Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Chuyển đổi doanh nghiệp theo quy định của pháp luật lào và việt nam dưới góc độ so sánh (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

MONESAY PHINPACHAN

ĐỀ TÀI
CHUYỂN ĐỔI DOANH NGHIỆP THEO QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT LÀO VÀ VIỆT NAM DƢỚI GÓC ĐỘ SO SÁNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành

: Luật Kinh tế

Mã số

: 60380107

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN NHƢ PHÁT

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ cơng trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn theo đúng quy định.


Tơi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

MONESAY PHINPACHAN


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Tên đầy đủ

CHDCND

: Cộng hoà dân chủ nhân dân

CHXHCN

: Cộng hoà xã hội chủ nghĩa

CTCP

: Công ty cổ phần

DNNN

: Doanh nghiệp nhà nước

DNTN

: Doanh nghiệp tư nhân


HTX

: Hợp tác xã

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN ĐỔI DOANH NGHIỆP
THEO PHÁP LUẬT LÀO VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM ....................................... 6

1.1. Khái quát về chuyển đổi doanh nghiệp .............................................. 6
1.1.1. Khái niệm chuyển đổi doanh nghiệp .............................................. 6
1.1.2. Bản chất, đặc điểm, vai trò của chuyển đổi doanh nghiệp.............. 8
1.2. Quá trình hình thành, phát triển của chế định chuyển đổi doanh
nghiệp ở Lào và Việt Nam ........................................................................ 11
1.2.1. Quá trình hình thành, phát triển của chế định chuyển đổi doanh
nghiệp ở Lào............................................................................................ 11
1.2.2. Quá trình hình thành, phát triển của chế định chuyển đổi doanh
nghiệp ở Việt Nam .................................................................................. 14
1.3. Các tiêu chí so sánh pháp luật về chuyển đổi doanh nghiệp .......... 16
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ................................................................................... 20

Chƣơng 2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VỀ CHUYỂN ĐỔI DOANH NGHIỆP THEO
PHÁP LUẬT LÀO VÀ VIỆT NAM DƢỚI GÓC ĐỘ SO SÁNH ............................ 21


2.1. Những điểm tƣơng đồng trong các quy định về chuyển đổi doanh
nghiệp giữa pháp luật Lào và Việt Nam ................................................. 21
2.1.1. Đối tượng chuyển đổi.................................................................... 21
2.1.2. Điều kiện chuyển đổi .................................................................... 26
2.1.3. Thủ tục chuyển đổi ........................................................................ 30
2.1.4. Quy định về bảo vệ người thứ ba từ sự tác động của chuyển đổi
doanh nghiệp ........................................................................................... 31
2.2. Những điểm khác biệt trong các quy định về chuyển đổi doanh
nghiệp giữa pháp luật Lào và Việt Nam ................................................. 32
2.2.1. Đối tượng chuyển đổi.................................................................... 32
2.2.2. Điều kiện chuyển đổi .................................................................... 39


2.2.3. Thủ tục chuyển đổi ........................................................................ 42
2.2.4. Quy định về bảo vệ người thứ ba từ sự tác động của chuyển đổi
doanh nghiệp ........................................................................................... 49
2.3. Lý giải nguyên nhân của sự tƣơng đồng và khác biệt và những bài
học kinh nghiệm rút ra từ việc so sánh quy định pháp luật về chuyển
đổi doanh nghiệp Lào và Việt Nam ......................................................... 51
2.3.1. Lý giải nguyên nhân của sự tương đồng và khác biệt trong các quy
định pháp luật về chuyển đổi doanh nghiệp Lào và Việt Nam ............... 51
2.3.2. Một số bài học kinh nghiệm rút ra từ việc so sánh quy định pháp
luật về chuyển đổi doanh nghiệp Lào và Việt Nam ................................ 54
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ................................................................................... 62

Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CHUYỂN
ĐỔI DOANH NGHIỆP CỦA NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO ....... 63

3.1. Nhu cầu hoàn thiện các quy định pháp luật về chuyển đổi doanh

nghiệp nƣớc Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào....................................... 63
3.2. Các giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về chuyển đổi
doanh nghiệp nƣớc Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ........................... 65
3.2.1. Hoàn thiện các quy định chung về doanh nghiệp ......................... 65
3.2.2. Bổ sung, sửa đổi các quy định về chuyển đổi doanh nghiệp ........ 68
3.3.3. Các giải pháp đảm bảo thực hiện hiệu quả các quy định pháp luật
về chuyển đổi doanh nghiệp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ..... 74
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ................................................................................... 77

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 80


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với quan điểm xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, những năm gần đây, Nhà nước Lào rất quan tâm xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về doanh nghiệp. Trong đó, những vấn đề về thành lập, tổ chức doanh nghiệp
cũng dần được hoàn thiện. Bắt đầu từ việc được quy định trong nhiều văn bản khác
nhau, dần dần được tập trung và hoàn thiện trong một hệ thống luật văn bản chuyên
ngành. Tuy vậy, các văn bản pháp luật này, bên cạnh những thành cơng nhất định, cịn
bộc lộ nhiều nhược điểm, bất cập cả về nội dung pháp lý và kỹ thuật lập pháp. Điều
này là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc kìm hãm sự phát triển sản xuất, kinh
doanh của các doanh nghiệp, tạo ra sự phân bổ các nguồn lực không hợp lý, tác động
tiêu cực đến sản xuất, kinh doanh và tính cơng bằng trong mơi trường kinh doanh.
Tình hình trên đặt ra nhiều vấn đề cần phải được giải quyết, trong đó, một
yêu cầu cấp thiết là phải nghiên cứu một cách kỹ lưỡng các vấn đề lý luận về pháp
luật tổ chức, quản lý, điều hành doanh nghiệp. Đồng thời, cần phải đề xuất phương

hướng và các giải pháp cụ thể nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp
của Lào trong tương lai.
Trong đó, xuất phát từ những nguyên nhân lịch sử, văn hóa, chinh trị, Lào và
Việt Nam khá tương đồng nhau về chính trị và pháp luật. Tuy nhiên, Việt Nam, với
những ưu điểm của đất nước đi trước, trong công cuộc đổi mới và phát triển đất
nước, đã có những bước tiến vượt bậc trong kỹ thuật lập pháp, tạo khung pháp lý
khá hoàn thiện cho việc tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp. Chính vì vậy, trong
q trình sửa đổi và hoàn thiện pháp luật Lào về tổ chức doanh nghiệp hiện nay,
việc so sánh các quy định của pháp luật doanh nghiệp Lào nói chung, các quy định
về tổ chức doanh nghiệp nói riêng với pháp luật doanh nghiệp Việt Nam là điều vô
cùng cần thiết. Tuy nhiên, trong phạm vi một cơng trình nghiên cứu khoa học cấp
thạc sĩ, việc nghiên cứu các nội dung về tổ chức doanh nghiệp là quá rộng. Vì vậy,
tác giả chỉ lựa chọn một khía cạnh trong đó - chuyển đổi doanh nghiệp.
Cũng chính vì lẽ đó, tác giả đã lựa chọn đề tài “Chuyển đổi doanh nghiệp
theo quy định của pháp luật Lào và Việt Nam dưới góc độ so sánh” làm luận văn
thạc sĩ luật học.


2

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua thời gian tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu về tình hình nghiên cứu đề tài,
tác giả thấy rằng, chưa có cơng trình khoa học nào tại Việt Nam, tại Lào cũng như
trên thế giới nghiên cứu riêng về vấn đề hoàn thiện pháp luật về chuyển đổi doanh
nghiệp của Lào trên cơ sở so sánh, bài học kinh nghiệm thực tiễn từ Việt Nam. Tuy
nhiên, vấn đề pháp luật về chuyển đổi doanh nghiệp đã được nhiều nhà khoa học
của Việt Nam và Lào bàn luận đến trong các cơng trình khoa học nghiên cứu về
chun ngành Luật hành chính; các giáo trình; sách tham khảo; một số đề tài khoa
học; các luận án, luận văn; bài viết đăng trên các tạp chí khoa học và các hội thảo
khoa học, Cụ thể:

Tại Lào, do lịch sử phát triển và hình thành của pháp luật về doanh nghiệp
còn trẻ, sự quan tâm của nhà nước đối với doanh nghiệp còn chưa đúng mức nên
hiện nay các cơng trình nghiên cứu về chuyển đổi doanh nghiệp còn chưa được
quan tâm nhiều. Vấn đề tổ chức lại doanh nghiệp mới chỉ được đề cập đến trong các
cơng trình chung nghiên cứu về pháp luật doanh nghiệp Lào như: Bộ Công nghiệp
và Thương mại (2005), Pháp luật về doanh nghiệp, Nxb Thống kê, Viêng Chăn. Bộ
Tư pháp (tháng 4, 2007), Giải thích pháp luật về doanh nghiệp nước Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào, Sách hợp tác với JICA (Japan International Cooperation
Agency); Phôthilat Phôm Phô Thi (2005), Tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nước
trong nền kinh tế thị trường ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Luận án tiến sĩ,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Beelee Yearseng (2011), Luật doanh
nghiệp năm 2005 của Lào và Việt Nam dưới góc độ so sánh, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Đại học Luật Hà Nội; Vathsana Lathtanaphanh (2011), "Cơ sở lý luận và thực
tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp ở nước Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội; Xổm Xay Xỉ Hà Chắc
(2000), “Mấy vấn đề về hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế của Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào”, Luật học, (4), tr.42-48; Phô Thi Lát Phôm phô Thi (2001), “Sự cần
thiết khách quan tiếp tục đổi mới tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nước ở Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào”, Giáo dục lý luận, (12), tr.25-28; Phơ Thi Lát Phơm phơ
Thi (2003), “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước”, Alunmay, (5), tr.32-39. Các
cơng trình này chủ yếu nghiên cứu về tổ chức, quản lý doanh nghiệp nói chung,


3

chưa có cơng trình chun sâu nào đề cập đến việc hoàn thiện pháp luật về chuyển
đổi doanh nghiệp tại Lào đặc biệt là từ bài học kinh nghiệm của Việt Nam.
Trong khi đó, ở Việt Nam, vấn đề chuyển đổi doanh nghiệp, trước hết được
nghiên cứu trong các công trình chung như: Nguyễn Viết Tý (2012), Giáo trình
Luật thương mại tập I, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Đồng Ngọc Ba (2005), Cơ

sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam,
Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội; Trần Ngọc Liên (2002), Hoàn thiện
pháp luật về các loại hình cơng ty trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Luận án
tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội;… Tiếp đó, đã có một vài cơng trình nghiên
cứu về chuyển đổi doanh nghiệp như: Hồng Anh Tuấn (2012), Chuyển đổi hình
thức cơng ty theo pháp luật Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội; Lê Ngọc Huyền (2015), Vấn đề chuyển đổi hình thức giữa cơng
ty đối nhân và công ty đối vốn theo pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học,
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; Phạm Đức Trung (2006), “Chuyển đổi
doanh nghiệp nhà nước - Khó khăn và triển vọng”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật,
(4), tr. 2 - 5; Đinh Dũng Sỹ (2011), “Chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước thành cơng
ty theo Luật doanh nghiệp 2005 có phải là “bình mới, rượu cũ”?”, Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp, (16), tr. 51 - 55…
Như vậy, cho đến nay, chưa có cơng trình nào nghiên cứu và đưa ra các giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về Chuyển đổi doanh nghiệp theo quy định của
pháp luật Lào trên cơ sở so sánh với pháp luật Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu đề
tài này là cần thiết.
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng của việc nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận về doanh
nghiệp và pháp luật về chuyển đổi doanh nghiệp; Hệ thống các quy định trong pháp
luật hiện hành của Lào về doanh nghiệp dưới góc độ so sánh với Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận có liên quan trực
tiếp đến doanh nghiệp và pháp luật hiện hành về chuyển đổi doanh nghiệp của Lào
và Việt Nam.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là đưa ra phương hướng và các giải


4


pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về chuyển đổi doanh nghiệp của nước Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào trên cơ sở các bài học kinh nghiệm rút ra
từ việc so sánh với pháp luật Việt Nam về chuyển đối doanh nghiệp.
5. Các câu hỏi nghiên cứu
- Chuyển đối doanh nghiệp là gì? Bất chất của chuyển đổi doanh nghiệp?
- Pháp luật về chuyển đổi doanh nghiệp của Lào và Việt Nam đã trải qua quá
trình hình thành và phát triển như thế nào?
- Pháp luật về chuyển đổi doanh nghiệp của Lào và Việt Nam có những điểm
tương đồng và khác biệt nào?
- Các bài học kinh nghiệm có thể rút ra từ việc so sánh pháp luật Lào và Việt
Nam về chuyển đổi doanh nghiệp?
- Việc hoàn thiện pháp luật về chuyển đổi doanh nghiệp Lào cần có những giải
pháp gì?
6. Các phƣơng pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Để nghiên cứu đề tài đã chọn, tác giả luận văn sử dụng phương pháp luận
biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Đồng thời, tác giả sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể, thích hợp, như phương pháp so sánh, phương pháp
phân tích và phương pháp tổng hợp. Những phương pháp nghiên cứu hiện đại này
bảo đảm độ tin cậy của những kết quả nghiên cứu của luận văn.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn này này là sự kế thừa, chọn lọc và phát triển những vấn đề lý luận
về doanh nghiệp và pháp luật về chuyển đổi doanh nghiệp ở CHDCND Lào và
nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam. Sự hình thành và phát triển
của pháp luật về chuyển đổi doanh nghiệp chịu sự chi phối sâu sắc bởi cơ sở kinh
tế, trình độ phát triển của thị trường và các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng:
chế độ chính trị, truyền thống văn hóa, phong tục tập quán kinh doanh. Luận văn
nhận diện những quy định bất cập trong pháp luật về chuyển đổi doanh nghiệp ở
nước CHDCND Lào và Việt Nam trong giai đoạn hiện nay dưới góc độ so sánh.
Đây sẽ là cơ sở để đánh giá thực trạng pháp luật về chuyển đổi doanh nghiệp của
Lào hiện nay để từ đó nghiên cứu, xây dựng phương hướng và các giải pháp cụ thể,

hợp lý nhằm hoàn thiện pháp luật về chuyển đổi doanh nghiệp của Lào.


5

8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chuyển đổi doanh nghiệp theo pháp luật
Lào và Pháp luật Việt Nam;
Chương 2: Thực trạng quy định về chuyển đổi doanh nghiệp theo pháp luật
Lào và Việt Nam dưới góc độ so sánh;
Chương 3: Bài học kinh nghiệm và giải pháp hoàn thiện các quy định pháp
luật về chuyển đổi doanh nghiệp của nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào.


6

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN ĐỔI DOANH NGHIỆP
THEO PHÁP LUẬT LÀO VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1. Khái quát về chuyển đổi doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm chuyển đổi doanh nghiệp
Chuyển đổi loại hình doanh nghiệp là một nội dung của tái cấu trúc pháp lý
doanh nghiệp: thay đổi hình thức pháp lý của tổ chức kinh doanh. Theo đó, q
trình chuyển đổi doanh nghiệp có thể được xem là quá trình thay đổi, đặc điểm pháp
lý của doanh nghiệp, thay đổi mối quan hệ giữa các thành viên doanh nghiệp với
nhau, thay đổi mối quan hệ về quản trị doanh nghiệp và mối quan hệ giữa các thành
viên doanh nghiệp với doanh nghiệp và đôi khi thay đổi quyền và nghĩa vụ của
thành viên doanh nghiệp đối với doanh nghiệp trong khi doanh nghiệp vẫn tồn tại

và không ngừng hoạt động.
Doanh nghiệp được tạo lập nên bới ý chí của các thành viên hoặc các thành
niên. Nên việc chuyển đổi phải được tự do theo sự lựa chọn của thành viên hoặc các
thành viên. Tuy nhiên, doanh nghiệp là một thực thể kinh doanh hay là một chủ thể
của pháp luật hoặc có thể gây ảnh hưởng tới cộng đồng và người thứ ba.
Maurice Conzian và Alain Viandier trong cuốn “Tổ chức lại công ty, Tập
2”, do Nguyễn Văn Bình và Lê Thị Tý (1989) dịch từ cuốn “Droit des Societes”
đưa ra khái niệm: “Cải hóa cơng ty là chuyển từ hình thái cơng ty này sang hình
thái cơng ty khác: cơng ty vơ danh chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty hợp danh chuyển thành công ty cấp vốn đơn giản, công ty dân dụng trở
thành công ty vô danh”.1
Đây là khái niệm thể hiện đúng bản chất của việc chuyển đổi công ty nói
riêng và chuyển đổi doanh nghiệp nói chung.
Chuyển đổi doanh nghiệp là tổ chức lại doanh nghiệp, theo đó doanh nghiệp
sẽ thay đổi từ hình thức doanh nghiệp này sang hình thức doanh nghiệp khác, có
nghĩa là thay đổi các yếu tố kết cấu chủ yếu để tạo lập thành các hình thức doanh
nghiệp như: mối quan hệ giữa các thành viên, mối quan hệ giữa các thành viên với
1

Maurice Cozian, Alain Viandier (1988), Tổ chức công ty, Tập 1, Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý – Bộ
tư pháp (dịch, 1989), Hà Nội, tr.181.


7

doanh nghiệp, chế độ trách nhiệm của các thành viên đối với khoản nợ của doanh
nghiệp, tổ chức quản lý nội bộ, quyền và nghĩa vụ của các thành viên…Việc thay
đổi các yếu tố khơng ảnh hưởng tới hình thức doanh nghiệp do pháp luật đã xác
định không được xem là thay đổi hình thức doanh nghiệp. Ví dụ: Thay đổi vốn điều
lệ, thay đổi thành viên, thay đổi người đại diện theo pháp luật…

Nhƣ vậy, chuyển đổi doanh nghiệp là việc các doanh nghiệp chuyển từ loại
hình doanh nghiệp này sang loại hình doanh nghiệp khác để phù hợp hơn với quy
mô, sự phát triển và sự định hướng của doanh nghiệp. Mặt khác, việc chuyển đổi
loại hình doanh nghiệp cũng giúp doanh nghiệp không phải giải thể do không đủ số
lượng thành viên tối thiểu.
Việc chuyển đổi doanh nghiệp không làm chấm dứt hoặc thay đổi nghĩa vụ
trả nợ của doanh nghiệp chuyển đổi vì về nguyên tắc doanh nghiệp là một thương
nhân nên pháp nhân phải chịu trách nhiệm bằng tồn bộ tài sản của mình đối với
các khoản nợ. Bởi vậy, pháp luật chỉ can thiệp vào chuyển đổi doanh nghiệp ở các
khía cạnh: thủ tục chuyển đổi, các trường hợp chuyển đổi, vân đề bảo vệ người thứ
ba, các khoản nợ của doanh nghiệp đối với người thứ ba trong trường hợp chuyển
đổi hình thức doanh nghiệp. Khi chuyển đổi doanh nghiệp mà tài sản của doanh
nghiệp tăng lên thì khả năng trả nợ của doanh nghiệp tăng lên theo.
Luật Doanh nghiệp Việt Nam (2014) đã sắp xếp chuyển đổi doanh nghiệp và
“Chương IX – Tổ chức lại, giải thể, phá sản doanh doanh nghiệp” và dự liệu các
trường hợp chuyển đổi doanh nghiệp đó là: (1) chuyển đổi giữa công ty trách nhiệm
hữu hạn (TNHH) với Công ty cổ phần (CTCP) và ngược lại; (2) chuyển đổi công ty
TNHH một thành viên thành công ty TNHH hai thành viên trở lên; (3) chuyển đổi
từ doanh nghiệp tư nhận thành công ty TNHH. Như vậy, pháp luật Việt Nam có ghi
nhận khái niệm chuyển đổi doanh nghiệp, theo đó, doanh nghiệp bao gồm tất cả các
thực thể kinh doanh, kể cả Doanh nghiệp tư nhân (DNTN), trừ những người buôn
bán nhỏ lẻ và hộ kinh doanh. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, “doanh
nghiệp” trong khái niệm “chuyển đổi doanh nghiệp” không bao gồm hợp tác xã
(HTX), do HTX tổ chức và hoạt động theo một luật khác.
Theo Điều 13, Luật Doanh nghiệp (2013) của Lào thì chuyển đổi doanh
nghiệp là biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp cá


8


thể (DNTN), cơng ty TNHH và CTCP. Theo đó, doanh nghiệp cá thể (DNTN) có
thể chuyển đổi thành CTCP, cịn cơng ty TNHH có thể chuyển đổi thành CTCP và
ngược lại.
1.1.2. Bản chất, đặc điểm, vai trò của chuyển đổi doanh nghiệp
* Bản chất
Về bản chất kinh tế và pháp lý, chuyển đổi doanh nghiệp chỉ là việc thay đổi
hình thức pháp lý của doanh nghiệp, do chính doanh nghiệp đó quyết định, khơng
làm tiêu biến thương nhân đó, cũng khơng thể khiến thương nhân đó rũ bỏ các
khoản nợ đối với bên thứ ba. Doanh nghiệp vẫn tồn tại liên tục về mặt kinh tế. Điều
đó có nghĩa là việc chuyển đổi doanh nghiệp không làm chấm dứt nghĩa vụ trả nợ
của thương nhân. Tuy nhiên, việc chuyển đổi có thể làm biến đổi chế độ trách
nhiệm của thành viên đối với các khoản nợ của doanh nghiệp. Vì vậy, việc nghiên
cứu các hình thức doanh nghiệp, nhất là về các đặc điểm pháp lý có ý nghĩa quan
trọng trong việc nghiên cứu về chuyển đổi doanh nghiệp. Như vậy, chuyển đổi
doanh nghiệp là hoạt động tổ chức lại doanh nghiệp, là quá trình chuyển từ loại hình
doanh nghiệp này thành loại hình doanh nghiệp khác, diễn ra trong sự tồn tại liên
tục của doanh nghiệp (với ý nghĩa là một thực thể kinh doanh) và có sự chuyển giao
quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp trước và sau chuyển đổi.
* Đặc điểm
Doanh nghiệp (pháp nhân) là một thực thể pháp lý tách biệt với chủ sở hữu
của nó. Chuyển đổi doanh nghiệp có bản chất là một hành vi pháp lý. Do đó, đặc
điểm pháp lý của chuyển đổi doanh nghiệp rất phức tạp. Các đặc điểm đó xuất phát
từ bản chất hợp đồng của sự chuyển đổi hay hành vi pháp lý đơn phương của sự
chuyển đổi, đồng thời cũng xuất phát từ các yêu cầu đặc biệt của pháp luật nhằm
bảo vệ trật tự chung của cộng đồng và các chủ sở hữu doanh nghiệp. Có thể tóm tắt
các đặc điểm của chuyển đổi doanh nghiệp như sau:
+ Về tính chất: Chuyển đổi doanh nghiệp là hoạt động mang tính thủ tục
pháp lý, theo đó, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vẫn diễn ra bình thường
trước, trong và sau quá trình chuyển đổi.
+ Chủ thể quyết định việc chuyển đổi: Chủ sở hữu doanh nghiệp (chủ

DNTN, thành viên công ty TNHH, cổ đông CTCP) là người quyết định nội dung,


9

hình thức, thời gian chuyển đổi doanh nghiệp.
+ Lý do chuyển đổi: Lý do chuyển đổi mang tính tự nguyện nhằm triển khai
định hướng phát triển công ty phù hợp với điều kiện mới của chủ đầu tư, song cũng
có thể mang tính bắt buộc để tránh nguy cơ giải thể (ví dụ khi số lượng thành viên
cơng ty giảm dưới mức tối thiểu nếu không muốn giải thể, lại khơng kết nạp thêm
thành viên mới thì doanh nghiệp buộc phải thực hiện chuyển đổi).
+ Hệ quả pháp lý của việc chuyển đổi doanh nghiệp
Chuyển đổi doanh nghiệp sẽ làm thay đổi loại hình doanh nghiệp, do vậy, về
thủ tục pháp lý, tất yếu sẽ phải cấp lại giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho
doanh nghiệp sau chuyển đổi.
Chuyển đổi doanh nghiệp có thể dẫn đến thay đổi sở hữu doanh nghiệp, nếu
khi chuyển đổi doanh nghiệp xuất hiện thêm thành viên công ty hay cổ đông mới.
Trường hợp này còn được gọi là chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cũng
có những trường hợp chuyển đổi doanh nghiệp khơng có sự thay đổi về chủ sở hữu
doanh nghiệp mà chỉ thay đổi về loại hình doanh nghiệp, như trường hợp chuyển đổi
DNTN thành công ty TNHH một thành viên do một cá nhân làm chủ sở hữu.
Trong mọi trường hợp, doanh nghiệp sau chuyển đổi đương nhiên kế thừa
mọi quyền và nghĩa vụ pháp lý của doanh nghiệp trước chuyển đổi.
* Vai trò của chuyển đổi doanh nghiệp
Xét đến cùng thì mọi hành vi của con người đều chịu sự thúc đẩy của các lợi
ích. Do đó, họ ln ln oan tính để định đạt những gì thuộc về mình một cách hiệu
quả. Vậy, họ được thụ hưởng những gì khi chuyển đổi doanh nghiệp từ hình thức
doanh nghiệp này sang hình thức doanh nghiệp khác? Tại sao họ không chấm dứt
hoạt động của doanh nghiệp cũ để thành lập mới với một hình thức doanh nghiệp
mong muốn? Trả lời những câu hỏi này sẽ làm rõ vai trò và ý nghĩa của việc chuyển

đổi doanh nghiệp nói chung.
Một doanh nghiệp có thể là sở hữu của nhiều thương hiệu có giá trị hàng tỉ Đơ la
Mỹ, ví dụ như thương hiệu Apple, BMW, Toyota… và có thể có một hệ thống bán hàng
đa cấp khắp thế giới hoặc có thể đang là thành viên của nhiều cơng ty khác… Trường
hợp, vì một lý do nào đó cần hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp khác với hình thức
doanh nghiệp hiện có, thì chủ nhân của nó có thể cân nhắc các phương án sau:


10

(1) Phương án thứ nhất: Thành lập thêm một doanh nghiệp mới và vận hành
đồng thời cả hai doanh nghiệp. Phương án này sẽ làm tăng chi phí quản lý, chi phí
nhân cơng và các chi phí khác như mua sắm trang thiết bị, thuê trụ sở… Như vậy,
họ có thể không đủ sức hoặc không thể tập trung vào cả hai doanh nghiệp cùng một
lúc và dẫn đến giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh.
(2) Phương án thứ hai: Thành lập doanh nghiệp mới và chấm dứt hoạt động
của doanh nghiệp cũ. Phương án này phát sinh những vấn đề cụ thể như: khơng có
căn cứ nào ràng buộc để người lao động phải làm cho doanh nghiệp mới và nếu họ
ở lại làm việc thì phải đàm phán, giao kết lại nhiều hợp đồng; doanh nghiệp mới
không đương nhiên thừa kế các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp cũ; doanh
nghiệp mới có thể khơng duy trì được hệ thống khách hàng của doanh nghiệp cũ
hoặc mất thương hiệu; đặc biệt doanh nghiệp cũ bị sự cản trở của pháp luật trong
việc chuyển giao dự án cho doanh nghiệp mới.
(3) Phương án thứ ba: Chuyển đổi doanh nghiệp, phương án này tạo ra
một doanh nghiệp mới có hình thức pháp lý theo nguyện vọng của nhà đầu tư,
doanh nghiệp mới được kế thừa mọi quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp được
chuyển đổi.
Xét về lợi ích kinh tế: Khi thực hiện việc chuyển đổi, nhà đầu tư không mất
nhiều thời gian để có được một doanh nghiệp mới theo đúng nguyện vọng của
mình; doanh nghiệp được chuyển đổi đương nhiên chấm dứt hoạt động khi doanh

nghiệp chuyển đổi được hình thành, nên khơng phải vận hành hai doanh nghiệp,
không phải làm thủ tục chấm dứt doanh nghiệp được chuyển đổi; doanh nghiệp
chuyển đổi có quyền thừa kế các lợi ích và phải kế thừa các nghĩa vụ, do đó doanh
nghiệp chuyển đổi có thể được đảm bảo hoạt động bình thường ngay từ khi được
cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; việc thay đổi thông tin về chủ sở hữu
đối với các tài sản được kế thừa từ doanh nghiệp này được đổi hết sức đơn giản và
đặc biệt là doanh nghiệp chuyển đổi được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản được
kế thừa mà khơng phải chịu các chi phí như thuế và lệ phí. Vấn đề quan trọng nữa
là có thể ổn định ngay bộ máy quản lý điều hành, nhân công lao động và vẫn đảm
bảo được hệ thống khách hàng.
Xét về mặt pháp lý: Việc chuyển đổi doanh nghiệp đảm bảo cho doanh


11

nghiệp chuyển đổi trở thành chủ sở hữu các tài sản được kế thừa một cách an toàn
và dễ dàng. So với trường hợp thành lập doanh nghiệp mới và chấm dứt hoạt động
của doanh nghiệp cũ thì trường hợp này có thể nói là rất an tồn về mặt pháp lý đối
với vấn đề sở hữu tài sản, đặc biệt là các tài sản là bất động sản, các phương tiện
vận tải có giá trị lớn, thương hiệu…; thủ tục kế thừa các nghĩa vụ như: thanh toán,
giao hàng… cũng rất thuận lợi vì trong quá trình chuyển doanh nghiệp vẫn hoạt
động bình thường.
Như vậy, có thể thấy phương án chuyển đổi doanh nghiệp khắc phục được hầu
hết các yếu điểm của hai phương án trên. Việc chuyển đổi doanh nghiệp khơng những
có vai trị và ý nghĩa về mặt kinh tế mà cịn bảo đảm an tồn pháp lý cho chủ đầu tư.
1.2. Quá trình hình thành, phát triển của chế định chuyển đổi doanh
nghiệp ở Lào và Việt Nam
1.2.1. Quá trình hình thành, phát triển của chế định chuyển đổi doanh
nghiệp ở Lào
Sau khi Đảng và Nhà nước tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế, phát triển nền

kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước Lào đã quan
tâm nghiên cứu pháp luật doanh nghiệp nhằm phù hợp với điều kiện nền kinh tế của
Lào. Luật Kinh doanh đã được Quốc hội Lào khóa III, kỳ họp thứ bốn thơng qua
ngày 18/7/1994 và có hiệu lực ngày 13/8/1994. Luật Kinh doanh Lào (1994) được áp
dụng đối với các loại hình doanh nghiệp như doanh nghiệp nhà nước (DNNN), doanh
nghiệp tập thể, DNTN, công ty đối nhân, công ty TNHH, CTCP, doanh nghiệp liên
doanh để tạo thêm cơ hội cho dân cư và doanh nghiệp trực tiếp đầu tư vào sản xuất
kinh doanh. Việc quy định tất cả các loại hình doanh nghiệp đều áp dụng Luật Kinh
doanh nhằm mục đích tập trung vào các quy định riêng lẻ, tản mạn đơn hành vào một
văn bản chung thống nhất tạo tiền đề cho việc xây dựng một khuôn khổ pháp luật
chung cho các loại doanh nghiệp thuộc các thành phần sở hữu khác nhau.
Sau khi áp dụng một thời gian, nền kinh tế - xã hội Lào có sự thay đổi, trong
đó phải kể đến sự gia nhập và trở thành thành viên chính thức của ASEAN, cũng
như các mục tiêu phát triển trong thiên nhiên ký mới, Luật Kinh doanh Lào (1994)
đã bộc lộ những thiếu sót nghiêm trọng, địi hỏi phải được sửa đổi, bổ sung cho phù
hợp với điều kiện mới. Trong bối cảnh đó, Luật Doanh nghiệp đầu tiên của Lào


12

được Quốc hội thơng qua ngày 23/12/2000 và có hiệu lực thi hành từ ngày
15/1/2001. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, và những non kém
trong kỹ thuật lập pháp, sau 4 năm áp dụng, Luật Doanh nghiệp Lào (2000) đã tỏ ra
có nhiều bất cập, khơng đáp ứng được nhu cầu thực tế, thí dụ như: thời gian thành
lập doanh nghiệp còn dài, cơ cấu tổ chức công ty chưa rõ ràng, không thừa nhận tư
cách pháp nhân của công ty hợp danh, các quy định về tổ chức lại doanh nghiệp
chưa được quan tâm… Những điều đó dẫn tới những khó khăn cho quá trình thành
lập và hoạt động của các loại hình doanh nghiệp. Vì vậy, dưới sự tác động của hội
nhập kinh tế, để đáp ứng yêu cầu của việc gia nhập WTO, việc sửa đổi, hoàn thiện
Luật Doanh nghiệp Lào (2000) là vơ cùng cần thiết.

Chính điều kiện kinh tế xã hội, yêu cầu hội nhập thế giới và chủ trương
đường lối của Đảng đã tác động thúc đẩy sự ra đời nhanh chóng của Luật Doanh
nghiệp Lào (2005). Luật Doanh nghiệp Lào (2005) đã đánh dấu mốc quan trọng
trong việc hình thành cơ sở pháp lý cho hoạt động của các doanh nghiệp ở Lào, tạo
điều kiện cho việc ra đời nhiều doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Đồng thời,
điều đó là minh chứng cho sự trưởng thành về nhiều mặt của các doanh nghiệp ở
Lào, thể hiện việc từng bước hội nhập đời sống kinh tế khu vực và thế giới. Các chế
định cơ bản trong Luật Doanh nghiệp Lào (2005) bao gồm: Đối tượng, phạm vi
điều chỉnh; Các loại hình doanh nghiệp; Quản lý nhà nước về doanh nghiệp…
Trong đó, các quy định về chuyển đổi doanh nghiệp nói riêng, tổ chức lại doanh
nghiệp nói chung đã được quan tâm ghi nhận với các điều khoản cụ thể. Theo đó,
Pháp luật về doanh nghiệp có cấu trúc bên trong bao gồm những chế định cơ bản
sau: Các quy định về DNNN; Các quy định về DNTN; Các quy định về các loại
hình cơng ty; Các quy định về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi. Nội dung
của từng chế định nêu trên đều chứa đựng những quy định về tổ chức và hoạt động
của các loại hình doanh nghiệp, thể hiện ở những nội dung cơ bản sau: Xác lập tư
cách pháp lý của doanh nghiệp; Tổ chức quản lý (nội bộ) của doanh nghiệp; Chế độ
pháp lý về vốn và phân chia lợi nhuận; Quyền và nghĩa vụ cơ bản của doanh
nghiệp; Tổ chức lại doanh nghiệp; Chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp. Ngồi ra,
để thực hiện có hiệu quả các văn bản pháp luật quy định về doanh nghiệp, các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành với


13

nhiều cấp độ hiệu lực và phạm vi nội dung khác nhau. Trong đó, chủ yếu và quan
trong nhất là các văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ ban hành (nghị định,
nghị quyết). Ngoài ra, các vấn đề về tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp còn
được quy định trong các văn bản pháp luật chuyên ngành.
Tuy nhiên, thực tế áp dụng cho thấy, Luật Doanh nghiệp Lào (2005) vẫn

không tránh khỏi những hạn chế, bất cập, chưa thực sự phù hợp với sự phát triển
kinh tế - xã hội, phần nào gây khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt
trong bối cảnh Lào đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, việc sửa
đổi Luật Doanh nghiệp Lào (2005) cho phù hợp với xu hướng hiện nay là vô cùng
cần thiết, cấp bách để bảo đảm môi trường kinh doanh thông thống, thuận lợi cho
doanh nghiệp.
Trong bối cảnh Lào chính thức trở thành thành viên WTO, mở của hội nhập
kinh tế quốc tế một cách mạnh mẽ, Lào đã tiến hành sửa đổi, bổ sung Luật Doanh
nghiệp Lào (2005). Kế thừa những thành tựu của Luật Doanh nghiệp Lào (2005) và
khắc phục những nhược điểm, bất cập của nó, năm 2013, Luật Doanh nghiệp (sửa
đổi, bổ sung) đã được ban hành. Đạo luật này đã thiết lập được các yêu cầu về môi
trường pháp luật kinh doanh cụ thể, rõ ràng hơn, thơng thống hơn, đồng bộ hơn,
minh bạch hơn, cơng khai hơn, phù hợp với thông lệ quốc tế hơn. Các quy định của
đạo luật này đảm bảo sự bình đẳng và tính cạnh tranh cao hơn nhằm góp phần thực
hiện mục tiêu của nền kinh tế là thúc đẩy tăng trưởng nhanh, ổn định trên cơ sở
nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả theo hướng tăng trưởng xanh và phát triển
bền vững như đã đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Chiến lược tăng
trưởng xanh và Chiến lược phát triển bền vững đã được đề ra và phê duyệt.
Luật Doanh nghiệp Lào (2013) được ban hành với ba mục tiêu chủ đạo là: (i)
Các quy định phù hợp với thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp; (ii) Quy định
rõ ràng, cụ thể hơn về các quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp; (iii) Tăng
cường hiệu quả của quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp. Đồng thời, Luật
Doanh nghiệp Lào (2013) kế thừa và phát huy có chọn lọc những mặt tích cực, cũng
như khắc phục những hạn chế của hệ thống pháp luật trước đây về doanh nghiệp
như mở rộng và phát huy quyền tự chủ, tự do kinh doanh của doanh nghiệp, áp
dụng thống nhất các thủ tục của Luật Doanh nghiệp về thành lập doanh nghiệp, mua


14


cổ phần, phần vốn góp đối với nhà đầu tư trong nước và nước ngồi. Chính vì vậy,
các quy định về chuyển đổi doanh nghiệp được ghi nhận một cách cụ thể và rõ ràng
hơn, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động này.
1.2.2. Quá trình hình thành, phát triển của chế định chuyển đổi doanh
nghiệp ở Việt Nam
Đến cuối năm 1990, đời sống kinh doanh của người Việt Nam chính thức
thay đổi, mốc lịch sử này được đánh dấu bằng việc Quốc hội nước CHXHCN Việt
Nam khoá VIII, kỳ họp thứ 8 thông qua Luật Công ty điều chỉnh các quan hệ phát
sinh trong quá trình thành lập, hoạt động và giải thể của CTCP và công ty TNHH.
Sự ra đời của Luật Công ty (1990) đã đánh dấu sự ra đời của chế định chuyển đổi
doanh nghiệp trong hệ thống pháp luật của Nhà nước CHXHCN Việt Nam. Tuy
nhiên, đây chỉ là sự khỏi đầu, có thể nói là mang tính hình thức. Việc chuyển đổi
doanh nghiệp khơng có khả năng thực hiện được trên thực tế, bởi lẽ quy định tại
Điều 10 Luật Công ty (1990) cho thấy rằng, về hình thức, nhà làm luật đã mở cửa
cho tự do kinh doanh, tạo điều kiện và cơ hội cho thành viên công ty tự do thoả
thuận và dự liệu các trường hợp chuyển đổi hình thức công ty. Quy đinh tại Điều
27, mặc dù không chi tiết về tỷ lệ biểu quyết thông qua quyết định chuyển đổi
doanh nghiệp và khơng có văn bản hướng dẫn hoặc giải thích của cơ quan có thẩm
quyền. Tuy nhiên, câu chữ trong điều luật là “tất cả các thành viên phải được tham
gia quyết định” đã phần nào làm sáng tỏ ý chí của nhà làm luật rằng: việc chuyển
đổi doanh nghiệp phải do tất cả các thành viên biểu quyết tán thành. Với điều kiện
này, có lẽ việc chuyển đổi doanh nghiệp khó có thể được thực hiện, bởi lẽ sự đồng
thuận của tất cả các thành viên trong một doanh nghiệp về một vấn đề rất khó khăn
bởi xuất phát từ tư duy lợi ích giữa các thành viên hoặc các nhóm lợi ích. Hơn nữa,
Nghị định của Hội đồng Bộ trưởng số 222/HĐBT ngày 23 tháng 7 năm 1991 ban
hành quy định cụ thể hoá một số điều trong Luật Cơng ty cũng khơng có bất kỳ quy
định nào hướng dẫn về trình tự thủ tục chuyển đổi doanh nghiệp. Ngày 22 tháng 6
năm 1994, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 5 thông qua
Luật sửa đổi bổ sung Luật Công ty (1990). Tuy nhiên, Luật sửa đổi cũng không đề
cập gì đến việc chuyển đổi doanh nghiệp. Sau khi được sửa đổi, Luật Công ty

(1990) được áp dụng đến ngày 01 tháng 01 năm 2000 cho đến khi Luật Doanh


15

nghiệp (1999) có hiệu lực. Khoảng thời gian này khơng có văn bản nào quy định về
chuyển đổi doanh nghiệp. Như vậy, Luật Công ty (1990), Luật DNTN (1990) mới
chỉ đi đầu mà không dẫn lối cho việc chuyển đổi doanh nghiệp, do đây là những văn
bản luật đầu tiên về doanh nghiệp, tạo cơ sở pháp lý cho những CTCP, công ty
TNHH đầu tiên ra đời.
Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu của quá trình đổi mới, các văn bản pháp luật về
chuyển đổi doanh nghiệp lần đầu tiên được ban hành là các văn bản pháp luật về cổ
phần hoá DNNN. Năm 1990, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ra Quyết định
số 143/HĐBT ngày 10 tháng 5 năm 1990 lựa chọn một số doanh nghiệp nhỏ và vừa
đề thí điểm chuyển đổi thành CTCP. Năm 1991, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng lại ra
Quyết định số 202/CT-HĐBT ngày 8 tháng 6 năm 1992 về thí điểm chuyển đổi một
số DNNN thành CTCP. Có thể coi, các văn bản pháp luật về cổ phần hoá là các văn
bản pháp luật đầu tiên về chuyển đổi doanh nghiệp ở Việt Nam.
Đối với khu vực đầu tư tư nhân, sau khi chấm dứt hiệu lực của Luật Công ty
(1990), pháp luật về công ty của Việt Nam bước vào một giai đoạn phát triển mới,
với nhiều đổi mới đáng kể. Cụ thể, ngày 12 tháng 6 năm 1999, tại kỳ họp thứ 5, Quốc
hội nước CHXHCN Việt Nam khóa X đã ban hành Luật Doanh nghiệp thay thế Luật
Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân ngày 21 tháng 12 năm 1990 và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Công ty, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Doanh nghiệp tư nhân ngày 22 tháng 6 năm 1994. Trong đó, Luật Doanh nghiệp năm
(1999) quy định về chuyển đối doanh nghiệp tại Điều 109 và Điều 110, theo đó i)
cơng ty TNHH có thể được chuyển đổi thành CTCP hoặc ngược lại; ii) công ty
TNHH một thành viên được chuyển đổi thành công ty TNHH hai thành viên trở lên
khi trở thành chủ sở hữu công ty chuyển một phần vốn điều lệ cho tổ chức, cá nhân
khác; ii) đặc biệt chuyển đổi công ty TNHH một thành viên thành DNTN với quy

định như sau: Trường hợp chủ sở hữu cơng ty chuyển tồn bộ vốn điều lệ cho một cá
nhân thì trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày hoàn thành thủ tục chuyển
nhượng, chủ sở hữu công ty phải yêu cầu cơ quan đăng ký kinh doanh xóa tên cơng
ty trong sổ đăng ký kinh doanh theo hình thức DNTN theo quy định của luật này.
Người nhận chuyển nhượng tiếp nhận tất cả các nghĩa vu, được hưởng tất cả các
quyền và lợi ích hợp pháp của công ty TNHH, trừ trường hợp chủ sở hữu công ty,


16

người nhận chuyển nhượng và chủ nợ của công ty có thỏa thuận khác.
Sau hơn sáu năm thực hiện, Luật Doanh nghiệp (1999) đã được thay thế
bằng Luật Doanh nghiệp (2005) có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2006. Đạo luật
này, cùng với những văn bản hướng dẫn thi hành và một số văn bản khác như Nghị
định 101/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2006, đã thể hiện bước phát triển mới
của pháp luật về chuyển đổi doanh nghiệp của Việt Nam. Với đạo luật này, vấn đề
chuyển đổi doanh nghiệp được quy định tại Điều 154, 155 về chuyển đổi cơng ty.
Theo đó: Cơng ty TNHH có thể được chuyển đổi thành CTCP hoặc ngược lại;
CTCP có thể được chuyển đổi thành công ty TNHH; Chuyển đổi cơng ty TNHH
một thành viên thành cơng ty TNHH có từ hai thành viên; Chuyển đổi cơng ty
TNHH có từ hai thành viên thành công ty TNHH một thành viên. Thủ tục chuyển
đổi công ty cũng được Luật Doanh nghiệp (2005) quy định một cách cụ thể. Cùng
trong Luật Doanh nghiệp (2005), cổ phần hóa DNNN lần đầu tiên được ghi nhận.
Tuy nhiên cũng giống như Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp
(2005) chưa có quy định về chuyển đổi DNTN.
Sau gần 10 năm thi hành, Luật Doanh nghiệp năm (2005) được thay thế bằng
Luật Doanh nghiệp (2014), có sự sửa đổi, bổ sung nhất định các quy định về tổ
chức và hoạt động của các loại công ty cho phù hợp với bối cảnh thực tế. Đây được
coi là cuộc đột phá thể chế lần hai, thể hiện đúng tinh thần của Hiến pháp (2013) về
quyền tự do kinh doanh của cơng dân, của doanh nghiệp, theo đó, những gì pháp

luật khơng cấm thì người dân, doanh nghiệp được tự do kinh doanh, đầu tư. Quy
định về các hình thức chuyển đổi doanh nghiệp trong Luật Doanh nghiệp (2014) có
phạm vi rộng hơn, cụ thể hơn, đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền tự do kinh doanh
của doanh nghiệp.
1.3. Các tiêu chí so sánh pháp luật về chuyển đổi doanh nghiệp
Nội dung của pháp luật về chuyển đổi doanh nghiệp bao gồm nhiều nhóm
quy định pháp luật về các khía cạnh: quy định về các hình thức chuyển đổi doanh
nghiệp; quy định về trình tự thủ tục tiến hành chuyển đổi doanh nghiệp; quy định về
điều kiện để doanh nghiệp được tiến hành chuyển đổi doanh nghiệp; quy định về
quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp trước và sau khi chuyển đổi với bên thứ ba.
Chính vì vậy, việc so sánh pháp luật về chuyển đổi doanh nghiệp cũng chính là so


17

sánh các khía cạnh trên của pháp luật chuyển đổi doanh nghiệp. Trong đó:
Thứ nhất, quy định về các hình thức chuyển đổi doanh nghiệp
Như đã nói ở trên, chuyển đổi doanh nghiệp bao gồm các phương án tổ chức
lại doanh nghiệp sao cho hiệu quả và phù hợp. Thông thường, chuyển đổi doanh
nghiệp gồm các hình thức chuyển đổi sau:
Một là, việc chuyển đổi công ty TNHH thành CTCP, do đó, cơng ty TNHH
có thể là TNHH một thành viên hoặc TNHH hai thành viên trở lên. Trong loại hình
cơng ty TNHH một thành viên có thể là do tổ chức hoặc cá nhân làm chủ sở hữu
nhưng đều được chuyển đổi thành CTCP.
Hai là, chuyển đổi CTCP thành công ty TNHH một thành viên, trong quy
định này bắt buộc phải thực hiện khi chỉ cịn một cổ đơng duy nhất hoặc các cổ
đơng khơng muốn chuyển nhượng tồn bộ cổ phần cho một cá nhân hoặc tổ chức.
Ba là, chuyển đổi CTCP thành công ty TNHH hai thành viên trở lên, trong
trường hợp này chỉ cần giới hạn thành viên tối thiểu là 2 thì sẽ chuyển thành công ty
TNHH hai thành viên trở lên.

Bốn là, chuyển đổi công ty TNHH hai thành viên chuyển đổi thành công ty
TNHH một thành viên khi chuyển nhượng hoặc thay đổi phần vốn góp của các
thành viên dẫn đến chỉ cịn một thành viên trong công ty.
Năm là, chuyển đổi DNTN thành công ty TNHH. Như vậy, DNTN do một
cá nhân làm chủ có thể chuyển thành cơng ty TNHH một thành viên hoặc công ty
TNHH hai thành viên trở lên nhưng chủ sở hữu DNTN bắt buộc phải là chủ sở hữu
hoặc thành viên công ty.
Thứ hai, so sánh về điều kiện chuyển đổi doanh nghiệp
Pháp luật mỗi quốc gia, tùy thuộc điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội, có
những quy định khác nhau về điều kiện chuyển đổi doanh nghiệp. Nhưng tựu chung
lại, có thể thấy, các điều kiện chuyển đổi doanh nghiệp bao gồm:
Một là, việc chuyển đổi doanh nghiệp phải xem xét lợi ích và quyền quyết
định của các thành viên. Trước khi doanh nghiệp chuyển đổi, thành viên doanh
nghiệp, tùy thuộc vào loại hình mà họ có thể có tên gọi khác nhau hoặc có quyền và
nghĩa vụ khác nhau. Ví dụ: Một người là cổ đơng phổ thơng CTCP có quyền lợi và
nghĩa vụ khác với người là thành viên công ty TNHH. Khi CTCP chuyển đổi thành


18

cơng ty TNHH, cổ đơng này có thể trở thành thành viên cơng ty TNHH, theo đó, đã
bị hạn chế về việc chuyển nhượng phần vốn góp của mình, bị thiệt thịi trong việc
xác định giá trị của cơng ty được chuyển đổi, việc quy đổi giữa phần vốn góp thành
cổ phần và ngược lại. Hơn nữa, đối với trường hợp chuyển đổi doanh nghiệp theo
lựa chọn mà việc quyết định khơng theo ngun tắc nhất trí mà theo một tỷ lệ nhất
định thì thành viên, cổ đơng có thể buộc phải chấp nhận việc chuyển đổi mặc dù
không biểu quyết thông qua. Bởi lẽ, quyết định của Đại hội đồng cổ đơng chính là
một sự thỏa thuận tạo lập nên một hậu quả pháp lý, mà thỏa thuận này khơng cần có
sự thống nhất ý chí của tất cả những người sở hữu cổ phần – tính chất của loại hợp
đồng cộng đồng. Hiệu lực của hợp đòng này phụ thuộc vào quy định của pháp luật

về tỷ lệ biểu quyết trong Đại hội đồng cổ đơng. Theo đó, pháp luật cần quy định về
tỷ lệ biểu quyết thông qua quyết định chuyển đổi doanh nghiệp đối với trường hợp
chuyển đổi tự nguyện. Hiện tại, nhiều nước quy định tỷ lệ này là 75% số cổ phần có
quyền biểu quyết hoặc đại diện của thành viên sở hữu 75% số vốn điều lệ đồng ý
thông qua. Cụ thể, như ở Việt Nam, trường hợp chuyển đổi DNTN thành công ty
TNHH thì sẽ do chủ sở hữu DNTN tồn quyền quyết định. Tùy thuộc vào loại hình
cơng ty tỷ lệ này được quy định tại Điều 60, 79, và 144 Luật Doanh nghiệp. Ở các
nước như Singapore, Malaysia cũng có quy định tương tự. Đặc biệt, theo báo cáo
nghiên cứu so sánh Luật công ty ở bốn quốc gia Đông Nam Á, do viện nghiên cứu
quản lý kinh tế trung ương thực hiền năm 1999, thì tỷ lệ biểu quyết thơng qua việc
thay đổi tình trạng hoạt động của doanh nghiệp ở Thái Lan là 50%.
Hai là, việc chuyển đổi doanh nghiệp phải đảm bảo số lượng thành viên hoặc
cổ đơng tối thiểu theo quy định đối với hình thức công ty chuyển đổi đến. Hiện tại,
pháp luật các nước có quy định khác nhau về số lượng thành viên/cổ đơng tối thiểu
áp dụng cho từng loại hình cơng ty. Có quốc gia khơng quy định vấn đề này như
Mỹ, Anh… theo pháp luật các quốc gia này, thì một người có thể lựa chọn hình
thức cơng ty đã được luật hóa để thành lập. Có quốc gia quy định số lượng thành
viên tối thiểu như Việt Nam, Trung Quốc… Mặc dù quy định này không được lý
giải theo học thuyết nào hoặc theo nguyên lý nào, nhưng các chủ thể buộc phải tuân
thủ khi thực hiện việc chuyển đổi. Nói một cách đơn giản là, khi muốn chuyển đổi
thành loại hình doanh nghiệp nào, thì doanh nghiệp chuyển đổi cần đáp ứng các


19

điều kiện thành lập của doanh nghiệp đó.
Ba là, việc chuyển đổi doanh nghiệp cần đảm bảo quyền lợi của các chủ nợ.
Với điều kiện này, pháp luật các nước đều quy định vấn đề kế thừa quyền và nghĩa
vụ của doanh nghiệp sau chuyển đổi. Đối với doanh nghiệp có chủ đầu tư chịu trách
nhiệm vơ hạn, việc quy định phạm vi trách nhiệm đối với các khoản nợ của doanh

nghiệp trước chuyển đổi cần được quan tâm thận trọng trong pháp luật về chuyển
đổi doanh nghiệp.
Thứ ba, so sánh quy định về thủ tục chuyển đổi doanh nghiệp
Việc đặt ra các thủ tục là cần thiết, thực hiện theo thủ tục luật định chính là
việc cơng khai hóa việc chuyển đổi đối với người thứ ba và đặc biệt là để xác định
tính hợp pháp của việc chuyển đổi, qua đó, đặt ra các chế tài phù hợp. Để quy định
thủ tục chuyển đổi doanh nghiệp một cách phù hợp, nhà làm luật cần: (i) xác định
chính xác căn cứ pháp lý chuyển đổi doanh nghiệp - chuyển đổi tự nguyên hay
chuyển đổi bắt buộc theo quy định của pháp luật, bởi lẽ, việc chuyển đổi doanh
nghiệp xuất phát từ một căn cứ cụ thể. (ii) các văn bản chứng minh đã đảm bảo các
điều kiện luật định; và (iii) văn bản thể hiện ý chí chuyển đổi doanh nghiệp. Đồng
thời, tùy thuộc bối cảnh, mỗi quốc gia cũng có những quy định khác nhau về thủ tục
chuyển đổi Do đó, một trong những tiêu chí để so sánh pháp luật chuyển đổi doanh
nghiệp chính là thủ tục chuyển đổi doanh nghiệp.
Thứ tư, quy định về bảo vệ người thứ ba từ sự tác động của chuyển đổi
doanh nghiệp
Người thứ ba trong quan hệ chuyển đổi doanh nghiệp là các chủ nợ doanh
nghiệp chuyển đổi. Kể từ thời điểm doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận đăng
ký thành lập cho đến khi doanh nghiệp chấm dứt hoạt động, xung quanh doanh
nghiệp ln khơng ngừng phát sinh, duy trì và phát triển các quan hệ dân sự, quan
hệ thương mại với nhiều chủ thể khác nhau. Đi kèm theo đó, doanh nghiệp phải có
trách nhiệm tài sản cũng như nghĩa vụ trả nợ đối với các chủ thể trong trường hợp
không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Hay nói cách khác, các chủ thế
đó đương nhiên trở thành chủ nợ và doanh nghiệp trở thành con nợ. Trong pháp luật
về chuyển đổi doanh nghiệp, doanh nghiệp trước và sau khi tiến hành chuyển đổi
đều có trách nhiệm tài sản và nghĩa vụ trả nợ như nhau với cùng một chủ nợ.


20


Do đó, việc so sánh quy định về chuyển đổi doanh nghiệp, cần so sánh các
điểm tương đồng, khác biệt trong vấn đề Quy định về bảo vệ người thứ ba từ sự tác
động của chuyển đổi doanh nghiệp để đưa ra cách đánh giá toàn diện nhất trong độ
hoàn thiện của pháp luật về chuyển đổi doanh nghiệp.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp được tổ chức theo nhiều hình thức
pháp lý khác nhau. Cũng chính vì vậy, trong quá trình thành lập, hoạt động của
doanh nghiệp, việc tổ chức lại doanh nghiệp xuất hiện như một nhu cầu tất yếu để
doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Để tạo cơ sở lý luận nền tảng cho việc nghiên
cứu nội dung của pháp luật Lào về chuyển đổi doanh nghiệp, trên cơ sở đó, so sánh
với pháp luật Việt Nam về vấn đề này, tác giả, trong chương này, đã đi sâu phân
tích và hệ thống hóa một số vấn đề lý luận chủ yếu của đề tài, như: khái niệm, đặc
điểm, bản chất của chuyển đổi doanh nghiệp; quá trình hình thành và phát triển chế
định chuyển đổi doanh nghiệp trong pháp luật doanh nghiệp Lào và pháp luật doanh
nghiệp Việt Nam; vấn đề pháp luật về chuyển đổi doanh nghiệp và các tiêu chí so
sánh pháp luật về chuyển đối doanh nghiệp. Những nội dung này, là tiền đề cơ bản
để tiến hành so sánh những quy định của pháp luật Lào và pháp luật Việt Nam về
chuyển đối doanh nghiệp trong Chương 2 dưới dây.


×