Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Áp dụng pháp luật của ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển việt nam hiện nay (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 80 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ......................................................1
2. Tình hình nghiên cứu những vấn đề liên quan đến đề tài ..........................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................2
4. Phạm vi nghiên cứu ..........................................................................................3
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu..........................................3
6. Những kết quả nghiên cứu mới của Luận văn................................................3
7. Kết cấu của Luận văn .........................................................................................4
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT CỦA NGÂN
HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẨN ......................................................................5
1.1. Khái niệm ngân hàng thƣơng mại cổ phần ........................................... 5
1.2. Khái niệm áp dụng pháp luật của ngân hàng thƣơng mại cổ phần 10
1.3. Đặc điểm áp dụng pháp luật của NHTMCP....................................... 12
1.4. Nội dung áp dụng pháp luật của NHTMCP ....................................... 13
1.4.1. Áp dụng pháp luật trong hoạt động dịch vụ .............................. 14
1.4.2. Áp dụng pháp luật trong hoạt động cấp tín dụng ...................... 20
1.4.3. Áp dụng pháp luật trong việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức, điều
hành hoạt động và nhân sự ..................................................................... 24
1.5. Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc áp dụng pháp luật của ngân hàng
thƣơng mại cổ phần........................................................................................... 26
1.5.1. Yếu tố kinh tế - chính trị - xã hội ............................................... 26

1.5.2. Yếu tố pháp luật ........................................................................... 29
1.5.3. Các yếu tố thuộc về chính sách và nguồn lực của NHTMCP .. 30
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT THỜI GIAN QUA VÀ
GIẢI PHÁP ÁP DỤNG PHÁP LUẬT CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
CỔ PHẦN ĐẦU TƢ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI ....34
2.1. Tổng quan về NHTMCP Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam ................... 34
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển .................................................. 34



2.1.2. Lĩnh vực hoạt động ........................................................................ 35
2.1.3. Mạng lưới và thương hiệu............................................................. 35
2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật của Ngân hàng thƣơng mại cổ phần
Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam hiện nay ....................................................... 37
2.1.1. Kết quả đạt được của hoạt động áp dụng pháp luật tại Ngân hàng
thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam ............................. 37
2.1.2. Hạn chế, bất cập của áp dụng pháp luật của Ngân hàng thương
mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam .......................................... 55
2.3. Nguyên nhân của bất cập và hạn chế trong hoạt động áp dụng pháp
luật tại Ngân hàng thƣơng mại cổ phần Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam. 57
2.3.1. Do tác động của yếu tố kinh tế - xã hội ........................................ 57
2.3.2. Do sự bất cập của một số quy định pháp luật .............................. 59
2.3.2.1. Bất cập trong pháp luật về giao dịch bảo đảm............................ 59
2.3.2.2. Thiếu văn bản hướng dẫn về nghiệp vụ ngân hàng ..................... 62
2.3.2.3. Bất cập trong hoạt động tố tụng .................................................. 63
2.3.3. Do sự hạn chế, bất cập trong chính sách và hoạt động của ngân hàng.. 63
2.4. Định hƣớng hoạt động áp dụng pháp luật của Ngân hàng thƣơng
mại cổ phần Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam thời gian tới .......................... 64
2.5.

Giải pháp áp dụng pháp luật tại Ngân hàng thƣơng mại cổ phần

Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam thời gian tới ................................................. 67
2.5.1. Cải thiện chính sách nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
của doanh nghiệp ...................................................................................... 67

2.5.2. Đồng bộ hóa và ổn định hệ thống tổ chức - điều hành doanh nghiệp 71
2.5.3. Sửa đổi quy định pháp luật chưa phù hợp ...................................... 71
2.5.4. Bắt kịp xu thế hội nhập kinh tế quốc tế........................................... 72

2.5.5. Nâng cao ý thức pháp luật của người lao động ............................. 73
KẾT LUẬN .............................................................................................................75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây nền kinh tế Việt Nam đang có những bước
phát triển vượt bậc, đặc biệt, từ khi Việt Nam trở thành thành viên của Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO) và của Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP) thì nền kinh tế Việt Nam hội nhập cùng nền kinh tế quốc tế
ngày càng sâu rộng. Các hoạt động trao đổi hàng hóa, thương mại, dịch vụ
hiện nay không chỉ diễn ra trong phạm vi lãnh thổ mà còn vươn ra tầm quốc
tế. Để phù hợp với xu thế đó, hệ thống các ngân hàng thương mại cũng không
ngừng phát triển và mở rộng. Tuy nhiên, song song với sự phát triển là tiềm
ẩn rủi ro rất lớn đối với hệ thống ngân hàng và ảnh hưởng đến nền kinh tế của
cả đất nước. Do đó, vấn đề đặt ra cho nước ta hiện nay là việc phát triển và
mở rộng hệ thống ngân hàng luôn phải song hành với việc bảo đảm an toàn,
ổn định cho hệ thống này.
Hiện nay, hệ thống ngân hàng đang hoạt động trong phạm vi điều chỉnh
của pháp luật. Việc áp dụng pháp luật trong quá trình thực hiện nghiệp vụ
ngân hàng thời gian qua đạt được nhiều thành tựu, thúc đẩy sự phát triển của
hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Tuy nhiên, hoạt động
này cũng gặp không ít khó khăn, hạn chế. Do vậy, tìm hiểu thực trạng áp
dụng pháp luật của Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt
Nam, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế của hoạt động này trong thực tế, xác
định nguyên nhân dẫn đến những ưu điểm hạn chế đó và đề xuất các giải pháp
nâng cao hiệu quả của hoạt động này không chỉ mang ý nghĩa thiết thực đối

với chính Ngân hàng thương mại cổ phẩn Đầu tư và Phát triển mà còn có thể
cung cấp kinh nghiệm tham khảo cho các ngân hàng thương mại cổ phần khác
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng. Đó chính là lý do
mà em chọn nghiên cứu đề tài: "Áp dụng pháp luật của Ngân hàng thương


2

mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam hiện nay" để làm luận văn thạc
sĩ của mình.
2.

Tình hình nghiên cứu những vấn đề liên quan đến đề tài
Áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật trong lĩnh vực ngân

hàng nói riêng là đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học pháp lý.
Đặc biệt trong trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân và hội nhập quốc tế hiện nay. Có thể kể đến một
số công trình sau như: Nguyễn Thị Hồi, tài liệu tham khảo “Áp dụng pháp
luật ở Việt Nam hiện nay” – NXB Tư pháp 2009, Nguyễn Minh Đoan với
“Hiệu quả áp dụng pháp luật – những vấn đề lý luận và thực tiễn”, NXB
Chính trị quốc gia – 1999, Nguyễn Phương Huyền, Thực tiễn áp dụng pháp
luật về bảo lãnh ngân hàng tại ngân hàng TMCP Quân đội, Luận văn thạc sĩ
Luật học – 2013... Tuy nhiên các công trình trên chủ yếu đề cập tới những vấn
đề lý luận và thực tiễn chung nhất về áp dụng pháp luật và hoạt động áp dụng
pháp luật trong một số lĩnh vực như dân sự, hôn nhân và gia đình, tư pháp
quốc tế...; hoặc tiếp cân hoạt động áp dụng pháp luật ở một hoạt động ngân
hàng nhất định như bảo hiểm, bảo lãnh hoặc thanh toán. Vì thế, chưa có công
trình nghiên cứu nào nghiên cứu trực tiếp về hoạt động áp dụng pháp luật của
Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển như công trình này.

3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài “Áp dụng pháp luật của Ngân hàng thương

mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam hiện nay” là nhằm xem xét, đánh
giá thực trạng áp dụng pháp luật tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và
Phát triển Việt Nam thời gian qua để trên cơ sở đó tìm ra các giải pháp có tính
khả thi để thúc đẩy hoạt động áp dụng pháp luật của Ngân hàng này trong thời
gian tới, qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của hệ thống ngân hàng.
Để đạt được mục đích trên thì nhiệm vụ nghiên cứu đề tài gồm:
Một là, hệ thống hóa và làm rõ một số vấn đề lý luận về áp dụng pháp
luật của ngân hàng thương mại cổ phần như khái niệm, đặc điểm, nội dung


3

của áp dụng pháp luật cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng pháp
luật của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Hai là, xem xét, đánh giá thực trạng hoạt động áp dụng pháp luật của
Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam thời gian qua,
chỉ ra những ưu điểm, hạn chế của hoạt động này và xác định những nguyên
nhân dẫn những hạn chế, bất cập đó.
Ba là, đề xuất một số giải pháp để thúc đẩy hoạt động việc áp dụng pháp
luật của Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong
thời gian tới.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài này chủ yếu là cơ sở lý luận về áp dụng
pháp luật của Ngân hàng thương mại cổ phần và thực trạng áp dụng pháp luật
của Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam ở một số

lĩnh vực: dịch vụ, cấp tín dụng, hoàn thiện cơ cấu tổ chức, điều hành hoạt
động và nhân sự trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến năm 2015 mà chủ
yếu là trong năm 2015.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận là các nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Marx - Lenin và đường lối, chính sách của Đảng cộng sản
Việt Nam; trên cơ sở của phương pháp biện chứng duy vật.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể bao gồm: thu thập và tổng hợp
thông tin, chú trọng việc thu thập các số liệu từ các báo cáo thực tế về hoạt
động của Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam; so
sánh, phân tích, đối chiếu các số liệu, tài liệu thu thập được phân tích và nêu
lên nhận xét, đánh giá.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của Luận văn
- Góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ cơ sở lý luận về áp dụng pháp
luật trong hoạt động của Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và phát triển
Việt Nam.


4

- Xác định được những thành tựu và hạn chế của hoạt động áp dụng pháp
luật trong một số lĩnh vực của Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát
triển Việt Nam trong thời gian từ năm 2011- 2015.
- Đề xuất được một số giải pháp có tính khả thi để thúc đẩy hoạt động áp
dụng pháp luật trong các hoạt động dịch vụ, cấp tín dụng và hoàn thiện cơ cấu
tổ chức, điều hành, nhân sự của Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và
Phát triển Việt Nam trong thời gian tới.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn gồm 2 chương:

Chương 1. Cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật của NHTMCP.
Chương 2. Thực trạng áp dụng pháp luật thời gian qua và giải pháp áp
dụng pháp luật của Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt
Nam thời gian tới.


5

Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT CỦA
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẨN
1.1.

Khái niệm ngân hàng thƣơng mại cổ phần

Ngân hàng thương mại đã hình thành, tồn tại và phát triển gắn liền với sự
phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển của hệ thống ngân hàng thương
mại đã có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh
tế hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao
của nó – kinh tế thị trường – thì ngân hàng thương mại cũng ngày càng được
hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu được. Ngân
hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính có vị trí quan trọng trong
nền kinh tế quốc dân và hoạt động theo định chế trung gian mang tính chất
tổng hợp. Các nhà nghiên cứu ghi nhận rằng, ngân hàng thương mại hình
thành trên cơ sở của sự phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá. Khi sản xuất
phát triển thì nhu cầu trao đổi mở rộng sản xuất giữa các vùng lãnh thổ, giữa
các quốc gia tăng lên, để khắc phục sự khác biệt về tiền tệ giữa các khu vực
thì xuất hiện các thương gia làm nghề đổi tiền. Khi trao đổi hàng hoá phát
triển quay trở lại kích thích sản xuất hàng hóa. Cùng với sự phát triển đó, các
nghiệp vụ được phát triển dần như giữ tiền hộ, chi trả hộ... trên cơ sở đó thực

hiện hoạt động tín dụng.
Từ lịch sử hình thành hệ thống ngân hàng thương mại cho thấy, các ngân
hàng thương mại chỉ xuất hiện trong điều kiện nền kinh tế đã phát triển đến
một trình độ nhất định, dẫn đến tính tất yếu khách quan của việc hình thành
hệ thống ngân hàng gắn bó chặt chẽ với sự phát triển kinh tế.
Ngân hàng quốc gia Việt Nam ra đời ngày 05/05/1951 theo sắc lệnh
15/SL của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trong giai đoạn 1951 1987, ở Việt Nam đã tạo lập hệ thống ngân hàng một cấp, chỉ phù hợp với cơ
chế quản lý kế hoạch hoá tập trung. Khi nước ta chuyển nền kinh tế sang cơ


6

chế thị trường, hệ thống ngân hàng một cấp tất yếu phải được cải tổ sang hệ
thống ngân hàng hai cấp: cấp quản lý và kinh doanh. Sau khi Nghị định số
53/HĐBT được ban hành ngày 26/03/1998 bộ máy NHNN được tổ chức
thành hệ thống thống nhất trong cả nước, gồm hai cấp là NHNN và các Ngân
hàng chuyên doanh trực thuộc. Hệ thống NHNN Việt Nam hoạt động theo
chế độ hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, hệ thống
ngân hàng được tổ chức dưới nhiều loại hình như ngân hàng thương mại quốc
doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, ngân hàng đầu
tư, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài1.
Để đưa ra được một khái niệm chính xác và tổng quát nhất về ngân hàng
thương mại, người ta thường phải dựa vào tính chất và mục đích hoạt động
của nó trên thị trường tài chính, và đôi khi còn kết hợp tính chất, mục đích và
đối tuợng hoạt động. Ví dụ: Luật ngân hàng của Pháp năm 1941 định nghĩa:
“Ngân hàng là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận
của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác số tiền mà họ dùng
cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”.
Luật ngân hàng của Ấn Độ năm 1959 đã nêu: “Ngân hàng là cơ sở nhận các

khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư”. Luật ngân hàng Đan Mạch
cũng ghi nhận căn cứ vào sự kết hợp với đối tượng hoạt động: “Những Ngân
hàng thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc, hành
nghề thương mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu,
thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân, bảo hiểm,…”
Theo Pháp lệnh Ngân hàng số 38 - LTC/HĐNN8 ngày 24/05/1990 quy
định: ngân hàng thương mại là: “tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ
yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số
tiền đó để cho vay, thực hiện nhiệm vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh
1

Khái quát chung về Ngân hàng thương mại, Nguồn: Truy câp ngày 26/07/2016.


7

toán”. Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 định nghĩa ngân hàng thương mại
tại Khoản 3 Điều 4 như sau: „Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng
được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh
khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”. Trước hết cần
hiểu ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp thực hiện các hoạt động ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh trong khuôn khổ luật định, mục đích cuối
cùng là mục đích “sinh lợi” chính là yếu tố làm nên tính “thương mại” của
loại chủ thế này. Đây cũng là một dấu hiệu để phân biệt với một số loại hình
tổ chức tín dụng khác. Vậy hoạt động ngân hàng của ngân hàng thương mại là
gì? Theo Luật Ngân hàng nhà nước: hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh
doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền
gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán
(Khoản 1 Điều 6 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2010). Như vậy
ngân hàng thương mại là định chế tài chính trung gian quan trọng vào loại bậc

nhất trong nền kinh tế thị trường. Nhờ hệ thống định chế này mà các nguồn
tiền vốn nhàn rỗi sẽ được huy động, tạo lập nguồn vốn tín dụng to lớn để có
thể cho vay phát triển kinh tế.
Ngân hàng thương mại có một số đặc trưng sau:
 Về cấu trúc tài chính và tài sản: là doanh nghiệp có quy mô lớn, hệ số
nợ rất cao và cấu trúc tài sản đặc biệt
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp có quy mô lớn trên cả giác độ
vốn chủ sở hữu và tổng tài sản. Ở Việt Nam, vốn chủ sở hữu của các ngân
hàng thương mại là hàng nghìn tỷ đồng. Đối với các ngân hàng thương mại
trên thế giới, vốn chủ sở hữu lên tới nhiều tỷ đô la Mỹ. Mạng lưới các chi
nhánh ngân hàng thường rất lớn và phân tán rộng về địa lý. Trong khi quy mô
về vốn chủ sở hữu đã rất lớn, nguồn vốn của ngân hàng thương mại lại chủ
yếu là nợ được huy động từ bên ngoài ngân hàng. Cấu trúc tài sản của ngân
hàng thương mại đặc biệt hơn so với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh
khác là ở tỷ trọng tài sản tài chính. Phần lớn tài sản của ngân hàng thương mại


8

là tài sản tài chính, mang đặc trưng trừu tượng, hình thái vật chất giản đơn chỉ
là giấy tờ hoặc thậm chí chỉ là dữ liệu điện tử được lưu giữ trong một thiết bị
nhất định. Bên cạnh đó, ngân hàng thương mại thường có xu hướng liên tục
phát triển các sản phẩm, công cụ tài chính mới.
 Nguồn vốn phục vụ hoạt động kinh doanh phần lớn là tiền gửi của các
tổ chức kinh tế
Đặc điểm nổi bật của ngân hàng thương mại là không sử dụng nguồn
vốn sở hữu vào trong các hoạt động kinh doanh của mình như cho vay, mua
bán chứng khoán. Hơn nữa nguồn vốn sở hữu của ngân hàng thương mại chỉ
chiếm một phần rất nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại.
Trong khi đó các loại hình kinh tế khác lại sử dụng chủ yếu nguồn vồn sở hữu

vào các hoạt động kinh doanh. Sự khác biệt của ngân hàng thương mại với
các định chế tài chính khác là ngân hàng thương mại có quyền huy động tiền
gửi trong nền kinh tế mỗi khi cân vốn để tiến hành các hoạt động kinh doanh
của mình. Không có một định chế tài chính nào ngoài ngân hàng thương mại
có thể nhận tiền gửi từ các cá nhân và các tổ chức trong nền kinh tế.
 Hoạt động của ngân hàng thương mại luôn chứa đựng nhiều rủi ro và
chịu sự kiểm soát, giám sát chặt chẽ của hệ thống luật pháp
Trên giác độ tài chính doanh nghiệp, doanh nghiệp có hệ số nợ cao sẽ
dẫn đến rủi ro trong hoạt động cũng cao. Bên cạnh đó, nguồn vốn nợ chủ yếu
của ngân hàng thương mại lại là tiền gửi với đặc trưng có thể bị rút ra trước
hạn với khối lượng khó xác định. Sản phẩm, dịch vụ ngân hàng không được
hưởng quy chế bảo hộ độc quyền và mang tính phức tạp, trực tiếp. Hơn nữa,
ngân hàng thương mại tham gia vào nhiều cam kết trong khi chưa chuyển
giao vốn thực sự, tức là hoạt động ngoại bảng phong phú và đa dạng. Điểm
này là một đặc trưng khác biệt với các loại hình doanh nghiệp khác. Vì những
lý do này, hoạt động của ngân hàng thương mại chứa đựng nhiều rủi ro hơn
các ngành kinh doanh khác. Rủi ro trong hoạt động của ngân hàng thương mại


9

bao gồm các loại rủi ro đặc thù như rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro
lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro vốn khả dụng, rủi ro đạo đức,…
Là doanh nghiệp có quy mô lớn, mạng lưới rộng khắp, hoạt động chịu
nhiều rủi ro, ảnh hưởng đáng kể đến nhiều hoạt động kinh tế xã hội, ngân
hàng thương mại chịu sự kiểm soát, giám sát chặt chẽ của hệ thống phát luật.
Các quy định pháp lý đối với Ngân hàng thương mại được phổ rộng trên
nhiều mặt của hoạt động kinh doanh như: điều kiện kinh doanh, tiêu chuẩn
của người lãnh đạo ngân hàng, dự trữ bắt buộc, bảo hiểm tiền gửi, an toàn
trong hoạt động, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, sử dụng vốn tự có

đầu tư cho tài sản cố định,…
 Tính liên kết và ổn định của hệ thống ngân hàng
Hệ thống ngân hàng có tính phụ thuộc lẫn nhau rất lớn. Hơn bất cứ
ngành kinh doanh nào trong nền kinh tế, rủi ro trong hoạt động ngân hàng có
tính lan toả rất nhanh. Hoạt động như một hệ thống các mắt xích liên kết chặt
chẽ, chỉ cần một ngân hàng thương mại, dù yếu và nhỏ nhất, gặp khó khăn
trong hoạt động, đặc biệt là khó khăn về thanh khoản, là có thể dẫn đến nguy
cơ phá sập hệ thống. Thực tiễn đã cho thấy, thanh khoản được ví như hơi thở
của sự sống trong hoạt động ngân hàng thương mại. Mọi rủi ro, tổn thất trong
hoạt động của ngân hàng thương mại đều có thể dẫn đến hậu quả cuối cùng là
ngân hàng mất khả năng thanh toán rồi phá sản.
Hệ thống ngân hàng – tài chính trong nền kinh tế rất nhạy cảm với mọi
biến động về kinh tế, kỹ thuật, chính trị và xã hội. Những biến động này
thường có tác động gần như tức thời đến hoạt động của thị trường tài chính,
điển hình là thị trường chứng khoán; theo đó, nó gây ảnh hưởng trực tiếp
đến hoạt động của hệ thống ngân hàng. Đối với công tác quản lý vĩ mô nền
kinh tế, việc nắm bắt được cơ chế hoạt động, ảnh hưởng lẫn nhau của các
phần tử trong hệ thống tài chính là một trong những vấn đề cốt yếu, quyết
định thành bại.


10

Khi ngân hàng thương mại được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần
thì có tên gọi cụ thể là NHTMCP. Có thể hiểu NHTMCP là loại hình tổ chức
tín dụng được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần; được thực hiện tất cả
các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định
của pháp luật
NHTMCP là một trong những loại hình ngân hàng thương mại điển hình
hiện này. Có thể hiểu đây là các ngân hàng được thành lập và hoạt động theo

các quy định về loại hình tổ chức doanh nghiệp dưới dạng công ty cổ phần.
Theo quy định tại Điều 110 Luật doanh nghiệp năm 2014 thì công ty cổ phần
là doanh nghiệp, trong đó:
“a) Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
b) Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là 03
và không hạn chế số lượng tối đa;
c) Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản
khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
d) Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người
khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 và khoản 1 Điều 126 của
Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13”.
Như vậy, NHTMCP là một loại hình ngân hàng tổ chức và hoạt động
theo quy định của Luật doanh nghiệp, sở hữu ngân hàng là các cổ đông, họ
cùng nhau góp vốn để hình thành và hoạt động theo quy định của pháp luật.
NHTMCP là một tổ chức tín dụng dưới hình thức công ty cổ phần nên chịu sự
điều chỉnh của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, trong đó quy định về cơ
cấu tổ chức, quyền và trách nhiệm của các chủ thể trong Công ty, vấn đề sở
hữu cổ phần, phát hành cổ phiếu, vấn đề chuyển nhượng cổ phần...
1.2. Khái niệm áp dụng pháp luật của ngân hàng thƣơng mại cổ phần
Pháp luật là hệ thống các quy phạm (quy tắc hành vi hay quy tắc xử sự)
có tính chất bắt buộc chung và được thực hiện lâu dài nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội, do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí Nhà


11

nước và được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp tổ chức, giáo
dục, thuyết phục, cưỡng chế bằng bộ máy nhà nước. Dưới góc độ lý luận
chung về nhà nước và pháp luật thì áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện
pháp luật, trong đó nhà nước thông qua cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức

trách tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện các qui định của pháp luật hoặc
bằng hành vi của mình căn cứ vào những quy định của pháp luật để ra các
quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hay chấm dứt một quan hệ pháp
luật. Cụ thể, tức là cá biệt hóa các quy phạm pháp luật vào những trường hợp
cụ thể, đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể.
Theo từ điển Black‟ Law từ áp dụng (apply) được hiểu theo nghĩa đưa
vào sử dụng với một vụ việc của một chủ thể riêng biệt (áp dụng pháp luật
trong thực tế)2. Trong từ điển Tiếng Việt, từ áp dụng được hiểu là: “Đem dùng
trong thực tế điều đã nhận thức được”3. Như vậy, có thể hiểu nôm na từ hai
cách diễn giải trên thì áp dụng pháp luật là đem pháp luật vào dùng trong thực
tế. Đây là cách hiểu rộng về khái niệm áp dụng pháp luật mà nhiều nhà
nghiên cứu pháp lý thừa nhận. Nếu hiểu khái niệmáp dụng pháp luật dưới góc
độ là một hình thức thực hiện pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trong việc đảm bảo chức năng điều chỉnh của pháp luật thì phạm vi của khái
niệm này đã bị thu hẹp. Trong phạm vi công trình nghiên cứu này, khái niệm
áp dụng pháp luật được tiếp cận trong khuôn khổ của một thực thể pháp lý
độc lập, không mang chức quyền lực nhà nước hay nhân danh quyền lực nhà
nước để thực thi pháp luật.
Dưới góc độ này, có thể hiểu áp dụng pháp luật của NHTMCP là
hoạt động do các NHTMCP tiến hành theo trình tự và thủ tục do pháp luật
quy định nhằm cá biệt hóa các quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực hoạt
động của NHTMCP vào những trường hợp cụ thể, đối với những cá nhân,
tổ chức cụ thể. Nói một cách cụ thể thì áp dụng pháp luật của NHTMCP là
2

Black‟s Law Dictionary, Seventh Edition. Bryan A.Garner, Edition in chief.West group. ST.Paul, Main
1999,tr 96.
3
Từ điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, sđd, tr.9



12

hình thức thực hiện pháp luật trong đó các cấp điều hành, quản lý trong
ngân hàng tổ chức cho các nhân viên thực hiện những quy định của pháp
luật hoặc bằng hành vi của mình căn cứ theo những quy định của pháp luật
để đưa ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt một quan hệ
pháp luật nhất định.
1.3. Đặc điểm áp dụng pháp luật của NHTMCP
Hoạt động áp dụng pháp luật của NHTMCP có một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ thể tiến hành áp dụng pháp luật là các NHTMCP được Nhà
nước trao quyền (thông qua hệ thống quy phạm pháp luật) thực hiện các hoạt
động nghiệp vụ ngân hàng, trên cơ sở đó áp dụng các quy định pháp luật vào
từng trường hợp cụ thể. Ví dụ, trong lĩnh vực kinh doanh ngoại hối và kinh
doanh vàng trên thị trường quốc tế là lĩnh vực kinh doanh đặc thù được Nhà
nước trao quyền kinh doanh cho một số NHTMCP nhất định, khi đáp ứng đủ
các điều kiện Nhà nước đặt ra thì NHTMCP đó mới được quyền áp dụng các
quy định của pháp luật về kinh doanh ngoại hối, kinh doanh vàng trong hoạt
động kinh doanh của mình.
Thứ hai, hoạt động áp dụng pháp luật trong NHTMCP được thực hiện theo
những trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định. Chẳng hạn, khi tuyển
dụng nhân viên, ký kết hợp đồng lao động với người lao động, các NHTMCP
đều phải tuân theo những trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật lao
động. Do hoạt động áp dụng pháp luật của NHTMCP được tiến hành dựa trên
cơ sở các quy phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực, các ngành luật khác nhau,
nên việc áp dụng chúng cũng có những trình tự, thủ tục khác nhau. Có những
quy phạm được áp dụng với quy trình đơn giản, nhưng có những quy phạm
việc áp dụng chúng là cả một quá trình phức tạp với sự tham gia, phối hợp
của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân. Việc áp dụng pháp luật của của
NHTMCP đối với mỗi vụ việc cụ thể thì yêu cầu về chuẩn mực nội dung, quy

trình áp dụng pháp luật cũng có những đặc thù riêng phù hợp với vụ việc đó.


13

Chẳng hạn, trình tự, thủ tục ký kết hợp đồng lao động của NHTMCP sẽ khác
với trình tự, thủ tục ký kết hợp đồng tín dụng, vay và cho vay của ngân hàng.
Thứ ba, hoạt động áp dụng pháp luật của NHTMCP được tiến hành trong
nhiều lĩnh vực khác nhau liên quan tới chức năng, nghiệp vụ ngân hàng. Các
lĩnh vực này cơ bản bao gồm: cấp tín dụng, hoạt động dịch vụ, hoàn thiện cơ
cấu tổ chức, điều hành hoạt động, nhân sự... Nội dung áp dụng pháp luật của
NHTMCP trong lĩnh vực này của NHTMCP trong những lĩnh vực này sẽ
được giới thiệu cụ thể ở mục sau.
Thứ tư, áp dụng pháp luật của NHTMCP là hoạt động điều chỉnh cá biệt
đối với các quan hệ xã hội trong lĩnh vực ngân hàng. Bằng hoạt động này, các
quy phạm pháp luật liên quan đến các lĩnh vực hoạt động của NHTMCP sẽ
được cá biệt hóa trong những trường hợp cụ thể, đối với các cá nhân, tổ chức
cụ thể. Chẳng hạn, khi áp dụng pháp luật về cho vay đối với một tổ chức, cá
nhân nào đó có nghĩa là ngân hàng đã cá biệt hóa quy phạm pháp luật trong
lĩnh vực này vào trường hợp cụ thể của cá nhân, tổ chức đó.
Các đặc điểm trên làm cho áp dụng pháp luật của NHTMCP khác với áp
dụng pháp luật của các chủ thể khác và trong các lĩnh vực khác.
1.4. Nội dung áp dụng pháp luật của NHTMCP
Xu thế hội nhập quốc tế đã mang lại cơ hội và thách thức lớn cho nền
kinh tế cũng như ngành tài chính- ngân hàng Việt Nam. Bên cạnh đó, sự phát
triển ngày càng sâu rộng của các ngân hàng và tổ chức tài chính quốc tế có
tiềm lực tài chính, kỹ thuật hiện đại và kinh nghiệm lâu năm sẽ tạo ra cuộc
cạnh tranh khốc liệt với các ngân hàng thương mại Việt Nam. Với đặc trưng
“độc canh tín dụng”, đa số nguồn thu nhập hiện nay của NHTMCP là từ hoạt
động tín dụng, một hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn các sản phẩm, dịch vụ

khác. Chính vì vậy, tìm hiểu hoạt động áp dụng pháp luật của NHTMCP trong
lĩnh vực tín dụng là áp dụng pháp luật trong hai hoạt động chính: hoạt động
dịch vụ và hoạt động cấp tín dụng. Theo quy định tại Khoản 12 Điều 4 Luật
các tổ chức tín dụng năm 2010 thì hoạt động của ngân hàng trong lĩnh vực


14

này gồm các hoạt động: nhận tiền gửi, cấp tín dụng và dịch vụ thanh toán qua
tài khoản.
Trên thế giới, dịch vụ ngân hàng được hiểu theo nghĩa rộng, tức là toàn bộ
các hoạt động tiền tệ tín dụng, thanh toán, ngoại hối…mà ngân hàng cung cấp
cho doanh nghiệp và công chúng. Hiện nay ở nước ta chưa có một tài liệu nào
định nghĩa cụ thể về dịch vụ ngân hàng. Văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt
động của ngân hàng như luật các tổ chức tín dụng cũng không định nghĩa về
dịch vụ ngân hàng. Điều 7 Chương 1 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 thì:
“hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng
với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín
dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Như vậy, có sự phân biệt giữa hoạt
động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Sau đây sẽ đề cập đến nội dung
áp dụng pháp luật của NHTMCP trong các lĩnh vực cụ thể là: hoạt động dịch
vụ (bao gồm dịch vụ thanh toán, bảo hiểm, nhận tiền gửi, ủy thác, tư vấn và
nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối và kinh doanh vàng trên thị trường trong
nước và thị trường quốc tế khi NHNN cho phép); hoạt động cấp tín dụng (bao
gồm cho vay và bảo lãnh ngân hàng); áp dụng pháp luật trong hoàn thiện cơ
cấu tổ chức, điều hành hoạt động và nhân sự của NHTMCP.
1.4.1.

Áp dụng pháp luật trong hoạt động dịch vụ


Mặc dù mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất của ngân hàng là lợi nhuận
nhưng ngân hàng thương mại vẫn cần có sự an toàn, tránh được các rủi ro
trong hoạt động kinh doanh của mình. Do vậy, ngoài các nghiệp vụ chính là
tín dụng, ngân quỹ, đầu tư tài chính, các ngân hàng thương mại hiện đại ngày
càng quan tâm đến việc phát triển các dịch vụ mới, đáp ứng tối đa nhu cầu
của khách hang, qua đó ngân hàng tìm kiếm lợi nhuận với mức rủi ro thấp
nhất. Các dịch vụ khác mà ngân hàng cung cấp vô cùng phong phú. Tuy nhiên
loại dịch vụ cơ bản trong hoạt động ngân hàng thương mại phải kể đến đó là
dịch vụ thanh toán qua tài khoản (Khoản 12 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng
năm 2010).


15

 Dịch vụ thanh toán
Đây là hoạt động mang tính dịch vụ đơn thuần mà không cần sử dụng đến
nguồn vốn của ngân hàng, thêm vào đó, hoạt động này còn tạo ra một nguồn
vốn tương đối lớn cho ngân hàng thông qua quá trình thanh toán. NHTMCP
có thể thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước thông qua các phương tiện
thanh toán như: séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thẻ …hoặc thanh toán quốc
tế dưới các hình thức như: chuyển tiền, nhờ thu,… Thông qua các dịch vụ
thanh toán, NHTMCP không những thu được các khoản phí mà còn tăng sức
cạnh tranh của mình đối với các đối thủ. Có thể hiểu dịch vụ thanh toán là
việc thực hiện các giao dịch trả tiền hoặc chuyển tiền giữa các tổ chức, cá
nhân.
Để đảm bảo đảm hoạt động của loại dịch vụ này, hiện nay các NHTMCP
nói riêng, các NHTM nói chung áp dụng hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật về dịch vụ thanh toán gồm:
Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Luật giao dịch điện tử năm 2005;
Nghị định số 101/2012/NĐ-CP năm 2012 của Chính phủ về thanh toán không

dùng tiền mặt; Nghị định số 156/2013/NĐ-CP năm 2013 quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
Thông tư số 46/2014/TT-NHNN do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam ban hành ngày 31/12/2015 hướng dẫn về dịch vụ thanh toán không dùng
tiền mặt.
Ngoài ra, pháp luật quốc tế cũng có nguồn điều chỉnh về hoạt động thanh
toán quốc tế. Ví dụ, Luật thống nhất về Hối phiếu và Kỳ phiếu thuộc Công
ước Gieneva – ULB 1930 (Uniform Law for Bills of Exchange and
Promissory Notes, Gieneva 1930). Công ước của Liên Hiệp Quốc về Hối
phiếu và Kỳ phiếu quốc tế năm 1988 (United Nations Convention on
International Bills of Exchange and International Promissory Notes 1988).
Luật thống nhất về Séc thuộc Công ước Gieneva 1931 – ULC 1931 (Uniform
Law for Cheques, Gieneva 1931) và các thông lệ, tập quán khác…


16

Các quy phạm pháp luật được áp dụng trong NHTMCP cũng như các hình
thức ngân hàng khác gồm ba nhóm cơ bản: nhóm quy phạm về chủ thể của
dịch vụ thanh toán; nhóm thứ hai gồm các quy phạm về chứng từ thanh toán,
hình thức thanh toán, phương tiện thanh toán, trật tự cung ứng các phương
tiện thanh toán. Đây cũng chính là nội dung pháp luật được áp dụng tại các
ngân hàng thương mại trong việc đảm bảo dịch vụ thanh toán. Các hình thức
của dịch vụ thanh toán gồm: dịch vụ thanh toán trong nước, dịch vụ thanh
toán quốc tế, dịch vụ thu hộ và dịch vụ chi hộ. Ngoài ra, hiện tại rất thịnh
hành loại dịch vụ trung gian thanh toán của các loại hình ngân hàng, đặc biệt
là ngân hàng thương mại; được hướng dẫn bởi Thông tư 39/2014/TT-NHNN
của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam ban hành ngày 11/12/2016
hướng dẫn về dịch vụ trung gian thanh toán.
Ngoài loại dịch vụ này, một số loại dịch vụ khác của ngân hàng thương mại

được cung cấp nhằm đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, đáp ứng tốt hơn nhu
cầu của khách hàng:
 Dịch vụ bảo hiểm
Khi xác định cung cấp loại hình dịch vụ này, ngân hàng thương mại cũng
xác định sẽ phải cạnh tranh gay gắt với các đối thủ chuyên doanh về bảo
hiểm. Tuy nhiên các Ngân hàng thương mại vẫn cung cấp dịch vụ này vì mục
đích đa dạng hoá danh mục sản phẩm cũng như tăng thêm thu nhập cho bản
thân mình.
Quan hệ bảo hiểm được thể hiện dưới dạng hợp đồng kinh doanh bảo hiểm
(sau đây gọi là hợp đồng bảo hiểm), về bản chất là sự thoả thuận giữa hai bên
nhằm ràng buộc nhau về mặt pháp lý. Một bên đưa ra đề nghị và bên kia chấp
nhận theo những điều khoản nhất định. Như vậy, một bên thanh toán (hoặc
cam kết thanh toán) phí bảo hiểm, còn bên kia cam kết bồi thường trong
những trường hợp thoả thuận (khi sự kiện bảo hiểm được thoả thuận xảy ra
trong thời gian hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm). Nội dung này đã được thể
hiện tại nhận định gồm 3 điểm của thẩm phán Chanell trong vụ Prudential


17

Insurance Co kiện Inland Revenue Commision (1904)4. Hệ thống pháp quy
điều chỉnh nội dung của dịch vụ kinh doanh bảo hiểm thuộc hoạt động của
NHTMCP bao gồm một số văn bản sau: Luật các tổ chức tín dụng năm 2010,
các tổ chức tín dụng được phép hoạt động đại lý kinh doanh bảo hiểm theo
quy định của Ngân hàng Nhà nước; Thông tư số 86/2014/TTLT-BTCNHNNVN ngày 02/07/2014 quy định điều kiện để tổ chức tín dụng được làm
đại lý bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Nghị định 45/2007/NĐCP quy định nguyên tắc hoạt động đại lý, các quyền và nghĩa vụ của doanh
nghiệp bảo hiểm. Tuy nhiên, vẫn chưa có quy định riêng cho hoạt động bảo
hiểm liên kết (Bancassurance)5. Nhằm thúc đẩy sự phát triển của kênh phân
phối này nói riêng, thị trường bảo hiểm nói chung và bảo vệ được quyền lợi
của khách hàng tham gia bảo hiểm, ngày 02/7/2014 Bộ Tài chính và Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư liên tịch số 86/2014/TTLTBTC-NHNNVN hướng dẫn hoạt động đại lý bảo hiểm của tổ chức tín dụng,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài cho doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Ngoài
ra, với hình thức bảo hiểm tiền gửi có Luật bảo hiểm tiền gửi số 06/
2012/QH13 của Quốc hội thông qua ngày 18/06/2012…
Về cơ bản, hành lang pháp lý cho hoạt động bảo hiểm liên kết ngân hàng
trong nhiều lĩnh vực đã được ban hành đầy đủ, đáp ứng được kỳ vọng của các
bên liên quan. Tuy nhiên, việc áp dụng pháp luật vào hoạt động kinh doanh
loại dịch vụ này còn nhiều vấn đề cần xem xét, nhất là trong bối cảnh thị
trường bảo hiểm phát triển mạnh mẽ và sôi động như hiện nay.
 Dịch vụ uỷ thác
Nghiệp vụ này đã được các ngân hàng thương mại trên thế giới quan tâm từ
rất sớm, bao gồm: uỷ thác cho cá nhân và uỷ thác cho doanh nghiệp. Uỷ thác
cho cá nhân gồm: quản lý thanh lý tài sản theo di chúc, giám hộ và bảo quản
4

Ths. Nguyễn Thị Minh Nguyệt, Kinh doanh bảo hiểm – Mộ hoạt động của Ngân hàng thương mại,
24/11/2008.
Nguồn: Truy cập ngày 26/07/2016.
5
Một loại hình liên kết bảo hiểm trong đó các công ty bảo hiểm sẽ phân phối các sản phẩm bảo hiểm qua hệ
thống ngân hàng.


18

tài sản, quản lý điều hành tài sản theo hợp đồng với nội dung là chuyển
nhượng tài sản từ người uỷ thác sang cho người chịu thác để ngưòi này nắm
giữ và điều hành tài sản vì lợi ích của người uỷ thác. Uỷ thác cho doanh
nghiệp gồm: quản lý quỹ hưu trí, uỷ thác làm đại lý cho các tổ chức…Nhìn
chung nghiệp vụ uỷ thác mang lại cho ngân hàng những khoản thu nhập đáng

kể và quan hệ tốt đẹp với những khách hàng có doanh số hoat động lớn.
Hệ thống pháp luật được áp dụng trong việc điều chỉnh loại quan hệ này là
nhóm các quy phạm phạm xác lập chủ thể, nội dung và khách thể của các
quan hệ đó, được ấn định trong Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, Thông tư
số 30/2014/TT-NHNN củaThống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày năm 2014
quy định về ủy thác và nhận ủy thác của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài thay thế Thông tư số 04/2012/TT-NHNN ngày 8 tháng 3
năm 2012 của Ngân hàng Nhà nước quy định về nghiệp vụ nhận ủy thác và
ủy thác của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; Thông tư số
05/2006/TT-NHNN năm 2006 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn một số
nội dung về hoạt động cho thuê tài chính và dịch vụ ủy thác cho thuê tài chính
theo quy định tại Nghị định số 16/2001/NĐ-CP năm 2001 và Nghị định số
65/2005/NĐ-CP năm 2005 của Chính phủ.
 Dịch vụ tư vấn
Là loại dịch vụ được thực hiện trên cơ sở hợp đồng ký kết và cung cấp cho
bên được tư vấn những trợ giúp của những nhân viên được đào tạo về chuyên
môn một cách khách quan độc lập. Hơn bất cứ một doanh nghiệp nào, ngân
hàng thương mại là một doanh nghiệp mà hoạt động kinh doanh luôn chứa
đựng rủi ro tiềm ẩn cao bởi đối tượng kinh doanh của ngân hàng thương mại
là tiền tệ và nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng là do đi vay dưới nhiều hình
thức. Chính vì vậy, trong hoạt động của mình ngân hàng là một doanh nghiệp
có quan hệ với rất nhiều khách hàng, lưu giữ nhiều thông tin của các tổ chức
kinh tế, hơn nữa ngân hàng còn có các nhân viên đầy kinh nghiệm trong lĩnh
vực tài chính tiền tệ. Điều này giúp cho các chuyên gia của ngân hàng có thể


19

đưa ra các lời khuyên tối ưu cho các khách hàng, giúp cho họ giải quyết các
vấn đề trong kinh doanh của mình một cách có hiêu quả nhất. Dịch vụ tư vấn

không chỉ giúp cho ngân hàng thu được các khoản phí mà còn nâng cao hình
ảnh của ngân hàng trong mắt khách hàng.
Ở một số nước, hoạt động tư vấn trong một số dịch vụ của Ngân hàng là
bắt buộc. Tại Úc, nghĩa vụ tư vấn (advice duty) được xác lập cả trong các văn
bản pháp luật – Bộ luật tín dụng tiêu dùng (UCCC) và Bộ luật về thực hành
ngân hàng (Code of banking practice) – lẫn trong thực tiễn xét xử. Theo quy
định của pháp luật, nghĩa vụ tư vấn kéo theo việc các ngân hàng phải bảo đảm
rằng người bảo lãnh hiểu hợp đồng mà mình ký, đặc biệt là ảnh hưởng về mặt
tài chính của hợp đồng này đối với mình6.
Đây là một trong những hoạt động dịch vụ phổ biến của tất cả các ngân
hàng. Có thể coi đây là một thước đo đánh giá chất lượng phục vụ của ngân
hàng. Người Đức có câu: “Chất lượng là sự quay trở lại của khách hàng” Cơ
sở pháp lý cho hoạt động này của ngân hàng là hệ thống pháp luật về Hợp
đồng như Bộ luật dân sự, Luật thương mại năm 2005, Luật các tổ chức tín
dụng năm 2010…
 Hoạt động kinh doanh ngoại hối và kinh doanh vàng trên thị trường
trong nước và thị trường quốc tế khi Ngân hàng Nhà nước cho phép
Ngân hàng thương mại có thể kinh doanh giao dịch giao ngay (spots)7, giao
dịch ngoại hối kỳ hạn (forwards), hoặc giao dịch hoán đổi (swaps), giao dịch
quyền chọn (options). Trong xu thế mở cửa giao lưu với quốc tế, để trở thành
các ngân hàng thương mại phát triển đa năng thì nghiệp vụ kinh doanh ngoại
6

THS. BÙI ĐỨC GIANG, Công ty Luật Audier and Partners Vietnam LLC (A&P) & NCS khoa Luật, Đại
học Paris 2 Panthéon Assas, Pháp, Pháp luật bảo lãnh của Việt Nam nhìn từ góc độ so sánh. Nguồn:
Truy cập ngày:30/07/2016
7
Giao dịch giao ngay trên thị trường liên ngân hàng là phương thức mua bán ngoại tệ mà việc chuyển giao và
thanh toán giữa hai ngân hàng sẽ được thực hiện, thông thường, vào ngày thứ hai sau ngày giao dịch. Chẳng
hạn, một ngân hàng Mỹ ký hợp đồng vào thứ 2 bán 10.000.000 GBP cho một ngân hàng London. Nếu tỷ giá

giao ngay là 1,6984 USD/GDP thì ngân hàng Mỹ sẽ giao 10.000.000 GBP cho ngân hàng London vào thứ 4
và đồng thời ngân hàng London sẽ chuyển 16.984.000 USD cho ngân hàng Mỹ. Tuy nhiên, giao dịch giữa
ngân hàng với khách hàng thương mại sẽ không cần thiêt phải chờ đợi 2 ngày mà có thể thực hiện vào ngày
tiếp theo của giao dịch. Giao dịch giao ngay hiện nay chủ yếu thực hiện trên thị trường liên ngân hàng


20

hối ngày càng trở nên quan trọng đối với các ngân hàng thương mại. Bởi nó
không chỉ đem lại lợi nhuận trực tiếp do tỷ giá thay đổi theo chiều hướng có
lợi cho ngân hàng thương mại mà còn hỗ trợ để mở rộng các nghiệp vụ khác.
Hệ thống văn bản pháp quy áp dụng vào điều chỉnh loại quan hệ pháp luật
này bao gồm: Pháp lệnh ngoại hối năm 2005 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung
một số điều của Pháp lệnh ngoại hối năm 2013; Luật các tổ chức tín dụng
năm 2010; Nghị định số 70/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Pháp lệnh ngoại hối và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một
số điều của Pháp lệnh ngoại hối; Nghị định này thay thế Nghị định
số 160/2006/NĐ-CP năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp
lệnh ngoại hối; Thông tư số 15/2010/TT-NHNN năm 2015 hướng dẫn giao
dịch ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép hoạt
động ngoại hối; Nghị định số 24/2012/NĐ-CP của Chính phủ năm 2012 về
quản lý hoạt động kinh doanh vàng.
1.4.2.

Áp dụng pháp luật trong hoạt động cấp tín dụng

Hoạt động cấp tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu và quan trọng của các ngân
hàng thương mại, nó thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản có của ngân
hàng và là thành phần tài sản sinh lời nhiều nhất cho ngân hàng thương mại.
Hoạt động cấp tín dụng giúp ngân hàng cung ứng vốn cho nền kinh tế thúc

đẩy mở rộng sản xuất kinh doanh. Các ngân hàng thương mại luôn phấn đấu
để đạt mức dư nợ cao nhất bởi thu lãi cho vay là nguồn thu chính; tuy nhiên,
bên cạnh đó nghiệp vụ này cũng chứa đựng nhiều rủi ro.
Hoạt động tín dụng hay cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá
nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản
tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho
thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín
dụng khác.
Các ngân hàng thương mại thường thực hiện nghiệp vụ này thông qua
các hình thức phổ biến sau:


21



Nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, trong đó bao gồm :

Thứ nhất, cho vay chiết khấu: là nghiệp vụ mà trong đó khách hàng
phải chuyển giao cho ngân hàng những giấy tờ có giá còn thời hạn thanh toán
và số tiền được vay sẽ bằng mệnh giá trừ đi lãi suất chiết khấu và hoa hồng
phí.
Thứ hai, cho vay ứng trước: là nghiệp vụ mà ngân hàng cho khách hàng
vay bằng cách mở cho khách hàng một tài khoản và chuyển số tiền vay vào
tài khoản tiền gửi của họ. Khách hàng có thể phát hành séc, ủy nhiệm chi để
mua hàng hóa dịch vụ.
Thứ ba, cho vay thấu chi: là nghiệp vụ ngân hàng cho phép khách hàng
chi tiêu vượt quá số dư trên tài khoản vãng lai.
Ngoài ra, nghiệp vụ tín dụng còn có các loại hình khác như tín dụng
ngân quỹ, tín dụng bằng chữ ký… rất phong phú và đa dạng. Qua đó ngân

hàng có thể đáp ứng được đầy đủ nhu cầu vốn của các đối tượng khách hàng.


Nghiệp vụ tín dụng trung và dài hạn, gồm có:

Thứ nhất, cho vay theo dự án: là một trong những phương pháp tài trợ
cho dự án đã được xây dựng trước. Trong đó, việc cho vay được tiến hành
trên một văn bản hoàn chỉnh về việc vay và trả nợ đã được nghiên cứu, soạn
thảo, được ký kết giữa các chủ dự án và ngân hàng, đồng thời cũng dựa trên
các căn cứ khoa học kỹ thuật phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của
Nhà nuớc.
Thứ hai, cho vay thuê mua (leasing): là hình thức tín dụng trung-dài
hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là tổ chức tín dụng
với khách hàng thuê. Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng được quyền mua
lại hoặc tiếp tục thuê các tài sản đó theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp
đồng thuê. Trong thời hạn thuê, các bên không được đơn phương từ bỏ hợp
đồng.
Thứ ba, cho vay hợp vốn: là nghiệp vụ mà một nhóm ngân hàng sẽ
cùng cho vay đối với một dự án vay vốn, trong đó sẽ có một tổ chức đứng ra


22

làm đầu mối để dàn xếp theo quy định. Việc phân bổ nguồn vốn huy động vào
nghiệp vụ cho vay ngắn hạn và cho vay trung dài hạn sao cho có hiệu quả
nhất luôn chiếm được sự quan tâm lớn của ngân hàng. Nói như vậy bởi tín
dụng là nghiệp vụ chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng tài sản có sinh lời của
ngân hàng thương mại nên nó mang vai trò quyết định đến một bộ phận thu
nhập của ngân hàng.
 Bảo lãnh ngân hàng

Bảo lãnh ngân hàng là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cam
kết với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài
chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện
không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho
tổ chức tín dụng theo thỏa thuận (Khoản 18 Điều 4 Luật các tổ chức tin dụng
năm 2010). Điều 2 Quy chế 26/2006/QĐ-NHNN về bảo lãnh ngân hàng định
nghĩa như sau: bảo lãnh ngân hàng là sự cam kết của ngân hàng với bên có
quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho
khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng
phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay8.
Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho ngân hàng số tiền đã được trả nợ
thay. Qua dịch vụ này, ngân hàng có thể khẳng định uy tín của mình với các
khách hàng và đồng thời ngân hàng cũng thu được phí bảo lãnh, góp một
phần vào thu nhập cho ngân hàng.
Hệ thống các văn bản pháp luật quy định về vấn đề này: Bộ luật dân sự
năm 2005, Luật thương mại năm 2005, Luật các tổ chức tín dụng năm 2010,
Nghị định 163/2006/NĐ-CP năm 2006 về Giao dịch bảo đảm được bổ sung,
sửa đổi năm 2012, Thông tư số 07/2015/TT-NHNN của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam quy định về bảo lãnh ngân hàng thay thế cho Thông
8

Bảo lãnh của Ngân hàng Thương mại, chức năng và vai trò bảo lãnh Ngân hàng. Nguồn:
Truy cập ngày: 30/07/2016.


23

tư số 28/2012/TT-NHNN năm 2012 của NHNN quy định về bảo lãnh ngân
hàng...

Các văn bản pháp lý này thường đề cập đến các nhóm quy phạm cơ bản của
một quan hệ pháp luật cụ thể, bao gồm chủ thể, nội dung (quyền và nghĩa vụ)
và khách thể của quan hệ. Bảo lãnh ngân hàng là một trường hợp đặc thù của
giao dịch bảo lãnh. Sự đặc thù này là ở chỗ bảo lãnh ngân hàng vừa có những
đặc điểm của bảo lãnh nói chung, vừa có những đặc điểm riêng để phân biệt
với những hình thức bảo lãnh khác. Có thể nhận diện bảo lãnh ngân hàng
thông qua các đặc điểm chính sau đây:
Thứ nhất: về bản chất pháp lý, bảo lãnh ngân hàng là một giao dịch thương
mại (hay hành vi thương mại) đặc thù.
Thứ hai, về chủ thể, hoạt động bảo lãnh ngân hàng bao giờ cũng do chủ thể
đặc biệt là tổ chức tín dụng (trong đó chủ yếu là các ngân hàng) thực hiện.
Thứ ba, trong bảo lãnh ngân hàng, tổ chức tín dụng không chỉ có tư cách là
người bảo lãnh (giống như bất kỳ người bảo lãnh nào trong bảo lãnh thực hiện
nghĩa vụ dân sự) mà còn có thêm tư cách của một nhà kinh doanh ngân hàng.
Thứ tư, giao dịch bảo lãnh ngân hàng có mục đích và hệ quả tạo lập hai hợp
đồng, gồm hợp đồng dịch vụ bảo lãnh và hợp đồng bảo lãnh/cam kết bảo
lãnh. Hai hợp đồng này tuy có mối quan hệ nhân quả với nhau, ảnh hưởng lẫn
nhau nhưng vẫn độc lập với nhau về cả phương diện chủ thể cũng như
phương diện quyền, nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể.
Thứ năm, giao dịch bảo lãnh ngân hàng không phải là giao dịch hai bên
hay ba bên mà là một giao dịch kép. Sở dĩ có thể quan niệm bảo lãnh ngân
hàng là giao dịch kép bởi vì, để đạt được mục đích và động cơ chủ yếu của
mình là phát hành thư bảo lãnh theo yêu cầu của khách hàng và gửi cho bên
có quyền – bên nhận bảo lãnh để nhận tiền thù lao dịch vụ (phí bảo lãnh) thì
tổ chức tín dụng không thể tiến hành ký kết cả hai loại hợp đồng theo thứ tự :
hợp đồng dịch vụ bảo lãnh đuợc giao kết trước và hợp đồng bảo lãnh được
giao kết sau.



×