Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Pháp luật tín chấp và thực tiễn áp dụng tại tỉnh điện biên (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (568.68 KB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HOÀNG THU NHƯỜNG

PHÁP LUẬT TÍN CHẤP VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI
TỈNH ĐIỆN BIÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành

: Luật Dân sự

Mã số

: 60.38.50.01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHÙNG TRUNG TẬP

HÀ NỘI – NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tác giả.
Các số liệu, tài liệu trích dẫn, sử dụng trong luận văn là trung thực; những
kết luận khoa học hoặc những nhận xét của luận văn chưa được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
XÁC NHẬN CỦA NGƯỜI HƯỚNG



TÁC GIẢ LUẬN VĂN

DẪN KHOA HỌC

HOÀNG THU NHƯỜNG


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật dân sự

BPBĐ

: Biện pháp bảo đảm

GDBĐ

: Giao dịch bảo đảm

LĐ -TB - XHCN

: Lao động, thương binh, xã hội

MTQG

: Mục tiêu quốc gia


NXB

: Nhà xuất bản

NHCSXH

: Ngân hàng chính sách xã hội

CP

: Chính phủ


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÍN CHẤP

8

1.1. Khái niệm, đặc điểm về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
1.1.1. Khái niệm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự

8
8

1.1.2. Đặc điểm của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự 10

1.2. Khái niệm, đặc điểm của biện pháp tín chấp

11

1.2.1. Khái niệm

11

1.2.2. Đặc điểm của biện pháp tín chấp

12

1.3. Phân biệt giữa biện pháp tín chấp và một số biện pháp bảo đảm
khác

14

1.3.1. Phân biệt giữa biện pháp tín chấp và nghiệp vụ cho vay tín chấp
của Ngân hàng Thương mại.

14

1.3.2. Phân biệt giữa biện pháp tín chấp và biện pháp bảo lãnh

15

1.4. Phạm vi và mục đích bảo đảm bằng tín chấp

18


1.4.1. Phạm vi bảo đảm bằng tín chấp

19

1.4.2. Mục đích bảo đảm bằng tín chấp

22

Kết luận chương 1
Chương 2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TÍN CHẤP

23
25

2.1. Đối tượng của tín chấp

25

2.2. Phạm vi áp dụng biện pháp bảo đảm tín chấp

27

2.3. Chủ thể của tín chấp

28

2.3.1. Bên được bảo đảm

28


2.3.2. Bên bảo đảm

42

2.3.3. Bên nhận bảo đảm

46

2.4. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong biện pháp tín chấp

51


2.4.1. Quyền và nghĩa vụ của bên bảo đảm

51

2.4.2. Quyền và nghĩa vụ của bên nhận bảo đảm

53

2.4.3. Quyền và nghĩa vụ của bên được bảo đảm

54

2.5. Hình thức, nội dung tín chấp

55

2.5.1. Hình thức của tín chấp


55

2.5.2. Nội dung thỏa thuận bảo đảm bằng tín chấp

56

Kết luận chương 2

58

Chương 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TÍN CHẤP TẠI TỈNH ĐIỆN
BIÊN VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TÍN CHẤP

3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về tín chấp tại tỉnh Điện Biên

59
59

3.1.1. Tác động của điều kiện kinh tế - xã hội đến việc áp dụng các quy
định về tín chấp tại tỉnh Điện Biên

59

3.1.2. Thực trạng áp dụng các quy định về tín chấp tại tỉnh Điện Biên
qua một số Bản án điển hình

62

3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về tín chấp và nâng cao hiệu

quả thực thi các quy định pháp luật về tín chấp
3.2.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về tín chấp

66
66

3.2.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi các quy định pháp luật về
tín chấp
Kết luận chương 3

72
73

KẾT LUẬN

75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

77


6

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong nền kinh tế của mỗi quốc gia hiện nay, hoạt động bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ có vai trò đặc biệt quan trọng, là công cụ để bảo đảm quyền lợi
cho chủ thể quyền trong quan hệ. Trong quá trình thực hiện các chính sách
lớn của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế nói chung và phát triển công

nghiệp, nông thôn nói riêng, việc quy định biện pháp bảo đảm cần linh hoạt.
Các biện pháp bảo đảm, bên cạnh các mục tiêu chung hướng tới lợi ích
của của tất cả các chủ thể trong xã hội thì ngoài ra, đối với cá nhân, hộ gia
đình nghèo Nhà nước đã ghi nhận chính sách bảo đảm riêng nhằm giúp đỡ
những chủ thể này có điều kiện tiếp cận nguồn vốn ngân hàng để xóa đói,
giảm nghèo, cải thiện về chất lượng cuộc sống. Đó là nguyên nhân, biện pháp
bảo đảm tín chấp ra đời và được kế thừa ghi nhận trong BLDS năm 2015.
Riêng trong lĩnh vực cho vay tín dụng bằng hình thức tín chấp tuy đã có
nhiều quy định cụ thể cả về nội dung và hình thức, nhưng vẫn còn tồn tại
nhiều bất cập, làm hạn chế hiệu quả chính sách lớn của Đảng và Nhà nước
về nông nghiệp, nông thôn.
Trước tình hình đó việc hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến
hình thức tín chấp nhằm làm cho quy định bảo đảm bằng tín chấp được thực
hiện lành mạnh, góp phần làm cho xã hội nói chung, kinh tế nông nghiệp,
nông thôn nói riêng phát triển bền vững, ổn định là một yêu cầu cấp thiết.
Để có cái nhìn tổng thể về cơ sở lý luận và thực tiễn trong hoạt động
cho vay tín dụng bằng hình thức tín chấp và những thuận lợi, khó khăn trong
quá trình thực hiện, vấn đề đảm bảo công bằng giữa lợi ích các bên như thế
nào, việc áp dụng pháp luật giải quyết gặp những thuận lợi và khó khăn gì
trên thực tế; những cam kết từ những quan hệ xã hội cần được giải quyết như
thế nào… từ đó có thể đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hình


7

thức tín chấp. Nhằm nâng cao tính thực tiễn của đề tài, tác giả nghiên cứu
về thực tiễn tín chấp áp dụng tại tỉnh Điện Biên – một trong các tỉnh có tỉ lệ
hộ nghèo cao nhất cả nước. Trước thực tế đó, học viên đã lựa chọn đề tài:
“Pháp luật tín chấp và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Điện Biên” làm đề tài
luận văn thạc sĩ.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm vừa qua, việc cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay
có bảo đảm bằng tín chấp được nhà nước quan tâm, thực hiện và triển khai
thường xuyên tại các địa phương. Đồng thời với đó, các công trình, các bài
nghiên cứu và các bài viết liên quan đến tín chấp ngày càng nhiều. Có thể kể
đến một số công trình như:
- Nguyễn Thị Hà (Khóa luận tốt nghiệp), “Tín chấp - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn”; Đại học Luật Hà Nội, 2011. Trong công trình này, tác giả
Nguyễn Thị Hà đã phân tích những kiến thức và nội dung cơ bản nhất về tín
chấp trong BLDS năm 2005 như chủ thể, hình thức, nội dung biện pháp bảo
đảm tín chấp…
- PGS.TS Phạm Văn Tuyết và TS. Lê Kim Giang (chủ biên), “Hoàn
thiện chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”, NXB Dân Trí, 2015. Đây
là công trình nghiên cứu về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
nói chung trong đó có biện pháp tín chấp. Trong cuốn sách này, các tác giả đã
phân tích khái quát các quy định của pháp luật về tín chấp; đưa ra các bất cập
cũng như xây dựng các giải pháp hoàn thiện pháp luật về tín chấp…
- Bài viết của Luật sư Trương Thanh Đức – Phó Tổng giám đốc Ngân
hàng Maritime Bank bình luận chế định giao dịch bảo đảm trong Bộ luật dân
sự có mục nói về giao dịch bảo đảm bằng tín chấp (6.2012). Trong bài viết
này, ông Đức lập luận và kiến nghị loại bỏ biện pháp tín chấp ra khỏi BLDS.


8

- Hội thảo khoa học tại Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh
với chủ đề “Những bất cập của pháp luật giao dịch bảo đảm”, tổ chức năm
29.9.2014, có một phần nội dung về tín chấp.
- Bài viết của tác giả Nguyễn Văn Quang đăng trên mạng
http://ngươibaovequyenloi ngày 14/12/2015 về chế định các biện pháp bảo

đảm thực hiện nghĩa vụ trong dự thảo Bộ luật dân sự sửa đổi.
- Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng thương mại
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, luận án
tiến sĩ luật học, Ngô Quốc Kỳ, Đại học Luật Hà Nội, năm 2003.
- Tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo quy định của pháp luật
dân sự Việt Nam hiện hành, luận án tiến sỹ, Vũ Thị Hồng Yến, Đại học Luật
Hà Nội, năm 2013.
- Bùi Thị Duyên (2014), Pháp luật về thế chấp tài sản để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện, luận văn thạc
sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia, Hà Nội.
- Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp thay thế đối với
các quan hệ thương mại trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, luận án tiến sỹ,
Dương Quỳnh Hoa, Học viện Khoa học xã hội, năm 2012.
- Pháp luật về bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng, thực trạng và
phương hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ, Nguyễn Thị Minh Chi; Đại học
Luật Hà Nội, năm 2004.
- Bảo đảm tiền vay ngân hàng, thực trạng và giải pháp, luận văn thạc
sỹ, Lê Thu Hiền, Đại học Luật Hà Nội, năm 2003.
- Hoàn thiện pháp luật về quyền chủ nợ của tổ chức tín dụng, luận văn
thạc sĩ, Lê Kim Thanh, Đại học Luật Hà Nội, năm 2008.


9

- Bài viết của tác giả Trần Đình Hảo bình luận về dự thảo Nghị định
163/NĐ-CP “Về giao dịch bảo đảm” có một phần nội dung về tín chấp
(9.2007).
- Bài viết của tác giả Nguyễn Văn Phương đăng trên Tạp chí Ngân
hàng số 11/2007 bình luận, so sánh riêng về xử lý tài sản bảo đảm giữa Nghị
định 178/NĐ-CP có một phần nội dung về tín chấp.

- Sách “Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự 2005” của Viện Khoa học
Pháp lý, Bộ Tư pháp, do Hoàng Thế Liên chủ biên.
Qua việc phân tích khái quát các công trình nghiên cứu trên, có thể thấy
rằng, mặc dù tín chấp đã được quan tâm nghiên cứu trong thời gian vừa qua
nhưng các công trình nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về tín chấp, đặc biệt
là về thực tiễn áp dụng tín chấp ở tỉnh Điện Biên chưa có. Vì vậy việc thực
hiện đề tài “Pháp luật tín chấp và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Điện Biên” là
cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn cao.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật Việt Nam
về các vấn đề như: Khái quát chung về tín chấp, một biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ; nghiên cứu hình thức cho vay bằng tín chấp; đặc điểm của hình
thức bảo đảm bằng tín chấp; trình tự, thủ tục khi ký kế hợp đồng có biện pháp
bảo đảm là tín chấp và cơ chế kiểm soát rủi ro. Luận văn cũng phân tích thực
tiễn áp dụng pháp luật về tín chấp trong các giao dịch dân sự ngoài xã hội tại
địa bàn tỉnh Điện Biên và những kiến nghị hoàn thiện.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Để phù hợp với yêu cầu và phạm vi hạn hẹp của một luận văn thạc sỹ
luật học, học viên Nghiên cứu về quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện


10

hành về tín chấp quy định trong Bộ luật dân sự 2005, trong đó có mở rộng tìm
hiểu thêm sơ qua về quy định của pháp luật dân sự về biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ bằng tín chấp trong giao dịch dân sự nói chung. Hiện trong pháp
luật dân sự Việt Nam hiện hành có quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
bằng tín chấp cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn tại các tổ chức tín dụng

nên chủ yếu luận văn nói về vấn đề này; luận văn phân tích, bình luận các quy
định của pháp luật về tín chấp như: đối tượng tín chấp, chủ thể tín chấp, quyền
và nghĩa vụ của các bên trong giao dịch tín chấp…Trên cơ sở phân tích các quy
định của pháp luật, tác giả nghiên cứu về thực tiễn áp dụng các quy định của
pháp luật dân sự về tín chấp của cá nhân hộ gia đình nghèo và các tổ chức tín
dụng tại tỉnh Điện Biên. Dựa trên các phân tích, bình luận về pháp luật và thực
tiễn áp dụng các quy định về tín chấp, luận văn đưa ra các giải pháp nhằm hoàn
thiện các quy định của pháp luật về tín chấp và phương thức giải quyết tranh
chấp có liên quan đến hình thức bảo đảm là tín chấp.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện thành công luận văn này, học viên đã sử dụng một cách
đồng bộ và tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học. Trước hết đó là
phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngoài phương pháp
nghiên cứu có tính chất lý luận cơ bản này, tác giả cũng đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu truyền thống khác như: phương pháp phân tích, tổng
hợp, so sánh tài liệu cũng như qua thực tiễn xét xử của Tòa án. Những
phương pháp này giúp tác giả tiếp cận các đối tượng nghiên cứu một cách có
cơ sở khoa học, đảm bảo tính hiệu quả của quá trình nghiên cứu.
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
5.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ ở làm rõ biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ bằng tín chấp, thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng tín


11

dụng ngân hàng bằng Tòa án liên quan đến tranh chấp mà biện pháp bảo đảm
là tín chấp; nghiên cứu việc vận dụng quy định về tín chấp trong các giao dịch
dân sự ngoài xã hội qua thực tiễn thực hiện tại tỉnh Điện Biên để tìm ra các
giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.

5.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn giải quyết một số nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, làm rõ đặc điểm của pháp luật về biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ bằng tín chấp, các tranh chấp phát sinh của hợp đồng này và
vấn đề giải quyết tranh chấp của hợp đồng bằng Tòa án. Việc nghiên cứu vấn
đề này nhằm giúp người đọc nhận thức được một cách cơ bản diện mạo của
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tín chấp trong quan hệ dân sự;
phân tích thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về thủ tục giải quyết tranh
chấp tại Tòa án. Tìm ra các mặt ưu điểm cũng như các mặt nhược điểm của
nó để trên cơ sở đó sẽ tìm hướng hoàn thiện cho phù hợp.
Thứ hai, đi sâu vào nghiên cứu thực tiễn thực hiện biện pháp bảo đảm
bằng tín chấp trong hoạt động của các tổ chức tín dụng; việc vận dụng quy
định về tín chấp trong các giao dịch dân sự ngoài xã hội và thực tiễn xét xử của
Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên. Việc nghiên cứu vấn đề này sẽ giúp chúng ta
thấy được đâu là những vướng mắc mà quá trình thực thi pháp luật về biện pháp
bảo đảm bằng tín chấp trong hoạt động tín dụng và giao dịch dân sự ngoài xã
hội để có định hướng các giải pháp nhằm tháo gỡ.
Thứ ba, đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao chất
lượng và hiệu quả của hoạt động xét xử các vụ án tranh chấp về biện pháp bảo
đảm bằng tín chấp trong hoạt động tín dụng; trong giao dịch dân sự xã hội.
6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn có những điểm mới cơ bản như sau:


12

Thứ nhất: phân tích và hệ thống các nguyên lý có tính lý luận về tín
chấp và biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tín chấp của tổ chức
chính trị - xã hội và trong giao dịch dân sự ngoài xã hội tại địa bàn tỉnh Điện
Biên.

Thứ hai, phân tích thực tiễn giải quyết một số tranh chấp hợp đồng tín
dụng ngân hàng liên quan đến các hình thức bảo đảm, trong đó có hình thức
tín chấp của Toà án nhân dân tỉnh Điện Biên.
Thứ ba, đưa ra được một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về tín
chấp; tín chấp trong giao dịch dân sự ngoài xã hội và phương thức giải quyết
các tranh chấp về biện pháp bảo đảm bằng tín chấp bằng trình tự Tòa án nhằm
nâng cao hiệu quả công tác xét xử.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục,
nội dung của Luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tín chấp
Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật về tín chấp
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật về tín chấp tại tỉnh Điện Biên
và giải pháp hoàn thiện pháp luật về tín chấp.


13

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÍN CHẤP
1.1. Khái niệm, đặc điểm về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
1.1.1. Khái niệm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
Với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, ngày càng nhiều các hợp
đồng được giao kết giữa các chủ thể trong xã hội, các biện pháp bảo đảm
được xem như một công cụ hữu hiệu giúp cho các chủ thể bảo vệ quyền lợi
của mình, khái niệm “bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự” được nhiều nhà
khoa học đưa ra:
Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là việc thoả thuận giữa các bên
nhằm qua đó đặt ra các biện pháp tác động mang tính chất dự phòng để bảo
đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ đồng thời ngăn ngừa và khắc phục những

hậu quả xấu do việc vi phạm nghĩa vụ gây ra
Hay “BPBĐ thực hiện nghĩa vụ dân sự là biện pháp trong đó một bên
sử dụng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình hoặc sử dụng uy tín của mình
(gọi là bên bảo đảm) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự của mình hoặc
của chủ thể khác (gọi là bên được bảo đảm)”
Theo hướng dẫn của UNCITRAL thì “GDBĐ là giao dịch xác lập lợi
ích bảo đảm. Mặc dù việc chuyển nhượng tuyệt đối khoản phải thu không bảo
đảm việc thực hiện nghĩa vụ, nhưng để thuận tiện cho việc dẫn”.
chiếu, GDBĐ bao gồm cả việc chuyển nhượng khoản phải thu”, trong
đó lợi ích bảo đảm là một lợi ích tài sản gắn với một tài sản nhất định nhằm
bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ nhất định. Còn theo pháp luật của Mỹ thì
GDBĐ cũng là giao dịch xác lập lợi ích bảo đảm
Các BPBĐ theo pháp luật Việt Nam chủ yếu có tính chất tài sản, trừ
biện pháp tín chấp. Nhìn chung, pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước


14

khá tương đồng về khái niệm BPBĐ tuy có sự khác nhau trong việc sử dụng
thuật ngữ.
Pháp luật Việt Nam và pháp luật của các nước đều thừa nhận bên bảo
đảm có quyền sử dụng tài sản bao gồm vật, giấy tờ có giá, quyền tài sản thuộc
quyền sở hữu của mình để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ của mình. Mặc dù có
nhiều định nghĩa khác nhau về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, nhưng
nhìn chung các định nghĩa này đều thống nhất ở một số nội dung sau đây:
(i) Biện pháp bảo đảm là một chế định, được Nhà nước ghi nhận trong
các văn bản pháp luật. Cụ thể: BLDS năm 1995, BLDS năm 2005 và BLDS
năm 2015. Ngoài các BLDS, Nhà nước ban hành nhiều văn bản dưới luật quy
định cụ thể về vấn đề này như: Nghị định 163/2006/NĐ –
CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 về Giao dịch bảo đảm (sau đây gọi là

“Nghị định 163/2006”); Nghị định 11/2012/NĐ – CP ngày 22 tháng 02 năm
2012 Về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP
ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm (sau đây gọi
là “Nghị định 11/2012”); Nghị định 83/2010/NĐ – CP ngày 23 tháng 07 năm
2010 Về đăng ký giao dịch bảo đảm (sau đây gọi là “Nghị định 83/2010”)…
(ii) Biện pháp bảo đảm được hình thành chủ yếu trên cơ sở thỏa thuận
giữa các bên chủ thể. Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được tiếp cận
dưới góc độ giao dịch bảo đảm – được hình thành trên cơ sở thỏa thuận giữa
bên bảo đảm và bên được bảo đảm. Các chủ thể này thỏa thuận lựa chọn biện
pháp bảo đảm trong các biện pháp được pháp luật ghi nhận, đối tượng bảo
đảm, giá trị bảo đảm và các nội dung liên quan khác.
(iii) Mục đích của các biện pháp bảo đảm là nâng cao trách nhiệm của
các bên trong quan hệ nghĩa vụ dân sự, đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ,
đồng thời ngăn ngừa và khắc phục những hậu quả xấu do việc không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ gây ra.


15

Theo BLDS năm 2015, có 9 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự. Đó là: Cầm cố tài sản; thế chấp tài sản; đặt cọc; ký cược; ký quỹ; bảo lãnh,
tín chấp, cầm giữ và bảo lưu quyền sở hữu. Phụ thuộc vào nội dung, tính chất
của từng quan hệ nghĩa vụ cụ thể, cũng như phụ thuộc vào điều kiện của các
chủ thể tham gia quan hệ ấy mà mỗi một biện pháp đảm bảo mang một đặc
điểm riêng biệt.
1.1.2. Đặc điểm của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự
Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phát sinh
chủ yếu từ sự thoả thuận giữa các bên. Nghĩa vụ dân sự có thể phát sinh từ

những căn cứ khác nhau như hợp đồng, hành vi pháp lý đơn phương, gây thiệt
hại do hành vi trái pháp luật…thì biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ phát
sinh chủ yếu thông qua sự thoả thuận của các bên trong một giao dịch dân sự.
Bên cạnh căn cứ thỏa thuận làm phát sinh các giao dịch bảo đảm thì
giao dịch bảo đảm được phát sinh trên cơ sở do pháp luật quy định. Ví dụ:
Chủ thể kinh doanh dịch vụ lữ hành phải áp dụng biện pháp kí quỹ tài sản
(Điều 4 Nghị định 27/2001/NĐ – Cp về kinh doanh lữ hành, hướng dẫn du
lịch).
Thứ hai, các biện pháp bảo đảm mang tính chất bổ sung cho nghĩa vụ
chính, do đó, các biện pháp bảo đảm không tồn tại độc lập mà phụ thuộc vào
nghĩa vụ chính.
Thứ ba, đối tượng của các biện pháp bảo đảm chủ yếu là những lợi ích
vật chất như: tiền, giấy tờ có giá, các quyền tài sản…Bên cạnh đó, đối với
riêng biện pháp tín chấp, đối tượng bảo đảm không phải là một lợi ích vật
chất mà là uy tín của tổ chức chính trị - xã hội.


16

Thứ tư, phạm vi bảo đảm của các biện pháp bảo đảm không vượt quá
phạm vi nghĩa vụ đã được xác định trong nội dung của quan hệ chính.
Thứ năm, các biện pháp bảo đảm mang tính chất dự phòng. Các biện
pháp bảo đảm nghĩa vụ chỉ được áp dụng khi có sự vi phạm nghĩa vụ. Tức là
tài sản bảo đảm chỉ xử lí để thực hiện nghĩa vụ khi nghĩa vụ không được thực
hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ. Nếu nghĩa vụ chính đã được thực
hiện thì biện pháp bảo đảm cũng được coi là chấm dứt.
1.2. Khái niệm, đặc điểm của biện pháp tín chấp
1.2.1. Khái niệm
Tín chấp là một trong các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, được
ghi nhận, bảo vệ bởi các quy định của pháp luật. Đây cũng là biện pháp được

thừa nhận từ lâu trong hệ thống pháp lý của Việt Nam. Tuy nhiên, đến thời
điểm hiện nay, chưa có bất kì một công trình nào nghiên cứu toàn diện,
chuyên sâu về vấn đề này.
Tín chấp là một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự được quy định trong Bộ luật dân sự năm 2015. Sự góp mặt của các tổ chức
chính trị - xã hội, sự tham gia của các tổ chức tín dụng mà cụ thể là Ngân
hàng chính sách xã hội và những hộ gia đình nghèo là dấu hiệu rõ nhất để
nhận biết về biện pháp bảo đảm này.
Theo từ điển Tiếng Việt, “tín chấp là vay tiền bằng sự tín nhiệm, không
thế chấp tài sản”. Theo cách hiểu này, tín chấp là một hình thức vay tiền ngân
hàng mà trong hình thức này, sự tín nhiệm hay là uy tín được xem là một sự
bảo đảm để vay tiền mà không cần có tài sản đưa ra để thế chấp. Điều 344
BLDS năm 2015 quy định: “Tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở có thể bảo
đảm bằng tín chấp cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay một khoản tiền tại tổ
chức tín dụng để sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng theo quy định của pháp
luật”. Thực chất, đây chỉ là quy định của pháp luật về biện pháp tín chấp mà


17

chưa phản ánh được bản chất của biện pháp này. Quy định này bao gồm các
nội dung như: (i) Bên bảo đảm bằng tín chấp; (ii) Bên được bảo đảm bằng tín
chấp; (iii) Bên nhận bảo đảm bằng tín chấp; (iv) Phạm vi áp dụng của biện
pháp tín chấp; (iv) Mục đích vay tiền trong hợp đồng vay được bảo đảm bằng
biện pháp tín chấp. Còn Nghị định 163/2006/ NĐ – CP – văn bản pháp lý
quan trọng, quy định trực tiếp, chi tiết về biện pháp tín chấp, xây dựng khái
niệm tín chấp như sau: “Tín chấp là việc tổ chức chính trị - xã hội tại cơ sở
bằng uy tín của mình bảo đảm cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay một khoản
tiền tại tổ chức tín dụng để sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ” (Điều 49).
Như vậy, có thể thấy rằng, khái niệm tín chấp được nghiên cứu dưới

nhiều góc độ khác:
- Dưới góc độ khách quan: Tín chấp là tập hợp các quy định của pháp
luật quy định về biện pháp tín chấp, gồm các nội dung như: chủ thể bảo đảm
tín chấp, chủ thể được vay tín chấp, mục đích vay tín chấp, hình thức vay tín
chấp…
- Dưới góc độ chủ quan: Tín chấp là một giao dịch bảo đảm, cụ thể là
hợp đồng tín chấp, được hình thành trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên. Với
tính chất là một giao dịch bảo đảm, giao dịch thế chấp phải tuân thủ các quy
định của pháp luật được áp dụng chung cho các giao dịch.
Như vậy, tín chấp là một hình thức bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, trong
đó tổ chức chính trị - xã hội cơ sở cam kết với các tổ chức tín dụng bằng uy
tín của mình nhằm bảo đảm cho cá nhân, hộ gia đình nghèo được vay một
khoản tiền tại các tổ chức tín dụng để sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ theo
quy định của Chính phủ.
1.2.2. Đặc điểm của biện pháp tín chấp
Tín chấp là một trong các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, do đó,
tín chấp mang đầy đủ các đặc điểm nói chung của giao dịch bảo đảm (nội


18

dung đã phân tích 1.1.2 trong luận văn). Bên cạnh những đặc điểm chung, tín
chấp còn có những đặc trưng riêng sau đây:
- Chủ thể cam kết bảo đảm thực hiện hợp đồng bằng hình thức tín chấp
phải là các tổ chức chính trị – xã hội tại cơ sở. Việc bảo đảm chỉ bằng uy tín
nên các tổ chức chính trị – xã hội cơ sở có trách nhiệm cùng tổ chức tín dụng
theo dõi, giám sát việc sử dụng vốn vay đúng mục đích đã cam kết trong hợp
đồng và đôn đốc trả nợ khi hết thời hạn vay.
- Chủ thể cam kết bảo đảm thực hiện hợp đồng bằng hình thức tín chấp không
có trách nhiệm dùng tài sản của mình để thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có

nghĩa vụ như việc bảo lãnh thông thường khác. Gía trị nghĩa vụ được bảo đảm
bằng tín chấp thường không lớn, thông thường tín chấp chỉ bảo đảm cho việc
vay một khoản tiền nhỏ của cá nhân, hộ gia đình nghèo tại tổ chức tín dụng
với mục đích sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ hoặc tiêu dùng theo quy định
của Chính phủ
- Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ, thì
tổ chức chính trị – xã hội cơ sở có trách nhiệm đề xuất, giải trình để giãn nợ,
xin giảm lãi suất để hỗ trợ các chủ thể vay vốn. Trong trường hợp đặc biệt
khó khăn như gặp thiên tai, bất khả kháng nghiêm trọng có thể đề nghị xóa nợ
theo chủ trương của Chính phủ đối với những vùng khó khăn đặc biệt khi gặp
thiên tai.
- Do tính chất đặc trưng của bảo đảm thực hiện hợp đồng bằng hình
thức tín chấp nên không có việc bán tài sản hoặc xử lý tài sản bảo đảm trong
quá trình thu hồi nợ vì đối tượng của tín chấp là uy tín – một giá trị nhân thân
của tổ chức chính trị - xã hội.
- Chủ thể được bảo đảm nghĩa vụ bằng hình thức tín chấp được xác
định là cá nhân, hộ gia đình nghèo. Đây là những chủ thể có thu nhập và mức
sống dưới chuẩn trung bình của xã hội. Xuất phát từ mục tiêu xóa đói, giảm


19

nghèo mà tín chấp được ghi nhận để tạo điều kiện cho cá nhân, hộ gia đình
nghèo vay vốn nhằm cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống.
- Khoản tiền vay được bảo đảm bằng tín chấp được xác định rõ ràng về
mục đích sử dụng (để sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng theo quy định của pháp
luật – trước đây, Bộ luật dân sự 2005 quy định là làm dịch vụ).
- Chủ thể trong hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tín chấp là tổ chức
tín dụng nói chung. Chủ thể cho cá nhân - hộ gia đình nghèo vay tín chấp chủ
yếu là các ngân hàng chính sách xã hội. Cũng như đã phân tích, đối tượng

của tín chấp của các tổ chức chính trị - xã hội là những cá nhân, hộ gia đình
nghèo. Tín chấp của các tổ chức chính trị - xã hội được đặt ra, với mục đích
thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng về xóa đói, giảm nghèo, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
1.3. Phân biệt giữa biện pháp tín chấp và một số biện pháp bảo
đảm khác
1.3.1. Phân biệt giữa biện pháp tín chấp và nghiệp vụ cho vay tín
chấp của Ngân hàng Thương mại
Giữa biện pháp tín chấp được quy định trong BLDS năm 2015 và
nghiệp vụ cho vay tín chấp của ngân hàng có những điểm khác biệt sau đây:
Thứ nhất, về cơ sở pháp lý: (i) Biện pháp tín chấp được quy định trong
BLDS và các văn bản hướng dẫn thi hành như Nghị Định 163/2006; Nghị
định 11/2012; Nghị định 83/2010…(ii) Nghiệp vụ cho vay tín chấp của ngân
hàng được quy định trong các văn bản pháp lý trong lĩnh vực ngân hàng;
Thứ hai, về chủ thể được vay: (i) Trong biện pháp tín chấp: chủ thể
được vay là cá nhân, hộ gia đình nghèo; (ii) Đối với nghiệp vụ cho vay tín
chấp của ngân hàng, chủ thể vay là những khách hàng thân thiết, có uy tín cao
đối với ngân hàng;


20

Thứ ba, bên bảo đảm: (i) Trong biện pháp tín chấp: bên bảo đảm là các
tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương dùng uy tín của tổ chức để bảo đảm;
(ii) Trong nghiệp vụ cho vay tín chấp của ngân hàng thương mại: khách hàng
vay dùng uy tín của chính mình để bảo đảm việc trả nợ cho ngân hàng. Đây là
điểm khác biệt cơ bản giữa biện pháp tín chấp và nghiệp vụ cho vay tín chấp
của các ngân hàng thương mại.
Thứ tư, bên cho vay: (i) Trong biện pháp tín chấp: bên cho vay thường
là các tổ chức tín dụng và ngân hàng của Nhà nước, thực hiện chính sách xóa

đói, giảm nghèo của Nhà nước; (ii) Nghiệp vụ cho vay tín chấp: bên cho vay
là các ngân hàng, triển khai nghiệp vụ cho khách hàng đủ điều kiện vay tín
chấp.
Thứ năm, mục đích sử dụng tiền vay: (i) Trong biện pháp tín chấp: cá
nhân, hộ gia đình nghèo vay nhằm mục đích phát triển kinh tế, thoát nghèo;
(ii) Đối với cho vay tín chấp của ngân hàng thương mại: việc sử dụng tài sản
của khách hàng đa dạng, với nhiều mục đích khác nhau như phát triển sản
xuất, kinh doanh, vay tiêu dùng…
1.3.2. Phân biệt giữa biện pháp tín chấp và biện pháp bảo lãnh
Trong Bộ luật Dân sự năm 1995 trước đây, biện pháp bảo đảm bằng tín
chấp được coi là một trường hợp thuộc biện pháp bảo lãnh. Khi đó biện pháp
bảo lãnh được hiểu gồm hai loại là bảo lãnh bằng tài sản và bảo lãnh không
bằng tài sản (tín chấp) của bên thứ ba. Điều 376 Bộ luật dân sự năm 1995 quy
định: “1. Tổ chức chính trị - xã hội tại cơ sở có thể bảo lãnh bằng tín chấp
cho cá nhân và hộ gia đình nghèo vay một khoản tiền nhỏ tại ngân hàng hoặc
tổ chức tín dụng để sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ theo quy định của
Chính phủ.
2. Việc cho vay có bảo lãnh bằng tín chấp phải được lập thành văn bản
có ghi rõ số tiền vay, mục đích vay, thời hạn vay, lãi suất, quyền và nghĩa vụ


21

và trách nhiệm của người vay, ngân hàng, tổ chức tín dụng cho vay và tổ
chức bảo đảm”.
Hay khoản 10 Điều 2 Nghị định số 178/1999/NĐ – CP về Bảo đảm tiền
vay của các tổ chức tín dụng: “Bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể
chính trị - xã hội là biện pháp bảo đảm tiền vay trong trường hợp cho vay
không có bảo đảm bằng tài sản, theo đó tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội tại
cơ sở bằng uy tín của mình bảo lãnh cho cá nhân và hộ gia đình nghèo vay

một khoản tiền nhỏ tại tổ chức tín dụng để sản xuất kinh doanh, làm dịch vụ”
Đến BLDS năm 2005, biện pháp tín chấp đã được loại ra khỏi nhóm
bảo lãnh và là một biện pháp bảo đảm độc lập. Về bản chất của biện pháp bảo
lãnh bằng tín chấp của tổ chức chính trị - xã hội trong BLDS năm 1995; biện
pháp tín chấp của tổ chức chính trị - xã hội quy định trong BLDS năm 2005
và BLDS năm 2015 về cơ bản giống nhau. Tín chấp của các tổ chức chính trị
- xã hội được tách ra từ biện pháp bảo đảm là bảo lãnh vì tuy tín chấp và bảo
lãnh có điểm giống nhau nhưng cũng có sự khác nhau cơ bản, cần phân biệt
như:
* Điểm giống nhau giữa tín và bảo lãnh: Tín chấp của tổ chức chính trị
- xã hội và bảo lãnh đều là biện pháp bảo đảm mà người bảo đảm không phải
là người có nghĩa vụ được bảo đảm. Tức là cả biện pháp tín chấp và bảo lãnh,
bên bảo đảm đều là người thứ ba trong hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm.
Người thứ ba trong bảo lãnh là người bảo lãnh; trong tín chấp là các tổ chức
chính trị - xã hội.
* Điểm khác nhau giữa tín chấp và bảo lãnh: Trong sách Bình luận
khoa học Bộ luật dân sự 2005 của Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp đã giải
thích Điều 361, Bộ luật dân sự: “Điều khác nhau cơ bản giữa chế định bảo
lãnh và các chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nêu trên là ở chỗ bảo lãnh
là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, trong đó người thứ ba dùng


22

tài sản thuộc quyền sở hữu để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự của người
khác chứ không phải là bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của chính chủ sở hữu tài
sản như các chế định bảo đảm khác”. Biện pháp bảo đảm tín chấp khác với
biện pháp bảo lãnh ở một số điểm sau đây:
Thứ nhất, về phạm vi áp dụng: (i) Tín chấp chỉ bảo đảm nghĩa vụ trả nợ
trong hợp đồng vay tiền; (ii) Bảo lãnh có phạm vi bảo đảm rộng hơn, bảo đảm

cho nhiều loại nghĩa vụ trong các hợp đồng khác nhau như hợp đồng mua
bán, hợp đồng vay tài sản, hợp đồng dịch vụ, vận chuyển…;
Thứ hai, về bên bảo đảm: (i) Trong biện pháp tín chấp, bên bảo đảm
phải là tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở như hội phụ nữ, hội cựu chiến binh,
hội nông dân…; (ii) Đối với biện pháp bảo lãnh, bên bảo đảm có thể là bất cứ
chủ thể nào cam kết bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ cho chủ thể có nghĩa vụ
trước bên có quyền;
Thứ ba, về người được bảo đảm: (i) Chủ thể được bảo đảm bằng biện
pháp tín chấp chỉ có thể là cá nhân, hộ gia đình nghèo - là thành viên của tổ
chức chính trị - xã hội ở cơ sở; (ii) Chủ thể được bảo lãnh có thể
bất cứ cá nhân, pháp nhân nào với tư cách là chủ thể trong quan hệ pháp luật
dân sự;
Thứ tư, về đối tượng trong các biện pháp bảo đảm: (i) Đối với biện
pháp tín chấp, đối tượng được bảo đảm chính là uy tín của tổ chức chính trị xã hội ở cơ sở đó; (ii) Đối tượng của biện pháp bảo lãnh là lợi ích vật chất
nhất định (tài sản hoặc công việc theo sự thỏa thuận giữa bên bảo lãnh và bên
nhận bảo lãnh);
Thứ năm, về xử lý đối tượng bảo đảm: (i) Đối tượng của tín chấp là uy
tín của tổ chức chính trị - xã hội; do đó, trong trường hợp cá nhân, hộ gia đình
nghèo vi phạm nghĩa vụ trả nợ cho tổ chức tín dụng thì cũng không thể xử lý
(bán, chuyển giao sở hữu…) đối với uy tín; (ii) Đối với biện pháp bảo lãnh,


23

trong trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật, tài sản
của bên bảo lãnh được xử lý để bảo đảm quyền lợi của bên nhận bảo lãnh.
1.4. Phạm vi và mục đích bảo đảm bằng tín chấp
Phạm vi bảo đảm bằng tín chấp là một nội dung được tiếp cận dưới
nhiều góc độ khác nhau như: phạm vi giao dịch được bảo đảm bằng biện pháp
tín chấp; phạm vi chủ thể được bảo đảm; phạm vi giá trị nghĩa vụ được

bảo…Tín chấp với nhiều tính chất đặc thù khác biệt so với các biện pháp bảo
đảm khác nên phạm vi bảo đảm bằng tín chấp cũng có những giới hạn và đặc
trưng riêng.
Mục đích trực tiếp của bảo đảm bằng tín chấp là giúp những cá nhân,
hộ gia đình nghèo có điều kiện tiếp cận nguồn vốn tín dụng của nhà nước để
tiến hành sản xuất, kinh doanh hoặc tiêu dùng, làm dịch vụ mà không nhất
thiết phải có tài sản bảo đảm; tránh cho các chủ thể này phải vay từ nguồn
“tín dụng đen” với lãi suất rất cao khi có nhu cầu về vốn.
Thông thường, theo quy định của pháp luật dân sự và pháp luật về tín
dụng nếu muốn tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng, cần phải có tài sản bảo
đảm để người vay có thể trả nợ đúng hạn. Nhưng với đặc thù là tỉnh miền núi
tây bắc, nghèo, Điện Biên đã từng được Chính Phủ cứu đói, trợ cấp không
hoàn lại. Trong Báo An ninh thủ đô số ra ngày thứ 7/26.3.2016 đưa tin: “Thủ
tướng chỉ đạo Bộ Tài chính xuất cấp (không thu tiền) 1.544.43 tấn gạo từ
nguồn dự trữ quốc gia hỗ trợ cho các tỉnh Lạng Sơn, Điện Biên để cứu đói
thời gian giáp hạt năm 2016. Số gạo trên được phân bổ như sau: tỉnh Lạng
Sơn 324,3 tấn; tỉnh Điện Biên 1.220,13 tấn”…
Như vậy, để phát triển sản xuất, ổn định đời sống các hộ gia đình, cá
nhân tại các vùng nông thôn, miền núi nghèo khó thì biện pháp bảo đảm bằng
tín chấp là rất cần thiết. Khi những cá nhân, hộ gia đình nghèo muốn vay một
khoản tiền vốn tại ngân hàng để phục vụ nhu cầu sản xuất, kinh doanh, làm


24

dịch vụ hoặc tiêu dùng nhưng tài sản bảo đảm không có thì sự bảo đảm bằng
uy tín của các tổ chức chính trị - xã hội cơ sở lại là một thực tế đã phát huy
tích cực làm thay đổi diện mạo nông thôn. Vì vậy, để cho các cá nhân, hộ gia
đình nghèo tiếp cận nguồn vốn của các tổ chức tín dụng (mà chủ yếu là Ngân
hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn; Ngân hàng chính sách xã hội – nơi

thực hiện các chính sách lớn của Đảng và nhà nước về nông nghiệp, nông
thôn) nên pháp luật dân sự đã linh hoạt quy định hình thức tín chấp để giúp
các cá nhân, hộ gia đình nghèo có thể vay được một khoản tiền nhất định
nhằm ổn định sản xuất, chăn nuôi, làm dịch vụ, kinh doanh và tiêu dùng. Biện
pháp phi kinh tế này đang là nguồn để ổn định cuộc sống của những hộ gia
đình nghèo ở miền núi, nông thôn. Tuy nhiên, về phương diện khoa học, đây
vẫn là đề tài còn nhiều tranh luận.
1.4.1. Phạm vi bảo đảm bằng tín chấp
1.4.1.1. Phạm vi áp dụng của biện pháp tín chấp
Trong 9 biện pháp bảo đảm được ghi nhận trong BLDS năm 2015 gồm:
cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, kí cược, kí quỹ, bảo lãnh, cầm giữ,
bảo lưu quyền sở hữu, tín chấp thì mỗi biện pháp có phạm vi áp dụng riêng.
Có một số biện pháp có phạm vi áp dụng rộng như cầm cố, thế chấp, đặt cọc,
kí quỹ, bảo lãnh – đây là những biện pháp có thể được áp dụng để bảo đảm có
các loại nghĩa vụ khác nhau được hình thành từ nhiều hợp đồng cụ thể như
hợp đồng mua bán, hợp đồng vay, hợp đồng trao đổi và các hợp đồng có đối
tượng là công việc như hợp đồng dịch vụ, hợp đồng vận chuyển, hợp đồng gia
công…Trong khi đó, có một số biện pháp bảo đảm, phạm vi áp dụng hẹp, chỉ
được áp dụng với một hoặc một số nghĩa vụ phát sinh từ loại hợp đồng cụ thể
như: biện pháp kí cược chỉ được áp dụng để bảo đảm nghĩa vụ trả lại tài sản
thuê của bên thuê trong hợp đông thuê động sản; biện pháp bảo lưu quyền sở
hữu chỉ bảo đảm cho việc thanh toán tiền mua bán tài sản trong các hợp đồng


25

mua bán theo phương thức trả chậm, trả dần…Tín chấp cũng là một trong các
biện pháp bảo đảm có phạm vi áp dụng hẹp – chỉ được áp dụng để bảo đảm
cho nghĩa vụ trả nợ trong hợp đồng vay tài sản giữa một bên là cá nhân, hộ
gia đình nghèo và một bên là tổ chức tín dụng.

1.4.1.2. Phạm vi chủ thể
Theo quy định tại Điều 344, Bộ luật dân sự 2015, thì:
- Phạm vi chủ thể bảo đảm: phải là tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở
như hội liên hiệp phụ nữ, hội nông dân, mặt trận Tổ quốc...Ngoài các tổ chức
này nhận bảo đảm thì không có bất kỳ cơ quan, tổ chức nào khác được bảo
đảm bằng tín chấp tại các tổ chức tín dụng. Pháp luật quy định bên bảo đảm
phải là tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở do: đây là bên thay mặt các tổ chức
tín dụng có điều kiện để giám sát, nhắc nhở việc sử dụng vốn vay đúng mục
đích và đôn đốc việc trả nợ. Trong trường hợp bị tai họa, thiên tai dẫn đến mất
khả năng thanh toán, thì tổ chức chính trị - xã hội cơ sở sẽ xác nhận và có văn
bản đề nghị miễn giảm lãi suất hoặc dãn nợ thậm chí là xóa nợ theo chương
trình của Chính phủ nhằm giúp đỡ cư dân nông nghiệp và cư dân vùng cao,
vùng sâu, xa.
- Phạm vi chủ thể cho vay: là các tổ chức tín dụng nói chung. Hiện tại,
chủ thể cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay tín chấp phổ biến đó là Ngân hàng
chính sách xã hội.
- Phạm vi chủ thể được bảo đảm: Điều 344 Bộ luật dân sự 2015 quy
định rõ bên được bảo đảm phải là cá nhân hoặc hộ gia đình nghèo theo chuẩn
về xác định diện nghèo của Chính phủ công bố. Như vậy, các chủ thể khác
nếu không phải là cá nhân hoặc hộ gia đình nghèo, thì không được tổ chức
chính trị - xã hội cơ sở đứng ra bảo đảm bằng tín chấp. Pháp luật quy định
như vậy nhằm tránh tình trạng lợi dụng quy định về tín chấp để trục lợi.
1.4.1.3. Phạm vi giá trị nghĩa vụ được bảo đảm bằng tín chấp


×