đối với học sinh tiểu học thì phân môn
Tập đọc là phân môn có tính tổng hợp. Phân môn tập đọc không những dạy học
sinh biết đọc mà còn giúp học sinh có được những kiến thức Tiếng Việt, văn học,
đời sống hàng ngày... Qua các bài tập đọc còn giáo dục tình cảm cho các em. Như
vậy phân môn tập đọc có nhiệm vụ to lớn trong việc hình thành, bồi dưỡng tâm hồn
cho các em. Giúp các em hào hứng phấn khởi, tự tin hơn trong việc học phân môn
và hỗ trợ đắc lực cho việc học các môn học khác.
Một số bài tập đọc còn có nhiệm vụ là dẫn chứng, là tư liệu cho các môn học
khác như luyện từ và câu, chính tả, tập làm văn, kể chuyện. Đặc biệt học tốt môn
tập đọc thì khả năng giao tiếp của các em cũng tốt hơn. Môn tập đọc chú trọng rèn
luyện cho các em các kĩ năng nghe, đọc, nói. Trong đó kĩ năng đọc được coi trọng
hàng đầu.
Mặt khác, chúng ta đã biết đọc là hoạt động lĩnh hội, tiếp nhận thông tin qua
các văn bản viết, là hình thức giao tiếp bằng chữ viết. Trong đời sống xã hội, hoạt
động đọc được tồn tại ở mọi nơi, mọi lúc. Đọc thư từ, báo chí, sách, truyện, đọc tên
đường, tên phố, tên cửa hiệu, đọc các biển chỉ dẫn, biển quảng cáo. Đọc thông tin
trên ti vi, trên bản tin...
Theo đặc điểm nghề nghiệp, hoạt động đọc của mỗi người cũng có những
mục đích khác nhau. Còn đối với học sinh tiểu học, đọc là hoạt động học tập. Đó
cũng chính là một trong những kĩ năng mà học sinh cần phải thực hiện, cần phải
rèn luyện. Học sinh cần đọc đúng và lưu loát các văn bản nghệ thuật ( thơ, văn
xuôi, kịch), hành chính, khoa học, báo chí...Việc đọc thầm bằng mắt với tốc độ tối
thiểu 120 tiếng/ phút. Biết đọc diễn cảm bài văn, bài thơ, trích đoạn kịch ngắn. Từ
đó biết điều chỉnh giọng đọc về cao độ, trường độ, nhấn giọng ở những từ ngữ gợi
1


cảm, gợi tả thể hiện cảm xúc trong bài. Với yêu cầu đọc hiểu, học sinh cần nhận
biết nội dung các văn bản, nhận biết ý chính của từng đoạn trong văn bản, phát hiện


các hình ảnh, chi tiết có ý nghĩa trong bài văn , bài thơ, trích đoạn kịch được học.
Biết nhận xét về nhân vật trong văn bản tự sự, phát biểu ý kiến các nhấn về vẻ đẹp
của văn bản đã học. Từ đó học sinh vận dụng kĩ năng đọc: Biết sử dụng từ điển,
nhận biết nội dung ý nghĩa của các kí hiệu, số liệu, biểu đồ trong văn bản. Học sinh
thuộc một số bài thơ, đoạn văn xuôi dễ nhớ.
Xuất phát từ thực tế giảng dạy ở lớp 5A4, trường tiẻu học Thị trấn Trới,
Hoành Bồ, tôi nhận thấy rằng:
Việc đọc thành tiếng: học sinh đọc lưu loát các văn bản nghệ thuật, hành
chính, khoa học, báo chí song nhiều em còn phát âm chưa chuẩn, nhầm lẫn các
tiếng có phụ âm đầu l/n. Tốc độ đọc của một số em còn chậm, còn ê a, ngắc ngứ.
Khi đọc chưa thể hiện ngắt hơi đúng, đọc còn quá nhỏ hoặc quá to. Chưa biết sử
dụng ngữ điệu, chưa biết thể hiện nét mặt điệu bộ khi đọc.
Việc đọc thầm: Học sinh có ý thức tự giác, tập trung khi đọc song việc nhớ
và hiểu nội dung thông tin được chứa đựng trong văn bản chưa cao. Từ đó dẫn đến
việc trả lời câu hỏi về nội dung văn bản còn hạn chế, việc tóm tắt nội dung văn bản
chưa đầy đủ.
Những điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của các em
bởi tư việc đọc chưa đúng, hiểu chưa rõ nên việc nắm bắt nội dung kiến thức sẽ bị
lệch lạc. Cũng chính những điều đó đã khiến tôi suy nghĩ và trăn trở rất nhiều. Làm
thế nào để giúp các em đọc đúng, đọc hay, hiểu được những điều đọc được? Tôi đã
dành thời gian nghiên cứu "Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 5 qua
phân môn Tập đọc" và thực hiện trong năm học 2007 - 2008 tại lớp tôi phụ trách
bước đầu đã thu được kết quả đáng mừng.
I.2 Mục đích nghiên cứu
Vì thời gian và khả năng của bản thân có hạn nên tôi chỉ nghiên cứu ở một
phân môn của môn Tiếng Việt đó là phân môn Tập đọc. Tôi tập trung nghiên cứu,
2


tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhất để rèn đọc cho học sinh qua phân môn này.

Từ việc nghiên cứu, vận dụng thực hiện bản thân tôi tự đúc rút ra những kinh
nghiệm quý, những biện pháp hay trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 5 trong năm
học và vận dụng cho những năm học sau.
I .3 Thời gian và địa điểm
Ngay từ đầu năm học, tháng 9 năm 2007 tôi tiến hành từng bước nghiên cứu
và thực hiện đến tháng 5 năm 2008 hoàn thành.
Tôi chọn lớp 5A4 trường tiểu học thị trấn Trới (lớp tôi phụ trách) để nghiên
cứu và thực nghiệm.
I. 4 Đóng góp mới về mặt lí luận, thực tiễn
"Biện pháp rèn đọc cho học sinh" là một vấn đề không mới, vấn đề này đã
được nhiều giáo viên, nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến. Song bản thân tôi nhận
thấy đây là vấn đề giáo viên cần được tiến hành thường xuyên, liên tục. Đặc biệt
đối với mỗi đối tượng học sinh khác nhau, giáo viên lại cần phải linh hoạt trong
viêc sử dụng, vận dụng các phương pháp, hình thức để rèn đọc cho học sinh. Chính
vì lẽ đó tôi đã đầu tư nghiên cứu, thực hiện bằng một số biện pháp tôi cho là hữu
hiệu nhất và đạt được kết quả đáng kể trong việc rèn đọc cho học sinh.
II. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
II. 1 Chương I: TỔNG QUAN
Xuất phát từ nhiệm vụ đào tạo của nhà trường là đào tạo thế hệ trẻ cho đất
nước phát triển toàn diện về mọi mặt. Xuất phát từ nguyên lý của giáo dục "Học
phải đi đôi với hành". Vì vậy trong quá trình dạy học tôi luôn chú trọng cung cấp
đầy đủ, chính xác kiến thức cho học sinh qua tất cả các môn học, trong đó có kỹ
năng đọc.
Kỹ năng đọc là một trong bốn kỹ năng quan trọng mà học sinh tiểu học cần
rèn luyện. Đối với học sinh lớp 5, môn Tập đọc giúp các em củng cố phát triển khái

3


niệm đọc trơn, đọc thầm đã được hình thành ở các lớp dưới. Tăng cường tốc độ

đọc, kỹ năng đọc lướt để chọn thông tin nhanh, khả năng đọc diễn cảm.
Phát triển kỹ năng đọc hiểu lên mức cao hơn: Nắm và vận dụng được một số
khái niệm như đề tài, cốt chuyện, tính cách nhân vật... để hiểu ý nghĩa của bài và
phát hiện, một vài giá trị nghệ thuật trong các bài văn, bài thơ.
Học sinh mở rộng vốn hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người để góp phần
hình thành nhân cách của con người mới.
Thông qua các bài Tập đọc, thuộc các loại hình văn bản nghệ thuật báo chí,
khoa học. Phân môn Tập đọc Lớp 5 còn giúp học sinh nâng cao khả năng đọc - hiểu
văn bản cụ thể là:
- Nhận biết đề tài, cấu trúc của bài.
- Biết cách tóm tắt bài, làm quen với thao tác đọc lướt để tìm ý.
- Phát hiện giá trị của một số biện pháp nghệ thuật trong các văn bản văn
chương.
Nội dung của các bài Tập đọc Lớp 5 phản ánh một số vấn đề lớn đang đặt ra
trước nhân dân và toàn nhân loại. Thông qua ngôn ngữ văn học và những hình
tượng giàu chất thẩm mỹ và nhân văn.
Do đó nó có tác dụng mở rộng tầm hiểu biết, tầm nhìn tự nhiên xã hội và đời
sống, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và nhân cách học sinh.
Để đáp ứng được đầy đủ yêu cầu, mục đích của phân môn thì việc lựa chọn
những phương pháp, vận dụng những biện pháp hiệu quả cho học sinh là điều hết
sức quan trọng.
Những "Biện pháp rèn đọc cho học sinh Lớp 5 qua phân môn Tập đọc" mà
tôi đề cập đến là vấn đề vô cùng sát thực với việc nâng cao chất lượng cho học
sinh.
Tôi tập trung nghiên cứu và thực hiện những biện pháp cụ thể sau:
1. Chú trọng khâu chuẩn bị cho học sinh.
- Chú ý việc chuẩn bị bài ở nhà.
4



- Tổ chức tốt việc truy bài theo nhóm.
2. Rèn đọc ở khâu kiểm tra bài cũ.
3. Quan tâm đến việc rèn đọc đúng.
- Rèn đọc ở bước học sinh đọc.
- Rèn phát âm chuẩn cho học sinh.
- Chú trọng việc rèn đọc cá nhân.
4. Rèn đọc thầm (đọc - hiểu)
- Đọc thầm theo bạn hoặc theo cô giáo.
- Đọc thầm để tự hiểu bài.
- Đọc thầm lướt để nắm nội dung, tóm tắt ý hoặc chọn ý.
5. Rèn đọc điễn cảm (đọc hay).
- Biết sử dụng ngữ điệu khi đọc.
- Biết thể hiện nét mặt, điệu bộ khi đọc.
II. 2. Chương II: NỘI DUNG CỤ THỂ
II. 2. 1 Chú trọng khâu chuẩn bị bài của học sinh
Việc kiểm soát học sinh về nhà có đọc trước bài hay không là rất khó. Những
học sinh đọc yếu, thường lười học, học chống đối cho xong. Những học sinh đọc
yếu thì viết chính tả cũng kém. Trong một tuần có hai giờ tập đọc tôi yêu cầu học
sinh chuẩn bị bài với yêu cầu sau:
Chuẩn bị ở nhà: Dựa vào lời đọc mẫu của cô, về nhà tự luyện đọc trước bài
ngày mai, không kể số lần, khi nào không vấp mới thôi. Dùng bút chì gạch chân
các tiếng, từ chứa âm, vần mà các em còn vấp, nhầm lẫn.
Ví dụ: Trong bài "Một chuyên gia máy xúc" - Tiếng Việt 5 tập 1. Cần chú ý các từ:
"ánh nắng", "nhạt loãng", "ửng lên", "mảng nắng", "chất phác"...
Trả lời được các câu hỏi SGK để tìm hiểu trước nội dung bài.
Gạch chân bằng chì các từ cần nhấn giọng. Đáng dấu cách ngắt nghỉ hơi.

5



Ví dụ: "Những người ngoại quốc này/có một vẻ gì nổi bật lên/khác hẳn các
khách tham quan khác".
Yêu cầu tiếp theo là em hãy chọn một đoạn em cho là hay nhất, giải thích lý
do vì sao em thích (với học sinh khá, giỏi).
Đến lớp học sinh truy bài theo nhóm.
Từng nhóm học sinh sẽ kiểm tra việc đọc đúng, sửa cho nhau các âm vần còn
hay lẫn. Qua đó các em sẽ đánh giá việc đọc trước bài về nhà của bạn.
Các em sẽ kiểm tra vở soạn bài của bạn, thống nhất câu trả lời. Thi đọc đúng,
đọc diễn cảm trong nhóm chuẩn bị.
II.2.2 Rèn đọc ở khâu kiểm tra bài cũ
Thường khi kiểm tra bài cũ, đối với những học sinh đọc tốt các em rất hào
hứng xong những em đọc còn hạn chế thì rất e ngại. Nắm được điều đó cần kiểm
tra bài cũ ở mỗi giờ tập đọc tôi thường tổ chức các trò chơi để tạo hứng thú cho cả
lớp và có nội dung kiểm tra dành cho các đối tượng.
Tôi thường tổ các trò chơi "hái hoa dân chủ", "hộp thư chạy" hoặc bắt thăm.
Đối với học sinh khá giỏi, tôi yêu cầu chọn một trong đoạn mình thích nhất để đọc
thật hay và nêu ý của đoạn đó. Đối tượng còn lại tôi sẽ yêu cầu các em đọc một
câu đến hai câu hoặc một đoạn văn ngắn trong bài. Học sinh đọc tốt, hiểu được
nội dung sẽ được thưởng điểm cao, tuyên dương trước lớp. Nếu học sinh đọc còn
sai, nhưng có cố gắng giáo viên khích lệ các em và kiểm tra thường xuyên ngay lần
sau. Nếu em nào đó chưa thực sự tiến bộ tôi nhắc nhở các em cần luyện đọc nhiều
hơn và kiểm tra thường xuyên ngay trong giờ học và sau giờ học đó.
Ví dụ kiểm tra bài: "Hội thổi cơm thi ở làng Đồng Vân".
Giáo viên gọi một học sinh trung bình đọc đoạn một gồm một câu. Chú ý
em đó cần ngắt hơi đúng sau dấu câu, ngắt hơi sau mỗi cụm từ rõ nghĩa.
"Hội thổi cơm thi ở làng Đồng Vân/bắt nguồn từ các cuộc trẩy quân đánh
giặc/của người Việt Cổ/bên bờ Sông Đáy xưa.//
6



Một học sinh giỏi đọc đoạn hai và ba của bài và nêu ý chính thể hiện qua hai
đoạn văn.
Học sinh sẽ nêu được: Nội dung hai đoạn văn muốn nói lên cách thức và
không khí của hội thi.
Học sinh khá đọc văn cuối bài: "Sau độ một giờ rưỡi ... đối với dân làng"
và cho biết "Tại sao nói việc giật giải của cuộc thi là niềm tự hào khó gì sánh nổi
đối với dân làng?"
II.2.3. Quan tâm đến việc rèn đọc đúng.
II.2.3.1 Rèn đọc ở bước hướng dẫn đọc.
Việc giáo viên nắm chác cách đọc, giọng đọc của mỗi bài văn, bài thơ rất cần
thiết vì đó là định hướng cho học sinh luyện đọc.
Hơn thế nữa giáo viên cần đọc mẫu thật chuẩn, thật hay là vô cùng quan
trọng và cần thiết. Chính vì vậy tôi luôn chú ý đọc thật hay, thật đúng, thật chuẩn để
làm mẫu cho học sinh.
Ví dụ: Khi dọc bài "Phân xử tài tình" - (Tiếng việt 5 tập 2) tôi luôn chú ý phát
âm chuẩn những tiếng có phụ âm n/l
- "Tấm vải là của con. Bà này lấy trộm."
- "Hai người đều có lí nên ta xử thế này: Tấm vải xé đôi, mỗi người một nửa."
Ngắt hơi, nghỉ hơi đúng sau mỗi dấu câu đặc biệt chú ý đến câu văn dài sẽ phải
ngắt hơi sau mỗi cụm từ rõ nghĩa, nhấn giọng những từ ngữ gợi tả, gợi cảm.
- " Lập tức,/ quan bảo/ đưa cả tấm vải cho người này/ rồi thét trói người kia
lại./"
Toàn bài đọc với giọng nhẹ nhàng, chậm rãi thể hiện niềm khâm phục. Chuyển
giọng phù hợp với nội dung đặc điểm của từng đoạn: kể, đối thoại. Đọc phân biệt
lời của nhân vật:
- Giọng người dẫn chuyện: rõ ràng, rành mạch, biểu thị cảm xúc khâm phục,
trân trọng.
7



- Lời bẩm báo của hai người đàn bà: mếu máo, ấm ức, đau khổ.
- Lời quan án: Ôn tồn, đĩnh đạc, uy nghiêm.
Khi gọi một học sinh đọc bài, tôi cũng chú ý gọi học sinh khá giỏi đọc chuẩn,
đọc hay để đọc mẫu. Học sinh khác chú ý đọc thầm theo bạn, học cách đọc của bạn.
Tôi luôn lưu ý học sinh khi đọc chúng ta gặp những câu văn dài, những dòng
thơ cần ngắt giọng, ngắt nhịp như thế nào cho đúng. Việc ngắt nghỉ hơi trong khi
đọc do logic của câu của đoạn quy định và được thể hiện bằng dấu câu.
Ví dụ: Khi đọc đoạn văn sau trong bài "Con gái" Tiếng việt 5 tập 2.
"Mẹ phải nghỉ ở nhà, bố đi công tác xa, Mơ làm hết mọi việc trong nhà giúp mẹ.
Tối, mẹ ôm Mơ vào lòng, thủ thỉ: "Đừng vất vả thế, để sức mà lo học, con ạ!" Mơ
nép vào ngực mẹ thì thào: " Mẹ ơi, con sẽ cố thay một đứa con trai trong nhà ,mẹ
nhé!" Mẹ ôm chặt Mơ, trào nước mắt."
Nếu dùng dấu gạch chéo đánh dấu vị trí ngắt hơi (/), nghỉ hơi (//) thì việc
ngắt nghỉ hơi khi đọc đoạn văn trên sẽ như sau:
"Mẹ phải nghỉ ở nhà/, bố đi công tác xa/, Mơ làm hết mọi việc trong nhà
giúp mẹ//. Tối/, mẹ ôm Mơ vào lòng/, thủ thỉ//: "Đừng vất vả thế/, để sức mà lo
học/, con ạ! //" Mơ nép vào ngực mẹ thì thào//: " Mẹ ơi/, con sẽ cố thay một đứa
con trai trong nhà/,mẹ nhé!//" Mẹ ôm chặt Mơ/, trào nước mắt//."
Tôi luôn lưu ý học sinh khi đọc một văn bản nào đó, nếu gặp những dấu câu
ta cần phải ngắt nghỉ đúng. Sau dấu chấm xuống dòng phải nghỉ lâu hơn dấu hai
chấm, sau dấu chấm phải nghỉ lâu hơn dấu phẩy, sau dấu phẩy cũng có lúc phải
nghỉ khác nhau. Dấu phẩy ngăn cách các vế câu cần nghỉ lâu hơn dấu phảy sau
trạng ngữ, dấu phảy sau trạng ngữ phải nghỉ lâu hơn dấu phẩy ngăn cách các bộ
phận đẳng lập trong câu.
Ví dụ: "Trong tà áo dài,/ hình ảnh người phụ nữ Việt Nam như đẹp hơn,/ tự
nhiện hơn,/ mềm mại và thanh thoát hơn.//"
(Tà áo dài Việt Nam - Tiếng Việt 5 tập 2)

8



Việc ngắt nghỉ hơi còn được dùng để ngăn cách các cụm từ ở trong câu, mặc
dù ở đó không có dấu câu, thường sử dụng trong các câu văn dài.
Ví dụ: "Ông liền lặn lội đến các xã bạn/ học cách trồng cây thảo quả/ về
hướng dẫn cho bà con cùng làm.//"
(Ngu Công xã Trịnh Tường - Tiếng việt 5 tập 1)

Hay "Em không hiểu /vì sao mọi người lại có vẻ không vui lắm/ khi mẹ sinh
em gái//"
( Con gái - Tiếng việt 5 tập 2)

Khi luyện độc tôi luôn lựa chọn ghi những câu văn đó lên bảng yêu cầu học
sinh trao đổi theo cặp đôi hoặc nhóm nhỏ về cách ngắt giọng. Học sinh nêu và
thống nhất cách đọc. Tôi lưu ý học sinh ngắt nghỉ hơi sau dấu câu hoặc sau cụm từ
rõ nghĩa.
Ví dụ: "Họ thích kể,/ thích nghe/ những huyền thoại/ về người vật hổ,/ bắt cá
sấu, / bắt rắn hổ mây.//"
(Đất Cà Mau - TV 5 tập 1)
Trong thơ việc ngắt nhịp lại phụ thuộc vào nhịp điệu của thơ. Tôi thấy học
sinh hay ngắt nhịp sai khi đọc một số câu thơ có vần điệu.
Ví dụ: Trong bài thơ "Cao Bằng"
Học sinh đọc các câu thơ sau:
"Cao Bằng/ rõ thật cao
Rồi dần/ bằng bằng xuống
...
Ông lành/ như hạt gạo
Bà hiền/ như suối trong"
Đọc như vậy tuân thủ theo nhịp thơ của những câu thơ trước mà không chú ý
đến ý của câu thơ sau. Đọc như vậy dễ khiến người nghe hiểu sai ý của câu thơ.
Vậy giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc là:

"Cao Bằng/ rõ thật cao
9


Rồi dần/ bằng bằng xuống
...
Ông/ lành như hạt gạo
Bà/ hiền như suối trong"
Hay trong bài "Bầm ơi" học sinh đọc các câu thơ sau:
"Mạ non/ bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm lại/ thương con mấy lần"
Đọc như vậy sẽ hiểu sai ý của câu, sai nội dung của bài. Lí do học sinh đọc
sai là các em chỉ chú ý đến việc cân đối âm thanh mà không chú ý đến nghĩa của từ
trong câu. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc là:
"Mạ non/ bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm/ lại thương con mấy lần."
II.2.3.2 Rèn phát âm chuẩn cho học sinh
Giúp học sinh phát âm chuẩn tiếng khó, từ khó tôi ghi những tiếng từ cần
luyện đó lên bảng cho học sinh khá đọc, học sinh khác nhận xét và nêu cách đọc.
Tôi luôn chú ý rèn cho học sinh từng bước: Âm - tiếng - từ - câu - đoạn. Đối với
học sinh phát âm sai, khó sửa tôi thường xuyên gọi các em đọc, phân tích thật tỉ mỉ
cách đọc cho các em năm rõ và làm theo.
Có những em khi đọc tiếng từ riêng thì chuẩn nhưng đọc cả câu liền thì chưa
được nên khi luyện cần kết hợp nhịp nhàng.
Ví dụ: Trong bài "Chú đi tuần" - (Tiếng Việt 5 tập1)
Giáo viên ghi bảng: Lưu luyến
Học sinh khá nêu cách đọc và thể hiện lại, học sinh khác luyện đọc: "lưu
luyến" - "Nhìn ánh điện qua khe phòng lưu luyến."
Trong bài : "Cửa sông" - (Tiếng việt 5 tập 2)
Giáo viên ghi: "núi non"

Học sinh đọc: "n - núi - núi non - Bỗng... nhớ một vùng núi non."
10


Hoặc khi đọc bài "Một vụ đắm tàu" - ( Tiếng việt 5 tập2)
Giáo viên ghi "nổi lên"
Yêu cầu học sinh luyện đọc "nổi lên - Cơn bão bất ngờ nổi lên."
Trong bài "Thuần phục sư tử" - ( Tiếng việt 5 tập 2)
Giáo viên ghi: "lẽ nào"
Yêu cầu học sinh luyện đọc : "lẽ nào - Lẽ nào con không làm mềm lòng nổi
một người đàn ông vốn yếu đuối hơn sư tử rất nhiều."
II.2.3.3 Chú trọng việc rèn đọc cá nhân
Đây là khâu quan trọng nhất của tiết tập đọc. Trong khi học sinh đọc giáo
viên theo dõi kịp thời và hướng dẫn cho học sinh khác theo dõi, đọc thầm theo bạn,
chỉ ra cái sai cho bạn. Như vậy, học sinh có điều kiện theo dõi nhận xét lẫn nhau,
thi đua đọc đúng. Giáo viên nhận xét chung, chỉ ra những cái sai cho học sinh sửa,
cái hay, cái đúng cần phát huy.
Khi học sinh phát âm sai, trước khi cho học sinh ngồi xuống tôi yêu cầu em
đọc lại chỗ sai đó. Trước hết là đọc lại tiếng từ đó rồi đọc cả câu văn, dòng thơ.
Luyện đến khi em đó đọc đúng mới thôi. Động viên em về nhà đọc thật chuẩn tiếng
có âm vần đó.
Ví dụ: Trong bài "Thầy thuốc như mẹ hiền" học sinh đọc sai "nóng nực"
thành "lóng lực"; "nằm" thành "lằm"; "nồng nặc" thành "lồng lặc". Tôi yêu cầu học
sinh đọc lại:
"n- nóng nực - giữa mùa hè nóng nực"
"n - nồng - nồng nặc - mùi hôi tanh bốc lên nồng nặc"
Rồi học sinh đọc cả câu: "Giữa mùa hè nóng nực, cháu bé nằm trong chiếc
thuyền nhỏ hẹp, người đầy mụn mủ, mùi hôi tanh bốc lên nồng nặc."
Đặc biệt tôi luôn tránh tình trạng học sinh đọc dở câu, dở ý bắt các em dừng
lại đột ngột để sửa sai. Như vậy sẽ gây ra cho các em sự hụt hẫng và chắc chắn sẽ

ảnh hưởng đến kết quả luyện đọc của các em.
11


Muốn luyện đọc cá nhân có kết quả cao tôi sẽ cho các em luyện đọc theo
cặp, theo nhóm nhỏ để các em tự sửa cho nhau. Sau đó giáo viên kiểm tra lại. Tôi
luôn nắm vững trình độ của mỗi học sinh để phân loại, nắm được nguyên nhân đọc
kém của từng em để sửa sai cho các em. Những em đọc kém, phát âm lẫn lộn dứt
khoát phải được quan tâm thường xuyên qua mỗi giờ tập đọc.
II.2.4 Rèn đọc thầm (đọc - hiểu)
Trong phân môn Tập đọc ở Lớp 5, để củng cố nâng cao kĩ năng đọc trơn, đọc
thầm và đọc diễn cảm giáo viên thường sử dụng biện pháp hướng dẫn đọc (đọc
thành tiếng, đọc thầm). Khác với đọc thành tiếng là củng cố cho học sinh kĩ năng
đọc đúng, đọc diễn cảm, đọc thầm lại giúp học sinh nắm bắt đúng đủ lượng thông
tin cơ bản, cảm thụ tốt văn bản nghệ thuật.
Đọc thầm thường được chia ra hai loại: Đọc thầm để tìm hiểu bài theo câu
hỏi hoặc thực hiện các yêu cầu ngắn trong SGK; Đọc thầm lướt qua (đọc nhanh) để
nắm nội dung, tóm tắt ý hoặc chọn ý. Ngoài ra chúng ta còn cho học sinh đọc thầm
theo bạn, theo cô giáo để nắm được cách đọc.
II.2.4.1 Đọc thầm theo bạn hoặc cô giáo
Đây là giai đoạn bước đầu vào bài mới. Yêu cầu cơ bản là học sinh đọc lướt
theo nội dung mà bạn hoặc cô giáo đọc thành tiếng. Học sinh theo dõi để xem bài
đang đọc nên đọc như thế nào cho đúng, cho hay. Tức là đọc bài nhanh hay chậm,
chỗ nào cần lên bổng, xuống trầm, chỗ nào cần ngắt nghỉ, những tiếng khó phát âm,
phát âm dễ lẫn như hướng dẫn gợi ý của thầy cô để từ đó bản thân đọc đúng hoặc
nhận xét cho bạn chính xác.
Ví dụ: Khi học bài "Hộp thư mật" Tôi gọi 3 học sinh đọc to 3 đoạn của bài,
học sinh cả lớp theo dõi (đọc thầm) sau đó nêu giọng đọc của bài cho phù hợp:

12



Bài văn cần đọc với giọng chậm rãi, mạch lạc, thể hiện được tinh thần cảnh
giác của chú Hai Long khi đi tìm hộp thư mật để nhận tin và thể hiện niềm vui
sướng, sự hồi hộp, khi bình tĩnh, tự tin của Hai Long.
Chú ý các từ phát âm dễ lẫn: Hai Long, Phú Lâm, lần nào, Việt Nam, liên
lạc, bu gi.
Chú ý nhấn giọng từ ngữ: hình chữ V, Tổ quốc Việt Nam, Lời chào chiến
thắng, cạy đáy hộp...
II.2.4.2 Đọc thầm để tìm hiểu bài
Với yêu cầu này tuỳ từng nội dung của từng bài tôi lựa chọn những hình thức
khác nhau. Có thể sau khi giáo viên gợi ý về hình thức, cách tìm hiểu, cho một học
sinh đọc to yêu cầu, nội dung câu hỏi. Sau đó cả lớp đọc thầm đoạn nếu theo dạng
phân tích ngang, đọc lướt cả bài nếu theo dạng phân tích dọc để tìm ý trả lời theo
yêu cầu câu hỏi.
Sau đó tôi sẽ yêu cầu học sinh đứng tại chỗ nêu kết quả, nội dung, ý các em
tìm được. Hoặc có thể tôi cho các em hoạt động nhóm bằng cách giáo viên gợi ý,
nêu nhiệm vụ, quy định thời gian cụ thể, phát phiếu ghi nội dung, yêu cầu để học
sinh thảo luận. Nhóm trưởng đọc nội dung cần tìm hiểu trong phiếu và yêu cầu các
thành viên đọc thầm. Sau khi đọc và suy nghĩ xong, nhóm trưởng hướng dẫn các
thành viên trong nhóm phát biểu ý kiến thảo thuận, thư kí ghi kết quả vào phiếu để
trình bày trước lớp. Trong quá trình đó giáo viên kết hợp rèn cho học sinh cách trả
lời câu hỏi, diễn đạt ý bằng câu văn ngắn gọn, mạch lạc, dùng từ đúng. Néu câu hỏi
dài phức tạp thì giáo viên phân tích thành nhiều câu hỏi nhỏ hoặc đưa thêm câu hỏi
phụ vừa sức để học sinh trả lời.
Đặc biệt khi thực hiện hình thức này, tôi luôn hướng dẫn gợi ý kĩ học sinh
đọc đoạn văn, khổ thơ nào, đọc để biết, để hiểu, để suy nghĩ, trao đổi về điều gì.
Đồng thời từng bước hình thành cho các em thói quen tập trung, chú ý khi đọc
thầm để thu nhận thông tin và cảm thụ văn bản nghệ thuật.
13



Ví dụ khi dạy bài "Mùa thảo quả"
Để tìm hiểu nội dung bài tôi yêu cầu học sinh đọc thầm đoạn 1 của bài, trao
đổi với bạn theo nhóm đôi để trả lời câu hỏi 1 trong SGK.
1 học sinh đọc to câu hỏi: Thảo quả báo hiệu vào mùa bằng cách nào? Cách dùng
từ đặt câu ở đoạn văn có gì đáng chú ý?
Yêu cầu học sinh đọc thầm và trao đổi trong thời gian là 2 - 3 phút.
Học sinh trình bày trước lớp: Thảo quả trên rừng Đản Khao báo hiệu vào
mùa bằng hương thơm "ngọt lựng", "thơm nồng", quyến vào gió, gió lướt thướt
mang đi rải khắp triền núi và khắp thôn xóm Chin San của người H'mông. Cả một
không gian rộng lớn và cảnh vật đều ướp hương thảo quả. Gió, cỏ cây,và cả người
đi rừng về đều nồng nàn hương thảo quả.
Bằng khứu giác của mình tác giả đã tả làm nổi bật mùi hương thơm của thảo
quả khi chín.
Cách dùng từ đặt câu rất đặc sắc. Các tính từ, động từ dùng rất chính xác,
tinh tế:''lướt thướt bay'', ''quyến rũ'', ''rải'','' ngọt lựng'', ''thơm nồng'' ... Có một số
câu văn ngắn như nhún nhảy làm cho cảnh vật được vén ra, mở ra: ''Gió thơm. Cây
cỏ thơm. Đất trời thơm." Cách viết thật tài hoa, sáng tạo mà chỉ có ở nhà văn Ma
Văn Kháng.
Hay khi học bài "Nghĩa thầy trò" - (tiếng việt 5 tập 1)
Tôi yêu cầu học sinh trao đổi nhóm 3 và 4. Đọc lướt lại toàn bài và trao đổi
câu hỏi 3 SGK
Câu hỏi: Những thành ngữ, tục ngữ nào dưới đây nói lên bài học mà các
môn sinh nhận được trong ngày mừng thọ thầy giáo Chu?
a/ Tiên học lễ, hậu học văn.
b/ Uống nước nhớ nguồn.
c/ Tôn sư trọng đạo.
d/ Nhất tự vi sư, bán tự vi sư.


14


Học sinh sẽ đọc thầm lại toàn bài, trao đổi về nội dung, ý nghĩa của các câu
thành ngữ, tục ngữ đó, đối chiếu với nội dung bài và đưa ra câu trả lời đúng là ý b,
c, d.
II.2.4.3 Đọc thầm để nắm nội dung, tóm tắt ý hoặc chọn ý.
Đây là hình thức khó, thường sử dụng trong bước tìm hiểu nội dung bài, ý
chính của từng đoạn văn. khổ thơ, phát hiện những từ ngữ lặp lại nhiều lần trong
đoạn, trong bài; những hành động thể hiện rõ tính ách của nhân vật đó. Để tổ chức
có hiệu quả hình thức này giáo viên phải ra yêu cầu từ dễ đến khó để học sinh làm
quen dần với cách đọc thầm lướt nhanh (Mở rộng trường nhìn, đọc lướt toàn toàn
hoặc cả bài). Hình thức này chủ yếu là đọc cá nhân (đôi khi cũng sử dụng hình
thức học nhóm). Học sinh phải tập được thói quen vừa đọc bằng mắt vừa tư duy
suy nghĩ, nhân ra ý, từ ngữ, suy nghĩ hành động của nhân vật, tình cảm của tác giả,
nội dung chính của bài theo yêu cầu.
Ví dụ khi học bài "Thuần phục sư tử" - (Tiếng việt 5 tập 2)
Ở phần tìm hiểu bài tôi yêu cầu học sinh đọc thầm đoạn cuối của bài và nêu
nội dung chính của đoạn văn đó?
Học sinh nêu được: Ý của đoạn là: Lời kết luận của vị giáo sĩ.
Giáo viên ghi ý chính đó lên bảng rồi hỏi học sinh: Vậy kết luận của vị giáo
sĩ đó là gì?
Học sinh trả lời được : Trí thông minh, lòng liên nhẫn, cử chỉ dịu dàng đã
làm nên sức mạnh của người phụ nữ, giúp họ gĩư gìn hạnh phúc gia đình.
Hay khi học bài "Cao Bằng" của nhà thơ Trúc Thông(- Tiếng việt 5 tập 1)
Khi tìm hiểu bài tôi yêu cầu học sinh đọc thầm khổ thơ thứ nhất của bài và
nêu ý chính của khổ thơ đó.
Học sinh đọc và trả lời ý chính của khổ thơ là: "Địa thế đặc biệt của Cao
Bằng"
Tôi hỏi tiếp: Vậy những từ ngữ, chi tiết, hình ảnh nào nói lên điều đó?

15


Học sinh trả lời được là: Tác giả đã dùng hàng loạt những động từ: qua, lại
vượt, tới và liệt kê tên hàng loạt tên các con dèo để đến được với Cao Bằng: Đèo
Gió, Đèo Giàng, đèo Cao Bắc. Từ đó người đọc cảm nhận được địa thế đặc biệt
của Cao Bằng thật xa xôi, trùng điệp.
Như vậy nội dung chủ yếu của phân môn Tập đọc Lớp 5 là tiếp tục củng cố
và nâng cao kĩ năng đọc, mở rộng vốn hiểu biết, bồi dưỡng tư tưởng tình cảm, nhân
cách cho học sinh. Ngoài việc đọc đúng thì viêc tổ chức đa dạng hình thức đọc hiểu
sẽ giúp cho học sinh tiếp thu, cảm thụ có hiệu quả nội dung của văn bản nghệ thuật,
nâng cao dần thói quen tư duy, suy nghĩ độc lập.
Khi học sinh đã đọc đúng văn bản, hiểu được văn bản thì đọc thế nào để thể
hiện cái hay, cái đẹp, thể hiện được nội dung, ý nghĩa của văn bản, thể hiện tình
cảm của tác giả gửi gắm qua văn bản đó là rất cần thiết. Đó cũng chính là yêu cầu
của việc đọc diễn cảm.
II.2.5 Rèn đọc diễn cảm
Trước hết giáo viên phải là người đọc thật hay thật chuẩn để làm mẫu cho
học sinh. Giáo viên có đọc chuẩn và diễn cảm tốt sẽ tác động vào cảm xúc, tâm hồn
các em học sinh những ấn tượng hay, những hình ảnh đẹp qua bài văn, bài thơ. Mặt
khác giáo viên cần phải tập trung, chú trọng rèn cho học sinh đọc thật hay, dạy cho
học sinh "kĩ thuật" đọc.
II.2.5.1 Biết sử dụng ngữ điệu khi đọc.
Bên cạnh việc dạy cho học sinh kĩ thuật ngắt giọng logic tôi chú ý rèn cho
học sinh kĩ thuật ngắt giọng biểu cảm. Đố là những chỗ cần ngừng, cần lắng và cả
sự im lặng có tắc dụng truyền cảm, tập trung sự chú ý đối với người nghe góp phần
tạo nên hiệu quả nghệ thuật cao hơn cho văn bản.
Ví dụ: Khi đọc câu thơ thong bài "Tiếng đàn ba- la- lai ca trên sông Đà" tôi
hướng dẫn học sinh ngắt nhịp như sau:
16



"Chiêc đập lớn / nối liền hai khối núi
Biển/ sẽ nằm bỡ ngỡ/ giữa cao nguyên."
Sở dĩ tôi hướng dẫn đọc như vậy vì sẽ tạo ra nhịp điệu chậm rãi, ngân nga,
thể hiện niềm xúc động, bồi hồi của tác giả.
Và có thể tong một số trường hợp cũng cần phải phá vỡ các quan hệ ngữ pháp để
tạo ra một cách ngắt nhịp đem lại cho người nghe sự nhịp nhàng trong giai điệu của
vần thơ.
Chẳng hạn trong bài "Hạt gạo làng ta" chúng ta cần đọc:
"Nước/ như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua/ ngoi lên bờ
Mẹ em/ xuống cấy"
Khi ngắt nhịp như vậy người nghe sẽ thấy hết được sự khắc nghiệt của thiên
nhiên của thời tiết, thấy hết được nỗi nhọc nhằn của người làm ra hạt gạo.
Khi hướng dẫn đọc tôi nhắc nhở học sinh tuỳ từng nội dung của bài cần thay
đổi nhịp điệu khi đọc: lúc chậm rãi, lúc dồn dập, khi thì khẩn trương để phù hợp
với nội dung bài học.
Ví dụ: So sánh nhịp điệu đọc của hai câu văn sau trong bài "Tiếng rao đêm":
"Tiếng rao đều đều, khàn khàn, kéo dài trong đêm khuya tĩnh mịch, nghe
buồn não ruột." Cần đọc với giọng chậm rãi.
Với câu: "Rồi một đêm, vừa thiếp đi, tôi bỗng giật mình vì những tiếng la:
"Cháy! Cháy nhà!" Cần đọc với giọng khẩn trương nhanh dần.
Để thể hiện một đoạn văn, khổ thơ, bài thơ hay thì việc chú ý tới cường độ
khi đọc cần được quan tâm. Đọc nhấn mạnh hay lướt nhẹ, âm lượng phát ra to hay
nhỏ.
Ví dụ khi đọc bào "Đất Cà Mau" tôi đưa đoạn văn sau lên bảng, yêu cầu học
sinh trao đổi theo nhóm nhỏ để phát hiện ra cách đọc. Học sinh nêu cách đọc, cả
lớp cùng thống nhất. (Các từ in đậm trong đoạn văn sẽ được nhấn mạnh hơn)

17


"Cà Mau là đất mưa dông.// Vào tháng ba,/ tháng tư,/ sớm nắng/ chiều
mưa.// Đang nắng đó, /mưa đổ ngay xuống đó.// Mưa hối hả/ không kịp chạy vào
nhà. Mưa rất phũ,/ mưa một hồi rồi tạnh hẳn.//"
Tôi cũng luôn lưu ý học sinh giọng đọc cần lên cao hay xuống thấp. Với yêu
cầu này tôi lưu ý học sinh chú ý ở các bài có lời thoại của nhân vật như: Phân xử
tài tình, Tác phẩm của tên Sít le và tên Phát xít, Cái gì quý nhất, Chuỗi ngọc
lam,Thái sư Trần Thủ Độ, Một vụ đắm tàu... Chú ý tới lời dẫn chuyện giọng đọc
thấp, lời nhân vật đọc lên cao hơn.
Ví dụ: "Chiếc xuồng cuối cùng được thả xuống. Ai đó kêu lên: " Còn chỗ
cho một đứa bé". Hai đứa trẻ sực tỉnh, lao ra.
- Đứa nhỏ thôi! Nặng lắm rồi! - Một người nói."
Tôi cũng luôn tưu ý học sinh tuỳ từng nội dung bài mà thay đổi sắc thái
giọng cho phù hợp. Thông qua giọng đọc ta có thể biểu hiện được những sắc thái
tình cảm đa dạng của con người như: phẫn nộ, trìu mến, hóm hỉnh, vui vẻ, buồn
phiền, lo lắng, hờn giận...
Ví dụ khi đọc bài "Đất nước"
Tôi hướng dẫn học sinh hai khổ thơ đầu cần đọc với giọng bâng khuâng, da
diết. Nhưng đến khổ thơ thứ 3 - 4 cần đọc giọng giọng vui, khoẻ khoắn tràn đầy tự
hào. Khổ 5 chuyển giọng đọc chậm rãi, trầm lắng, chứa chan tình cảm, thể hiện sự
thành kính.
Đất nước
Sáng mát trong như sớm năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa.
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại

18


Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trong biếc nói cười thiết tha...
Hay trong bài "Con gái" để thể hiện niềm hãnh diện, tự hào, sự xúc động của
mọi người trong gia đình bé Mơ qua hành động dũng cảm cứu bạn của Mơ. Tôi
hướng dẫn học sinh cần nhấn giọng từ ngữ sau:
"Tối đó, bố về, bố ôm Mơ chặt đến ngợp thở. Cả bố mẹ Mơ đều rơm rớm
nước mắt. Chỉ có em bé nằm trong nôi là cười rất tươi. Chắc là em khen chị Mơ
giỏi đấy. Dì Hạnh nói giọng đầy tự hào : " Biết cháu tôi chưa, con gái mà như nó
thì một trăm đứa con trai cũng không bằng."
II.2.5.2 Chú ý tới nét mặt, điệu bộ trong khi đọc.
Sau khi học sinh đã thống nhất, nắm được cách đọc tôi thường tổ chức cho
học sinh luyện đọc trong nhóm, sau đó tôi tổ chức cho học sinh thi đọc trước lớp và
người nhận xét đánh giá cũng là chính các em.
Tiêu chuẩn để cho các em nhận xét, đánh giá cao bạn đọc là người đọc phải
thể hiện được cả nét mặt, điệu bộ khi đọc. Bởi lẽ khi cần thiết nếu biết thể hiện nét
mặt điệu bộ một cách tự nhiên, phù hợp với nội dung văn bản sẽ góp phần tạo nên
sự truyền cảm đối với người nghe.
Ví dụ trong bài "Thái sư Trần Thủ Độ" - Tiếng việt 5 tập 2
Chú ý tới lời nhân vật:
Trần Thủ Độ: Nét mặt nghiêm trang,khi nói chuyện với vua thì trầm ngâm,
thành thật.
Linh từ Quốc mẫu: Tỏ vẻ giận dỗi
Vua: Uy nghiêm
19



Người quân hiệu: Lo lắng, sợ hãi

II.3 Chương III- Phương pháp nghiên cứu, kết quả nghiên cứu.
II.3.1 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí luận
Tôi sử dụng những hiểu biết lí luận về "Các biện pháp rèn đọc cho
học sinh lớp 5" qua những kiến thức được học ở trường Sư phạm, qua sự trau dồi
tích luỹ từ những năm giảng dạy ở trường tiểu học.
- Phương pháp điều tra: Tôi tiến hành khảo sát số lượng lớn học sinh lớp 5
qua việc rèn đọc. Thu thập rộng rãi các số liệu, hiện tượng để từ đó phát hiện ra
những vấn đề cần giải quyết, xác định được tính phổ biến của vấn đề này.
- Phương pháp quan sát: Đây là phương pháp sử dụng có mục đích có kế
hoạch theo một quy cách nhất định, sử dụng các giác quan để thu thập những hoạt
động của đối tượng. Nhưng phương pháp này còn hạn chế là chỉ đánh giá được
biểu hiện về lí luận không thể thấy được biểu hiện bản chất bên trong.
- Phương pháp đàm thoại: Tôi sử dụng phương pháp này bằng cách đặt câu
hỏi trực tiếp với học sinh, với giáo viên. Dựa vào câu trả lời của họ nhằm thu thập
đầy đủ hơn tư liệu liên quan.
- Phương pháp thử nghiệm: Tôi tiến hành áp dụng biện pháp đề ra để xem
biện pháp của mình đề ra có hiệu quả hay không.
II.3.2 Kết quả nghiên cứu
Với sự đầu tư nghiên cứu và qua thự tế giảng dạy nhiều năm nay, với sự yêu
thích giảng dạy môn học này nên tôi đã từng bước nâng cao dần kĩ năng đọc cho
học sinh.
Qua những biện pháp đã thực hiện tôi thấy nhiều em có tiến bộ rõ rệt. Các
em đã đọc lưu loát các văn bản, không còn tình trạng các em đọc ê a ngắ ngứ, đọc

20



liến thoắng, đọc quá to hoặc quá nhỏ. Các em đã biết ngắt nghỉ hơi hợp lí. Việc
phát âm sai đã giảm hẳn, các em đã ý thức được khi đọc và ngay cả khi nói.
Việc đọc thầm có hiệu quả đáng kể. Các em có ý thức tự giác và đạt được
yêu cầu, mục đích khi đọc: Đọc để làm gì? Tìm hiểu điều gì? Thấy được điều gì?
Từ việc hiểu nội dung văn bản đọc các em đã cảm thụ tốt các văn bản nghệ thuật,
vốn từ ngữ của các em nâng cao hơn, có tình cảm, cản xúc trong sáng, hướng tới
cái đẹp. Các em nhận ra được những điều sâu sắc, tế nhị, đẹp đẽ của các bài văn,
bài thơ qua mỗi giờ tập đọc.
Về việc đọc diễn cảm: Học sinh rất hào hứng khi tham gia vào bước đọc
này. Các em đã biết thể hiện ngữ điệu, điệu bộ, nét mặt, cảm xúc khi đọc.
Với sự đầu tư nghiên cứu, vận dụng linh hoạt các biện pháp trên, năm học
2007 - 2008 tôi đã thể hiện thành công một tiết dạy Tập đọc chú trọng tới biện pháp
rèn đọc cho học sinh qua chuyên đề của tổ khối 5 trường tôi tổ chức. Kinh nghiệm
của tôi cũng đã được chị em đồng nghiệp đánh giá cao.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Trên đây là một số việc làm nhỏ mà tôi đã vận dụng trong quá trình giảng
dạy ở lớp mình phụ trách bước đầu đã thu được kết quả đáng mừng. Tôi nhận thấy
rằng việc rèn đọc cho học sinh không chỉ mang lại hiệu quả cho mỗi giờ tập đọc
trong chương trình mà nó còn giúp cho chúng ta rèn luyện cho học sinh các kĩ năng
cơ bản, cần thiết trong học tập và vận dụng trong đời sống thực tế.
Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của Ban giám hiệu nhà trường,
đồng nghiệp, các đồng chí phụ trách chuyên môn Phòng Giáo dục và Đào tạo để tôi
tiép tục bổ sung, hoàn thiện và vận dụng có hiệu quả cho những năm học tiếp theo.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hoành Bồ, ngày 10 tháng 5 năm 2008
Người thực hiện

21



Bùi Thị Thu Hà
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO, PHỤ LỤC

Tài liệu tham khảo:
SGK Tiếng việt 5 tập 1, tập 2
SGV Tiếng việt 5 tập 1
Phương pháp dạy học Tiếng việt ( Nguyễn Trí - Lê Phương Nga)
Phụ lục
Nội dung
I. Phần mở đầu
I.1.Lí do chọn đề tài
I.2. Mục đích nghiên cứu
I.3.Thời gian và địa điểm
I.4.Đóng góp mới về lí luận, thực tiễn
II. Nội dung
II.1 Chương 1 Tổng quan
II.2 Chương 2: Nội dung cụ thể
II.2.1 Chú trọng khâu chuẩn bị bài của học sinh
II.2.2 Rèn đọc ở khâu kiểm tra bài cũ
II.2.3. Quan tâm đến việc rèn đọc đúng
II.2.3.1. Rèn đọc ở bước hướng dẫn đọc
II.2.3.2. Rèn phát âm chuẩn cho học sinh
II.2.3.3. Chú trọng việc rèn đọc cá nhân
II.2.4. Rèn đọc thầm (đọc hiểu)
II.2.4.1. Đọc thầm theo bạn hoặc theo cô giáo
II.2.4.2. Đọc thầm để tìm hiểu bài
II.2.4.3. Đọc thầm lướt để nắm nội dung, tóm tắt ý hoặc chọn ý
II.2.5.Rèn đọc diễn cảm

III.3. Chương 3: Phương pháp nghiên cứu kết quả nghiên cứu
III.3.1. Phương pháp nghiên cứu
III.3.2. Kết quả nghiên cứu
IV. Kết luận - Kiến nghị
V. Đánh giá

22

Trang
1
1
2
3
3
3
3
5
5
6
7
10
10
11
12
12
13
15
15
20
20

20
21
22


V. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CỦA NHÀ TRƯỜNG , HỘI ĐỒNG CẤP
PHÒNG GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO

23


24


25


×