Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Tiểu luận xã hội học văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.2 KB, 7 trang )

Nguyễn Văn Nam

Tìm hiểu về các khái niệm văn hóa, xã hội học văn hóa,
phương pháp luận nghiên cứu, các xu hướng nghiên cứu.

Văn hóa là thứ sản phẩm được sáng tạo bởi con người kể cả về vật
chất lẫn tinh thần, vật thể và phi vật thể là thứ sản phẩm mà mỗi cộng
đồng người phải nhào nặn lại tự nhiên và chính bản thân mình hàng
nghìn năm mới có được. Văn hóa không chỉ là kết quả của mối quan hệ
giữa con người với thế giới tự nhiên mà là thứ để phân biệt xã hội này
với xã hội khác đương thời với nó. Văn hóa làm cho cộng đồng đều có cá
tính (bản sắc) riêng của mình. Đối với mỗi cá nhân thì văn hóa là do học
hỏi mà có, nghĩa là phải tiếp nhận nó bằng con đường xã hội hóa và hội
nhập văn hóa chứ không phải là di truyền về mặt sinh học. Mỗi con
người đều là sản phẩm của một nền văn hóa, đó là văn hóa dân tộc. Văn
hóa dân tộc thấm đượm vào mỗi người không chỉ ở tuổi ấu thơ mà còn
suốt cuộc đời. Như vậy dù có tự giác hay không thì mỗi con người đều
nghĩ suy cảm xúc, cư xử, hành động theo phong tục, tập quán, hệ giá trị,
chuẩn mực của nền văn hóa dân tộc mình, mà trong đó mình là thành
viên. Chính vì vậy văn hóa luôn gắn liền với đời sống con người chúng
ta, vì thiếu văn hóa con người không thể sống được. Tìm hiểu về văn hóa
là điều kiện để giúp em được tiếp xúc, nhìn nhận và hiểu thêm về văn
hóa của con người.
Có thể nói, văn hóa là khái niệm có nhiều cách hiểu, dễ gây ra những
Tiểu luận XHH văn hóa

Page 1


Nguyễn Văn Nam
nhầm lẫn. Văn hóa cũng mang những nội dung cảm xúc và dễ gây tranh cãi


ngay cả khi người ta còn chưa trình bày về nó. Nó có thể là một quan niệm
dân tộc học, nhân học về các văn hóa, hay một đặc trưng về tính nhân loại
của con người như là hữu thể văn hóa đối lập với tự nhiên. Nó có thể là văn
hóa phổ quát mà cha mẹ thường dạy con cái và khi đó nó thể hiện ở những
thuộc tính người rất ít giới hạn. Từ văn hóa còn chỉ việc trồng trọt và sự
hoàn thiện tinh thần cũng như để phân biệt văn hóa bản địa và văn minh
phương tây. Có nhiều cách tiếp cận văn hoá là do đứng ở nhiều góc độ
khác nhau để nghiên cứu về lĩnh vực này, từ cách tiếp cận văn hoá theo
kiểu “tinh thần luận”, “hiện tượng luận” cho đến kiểu “thao tác luận”
v.v... Mỗi phương pháp tiếp cận lại có nhiều quan niệm, nhiều cách định
nghĩa về văn hoá khác nhau. Song, nhìn chung những quan niệm khác nhau
đó đều bộc lộ một điểm chung nhất - Văn hoá là lớp thăng hoa trên cái tự
nhiên, của con người và xã hội loài người. Dưới góc độ của xã hội học thì
văn hoá là sản phẩm của con người, là quan niệm về cuộc sống, tổ chức
cuộc sống và là toàn bộ cách ứng xử của con người trong cuộc sống đó.
Nói về văn hóa thì có rất nhiều vấn đề thuộc nhiều lĩnh vực để tìm
hiểu như kinh tế, chính trị, xã hội, tất cả đều là thực tại văn hóa, nghĩa là
toàn thể xã hội cũng được xem như là thừa kế văn hóa. Văn hóa như chúng
ta đã biết đó không phải là tri thức tự nhiên, vì vậy đối tượng nghiên cứu
của văn hóa là rất rộng. Thực tiễn nghiên cứu văn hóa và con người ở nước
ta mấy chục năm gần đây cho thấy, thông thường nói đến phương pháp
luận, các nhà nghiên cứu thường nghĩ ngay đến phương pháp luận đã có,
tức là những phương pháp luận đã được các nhà tư tưởng, các học thuyết,
các quan điểm có uy tín đề xướng và hoàn thiện ở mức độ nhất định. Dẫu
không kém phần khó khăn và phức tạp nhưng cái khó thường được chú ý
Tiểu luận XHH văn hóa

Page 2



Nguyễn Văn Nam
chỉ là sự lựa chọn phương pháp luận nào, ứng dụng nó ra sao. Hay cần phải
cải tạo hoặc phát triển nó như thế nào để ứng dụng cho phù hợp hơn với đối
tượng nghiên cứu cụ thể. Trên thực tế những phương pháp luận đó chưa
phải là tất cả mà chỉ là một phần của những phương pháp luận phải có.
Theo tôi, phương pháp luận đã có dẫu rất quan trọng, rất căn bản nhưng
chưa đủ để giải quyết toàn bộ những vấn đề đặt ra. Đòi hỏi phải được định
hướng về mặt phương pháp luận, còn có những phương pháp luận khác còn
gọi là phương pháp luận cần được xây dựng, đã và vẫn đang xuất hiện trong
không ít công trình nghiên cứu, phân biệt tương đối rạch ròi với những
phương pháp luận đã có. Tuy nhiên do các công trình nghiên cứu lâu nay
không buộc phải giải quyết sự khác biệt giữa hai loại phương pháp luận này
nên có thể vì thế không mấy ai chú ý để phân biệt.
Trước khi đi vào những vấn đề cụ thể, chúng ta cần thiết phải đề cập
đến khái niệm phương pháp luận, vì theo tôi, hiện vẫn có tình trạng hiểu
không giống nhau về khái niệm này. Trong số các định nghĩa, khái niệm về
phương pháp luận mà chúng ta đã biết, tôi xin chọn ba định nghĩa mà theo
tôi được sử dụng nhiều, có thể được coi là uy tín hơn cả để phân tích nội
hàm và cấu trúc khái niệm. Đó là định nghĩa của “ từ điển bách khoa triết
học “, Nga 1989, “từ điển triết học giản yếu” 1987 và định nghĩa của Edgar
Morin 1986. Cả ba định nghĩa này đều đưa ra cách hiểu giống nhau về nội
hàm và cấu trúc của khái niệm phương pháp luận, tuy nhiên nếu nghiên cứu
thật kỹ thì cả ba khái niệm này đều có những điểm chưa thực sự thuyết
phục. VÌ thế tôi xin tổng hợp các hiểu của cả ba định nghĩa này như sau:
Phương pháp luận là :
-

Hệ thống lý luận về các phương pháp nhận thức và

hoạt động thực tiễn

Tiểu luận XHH văn hóa

Page 3


Nguyễn Văn Nam
-

Hệ thống các quan điểm, nguyên tắc tìm kiếm, xây

dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp nhận thức và hoạt động
thực tiễn
Bao gồm :
-

Các nguyên tắc thế giới quan
Các nguyên tắc sử dụng phương pháp cho một nghành

khoa học, một lĩnh vực nhận thức và hoạt động
Lý luận về bản thân phương pháp
Theo cách hiểu trên, với một đối tượng cụ thể, cái đóng vai trò là
phương pháp luận cho nhận thức hoặc cho hoạt động thực tiễn trước hết là
lý luận về phương pháp (định nghĩa nào về phương pháp luận cũng ghi một
câu khó hiểu

“ phương pháp luận là lý luận về phương pháp”). Thực ra

với một đối tượng (của nhận thức hoặc hoạt động thực tiễn) cụ thể, thì “lý
luận về phương pháp” với tính cách là một thành phần của phương pháp
luận, chỉ có thể được hiểu là hệ thống các quan điểm, các nguyên tắc, để

tìm kiếm, xây dựng, lựa chọn và vận dụng phương pháp. Nếu hiểu lý luận
về phương pháp quá rộng, chẳng hạn mọi sự bàn luận lý thuyết về phương
pháp thì sự bàn luận đó thật khó đóng vai trò phương pháp luận được nữa.
Một nội dung quan trọng khác của khái niệm phương pháp luận là các
nguyên tắc – các nguyên tắc (có tính chất) thế giới quan để nhận thức và
hoạt động thực tiễn và các nguyên tắc sử dụng phương pháp ở một đối
tượng cụ thể.
Sau đây, tôi xin đề cập một số vấn đề đã và vẫn được coi là vướng
mắt đối với các nhà nghiên cứu về phương pháp luận trong nghiên cứu
văn hóa và con người.
Phương pháp luận nghiên cứu văn hóa
Tiểu luận XHH văn hóa

Page 4


Nguyễn Văn Nam
1.

Như ta đã quy ước ở trên, phương pháp luận đã có là những phương pháp
luận đã được các nhà tư tưởng các học thuyết, các quan điểm có uy tín, …
đề xướng và hoàn thiện ở mức độ nhất định. Với những phương pháp luận
này, việc nghiên cứu và phát triển văn hóa ở nước ta khoảng 20 năm gần
đây, có 2 loại phương pháp luận chủ yếu được sử dụng:
o
Phương pháp luận coi văn hóa là sản phẩm của hoạt
động
o

Phương pháp luận coi văn hóa là nhân tố bên trong của


sự phát triển xã hội
Mặc dù 2 phương pháp luận có những điểm không tương dung với
nhau, thậm chí trái ngược nhau nhưng thực tế chúng đã cùng tồn tại trong
đời sống hoạt động khoa học ở nước ta và sự cùng tồn tại ấy dường như khá
êm thấm suốt 20 năm qua.
2.

Trước đó văn hóa được nghiên cứu chủ yếu theo thế giới quan và phương
pháp luận Mác-xít. Mà lý luận Mác-xít như ta đã biết rất ít bàn đến văn hóa.
(Trong các tác phẩm kinh điển, chỉ có vài lần Mác và Enghen trực tiếp nhắc
đến thuật ngữ văn hóa. Cũng dễ hiểu bởi ở thời các ông, văn hóa học chưa
xuất hiện, còn khái niệm văn hóa vẫn chưa hoàn toàn tách khỏi văn minh
nghĩa là văn hóa chưa phải là đối tượng cấp thiết phải bàn luật như sau này.
Hơn thế nữa các nhà kinh điển Mác-xít không đặt cho mình nhiệm vụ lý
luận về văn hóa. Nhiệm vụ lý luận của các ông nặng nề hơn nhiều nếu có
thể nói được như vậy)
Do vậy, văn hóa khi được các nhà lý luận Mác-xít hậu thế quan tâm
(từ cuối những năm 60 thế kỷ 20) thì trên thực tế, nó chỉ còn được xem là
một dạng của hoạt động người và phần lớn những thành tố của văn hóa
được nghiên cứu là thuộc về cấu trúc của ý thức xã hội, nghĩa là bị quy định
bởi sự tồn tại xã hội. Cách tiếp cận hoạt động chủ trương gắn toàn bộ đời
Tiểu luận XHH văn hóa

Page 5


Nguyễn Văn Nam
sống phức tạp của con người với hoạt động, giải thích xã hội theo quan
điểm duy vật lịch sử - nghĩa là nói một cách đơn giản, mọi sự biến đổi xã

hội nếu phải giải thích bằng nguyên nhân cuối cùng thì nguyên nhân đó
thuộc về đời sống vật chất xã hội và nền sản xuất xã hội. Sản xuất vật chất
là cơ sở, là nền tảng của toàn bộ đời sống xã hội. Nguyên lý đầu tiên và
quan trọng này là của chủ nghĩa duy vật lịch sự hiện vẫn được ghi rõ trong
hầu hết các sách giáo khoa Mác-xít về triết học. Như vậy có thể thấy văn
hóa như cách hiểu hiện nay trước những năm 90 không được sử dụng ở Việt
Nam. Dĩ nhiên xin nhắc lại là tiếp cận hoạt động và quan điểm duy vật lịch
sử trong nghiên cứu văn hóa là rất cơ bản và nó có thế mạnh của nó. Ngày
3.

nay nó vẫn được không ít học giả đề cao nhưng không phải là tất cả.
Điều thú vị là từ cuối những năm 80, khi tiếp thu những hạt nhân hợp lý
trong quan niệm về văn hóa của phương Tây, đặc biệt là khi tham gia thập
kỷ quốc tế về văn hóa trong phát triển (1987 – 1996) do UNESCO phát
động, ở Việt Nam với một quan điểm mới, phương pháp luận mới về vai trò
của văn hóa và nhân tố văn hóa đã được ứng dụng. Không bao lâu sau trong
các văn kiện chình thức của Đảng và Nhà nhước đã ghi rõ : “Văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội”.
Trên thực tế, quan điểm coi văn hóa là một cấu trúc nằm ở bề sâu đời
sống xã hội, quy định toàn bộ hoạt động xã hội và lý luận được đặt ra từ
Max Weber. Lý luận này có phương pháp luận riêng của nó là đề cao vai trò
của nhân tố văn hóa. Theo đó văn hóa không chỉ là sản phẩm của đời sống
xã hội mà căn bản hơn, nó còn là nền tảng sâu xa quy định toàn bộ sự phát
triển của đời sống xã hội. Weber đã dùng lý luận của mình giải thích khá
thành công vai trò của văn hóa tin lành trong việc hình thành và phát triển

Tiểu luận XHH văn hóa

Page 6



Nguyễn Văn Nam
của chủ nghĩa tư bản châu Âu. Trước kia, Max Weber bị giới lý luận Xô
Viết định kiến và do đó tên ông thậm chí không được nhắc tới ở Việt Nam.
Trong tiến trình đổi mới với việc hưởng ứng Thập kỷ
quốc tế về văn hóa trong phát triển của UNESCO, mà điểm cốt lõi là đề cao
nhân tố văn hóa trong phát triển, coi trọng việc bảo vệ bản sắc dân tộc “hạt
nhân sống còn của mỗi nền văn hóa”, giới lý luận Việt Nam đã cùng các
nhà lý luận thế giới ứng dụng phương pháp luận do Max Weber đề xướng
đã giải thích tương đối thuyết phục về sự trỗi đậy của 4 con rồng châu Á
trên cơ sở những nét đặc thù của văn hóa Nho giáo truyền thống. Các giá trị
văn hóa Nho giáo, các quan niệm truyền thống về đề cao nhân tố con người
thực sự đã đóng vai trò như nhưng nhân tố không thể thiếu trong các nước
NICs đạt tới “ nhịp điệu rồng” của sự tăng trưởng
4.

Như vậy điều có ý nghĩa quan trọng mà lý luận nói riêng, và toàn bộ đời
sống tinh thần xã hội nói chung ở Việt Nam có được trong những năm đầu
thời kỳ đổi mới là một quan niệm mới với phương pháp luận của nó về văn
hóa. Bổ sung cho cách nhìn văn hóa như một sản phẩm của nền sản xuất
hội, văn hóa đã được xem là nhân tố bên trong, quy định các tác động (có
khả năng thúc đẩy hoặc kìm hãm) sự phát triển kinh tế xã hội. Đây rõ ràng
là một quan điểm rộng rãi hơn, mềm dẻo hơn và hợp lý hơn, nhất là với
Việt Nam. Một xã hội có bề dầy hàng nghìn năm văn hóa truyền thống.

Tiểu luận XHH văn hóa

Page 7




×