Tải bản đầy đủ (.doc) (145 trang)

LATS Y HỌC-Một số đặc điểm dịch tễ và hiệu quả can thiệp cộng đồng phòng chống bệnh sốt xuất huyết Dengue tại hai huyện tỉnh Bến Tre (FULL TEXT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 145 trang )

i

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

PHÙNG NGỌC TÁM

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỂ VÀ HIỆU QUẢ
CAN THIỆP CỘNG ĐỒNG PHÒNG CHỐNG
BỆNH SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE
TẠI HAI HUYỆN, TỈNH BẾN TRE

LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC

Thái Nguyên, năm 2018


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Sốt xuất huyết Dengue (hay còn gọi là sốt xuất huyết) là bệnh truyền
nhiễm cấp tính do vi rút Dengue gây nên. Bệnh lây truyền từ người sang
người qua vật chủ trung gian truyền bệnh là muỗi vằn đốt. Bệnh có thể gây
thành dịch lớn và có tỷ lệ tử vong tương đối cao với sự có mặt ở hơn 125
nước trên thế giới , ảnh hưởng đến kinh tế xã hội ở nhiều vùng nhiệt đới và
cận nhiệt đới , .
Hiện nay sốt xuất huyết Dengue được coi là một trong số các bệnh
truyền nhiễm quan trọng nhất trên thế giới với hơn 50% dân số thế giới sinh
sống ở những nơi có nguy cơ mắc bệnh và khoảng 50% sống ở các quốc gia
có lưu hành bệnh sốt xuất huyết , . Theo Tổ chức Y tế thế giới, mỗi năm có
khoảng 100 triệu trường hợp mắc, phần lớn là trẻ em dưới 15 tuổi, tỷ lệ tử


vong trung bình khoảng 2,5 - 5% .
Tại Việt Nam, sốt xuất huyết Dengue tập trung chủ yếu tại các tỉnh miền
Nam và miền Trung. Năm 2014, được ghi nhận có 32.049 số ca mắc sốt xuất
huyết và 20 trường hợp tử vong . được ghi nhận có 32.049 số ca mắc sốt xuất
huyết và 20 trường hợp tử vong . Theo Bộ y tế, năm 2017, cả nước ghi nhận
181.054 trường hợp mắc SXH, trong đó có 152.659 ca nhập viện với 30
trường hợp tử vong. So với cùng kỳ năm 2016 số ca mắc tăng 2,7%, số ca tử
vong giảm 9 trường hợp. Tỷ lệ tử vong của nước ta năm 2017 là 0,03% trên
tổng số ca mắc, thấp hơn các nước như Malaysia (0,23%), Philippines
(0,24%), Campuchia (0,23%)…. Trước đây dịch chỉ xuất hiện ở thành phố,
thị xã, nay lan rộng đến nông thôn . Mặc dù Việt Nam đã nỗ lực thực hiện
nhiều biện pháp nhưng SXHD vẫn cịn là một vấn đề y tế cơng cộng to lớn.
Theo nghiên cứu thì số tử vong do SXHD ở khu vực phía Nam chiếm tỉ lệ
trên 80% tổng số tử vong của cả nước .


2

Bến Tre là tỉnh thuộc Đồng Bằng sông Cửu Long với hệ thống sơng
ngịi, kênh mương nhiều. Khí hậu tỉnh Bến Tre nằm trong vùng khí hậu nhiệt
đới gió mùa cận xích đạo, với hai mùa rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng
11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng
năm từ 2.000 đến 2.300 mm, nhiệt độ trung bình hàng năm từ 26 0C - 270C.
Đây là điều kiện thuận lợi cho muỗi, lăng quăng phát triển cũng như bệnh sốt
xuất huyết xuất hiện. Năm 2015 ghi nhận 1084 ca mắc trong đó có 01 cas tử
vong. Năm 2016 số mắc sốt xuất huyết Dengue của toàn tỉnh là 3.230 ca sốt
xuất huyết trong đó có 2 ca tử vong. Năm 2017, toàn tỉnh ghi nhận 1.132 ca
mắc sốt xuất huyết, 01 ca tử vong . Tuy số ca mắc và tử vong tại tỉnh Bến Tre
không phải cao nhất trong khu vực nhưng diễn biến bệnh sốt xuất huyết vẫn
còn phức tạp.

Vậy vấn đề đặt ra là thực trạng Sốt xuất huyết Dengue tại tỉnh Bến Tre ra
sao? Các yếu tố nào liên quan đến Sốt xuất huyết Dengue ? Giải pháp nào
phù hợp với cộng đồng để giảm thiểu vấn đề đó? Để trả lời cho những vấn đề
trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Một số đặc điểm dịch tễ và hiệu
quả can thiệp cộng đồng phòng chống bệnh sốt xuất huyết Dengue tại hai
huyện tỉnh Bến Tre”, nhằm thực hiện 2 mục tiêu sau:
1. Mô tả một số đặc điểm dịch tễ sốt xuất huyết Dengue ở huyện Châu
Thành và huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre giai đoạn năm 2010 – 2014.
2. Đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp cộng đồng phòng
chống bệnh sốt xuất huyết Dengue tại 02 xã của huyện Châu Thành, tỉnh Bến
Tre giai đoạn năm 2015-2017.


3

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đặc điểm dịch tễ học bệnh sốt xuất huyết Dengue
1.1.1. Đặc điểm dịch tễ học bệnh sốt xuất huyết Dengue trên thế giới
1.1.1.1. Lịch sử dịch bệnh sốt xuất huyết Dengue
Sốt xuất huyết Dengue (SXHD) hiện được coi là một trong số các bệnh
truyền nhiễm quan trọng nhất trên thế giới. Từ những năm 265 - 420 sau
Công nguyên, ở triều đại nhà Tần - Trung Quốc đã ghi nhận trong sử sách
những triệu chứng của loại bệnh tương thích với bệnh sốt xuất huyết (SXH)
hiện nay , . Tại thời điểm đó, người ta cho rằng bệnh SXH có nguồn gốc từ
một loại chất độc trong nước và liên quan đến côn trùng bay . Sau đó vào
khoảng các năm 1635 và 1699 ở Tây Ấn và Trung Mỹ các bệnh dịch giống
với bệnh SXH, với các bệnh tương tự đã xảy ra và lây lan khắp khu vực .
Năm 1780 một vụ dịch lớn xảy ra ở Philadelphia, Pennsylvania. Sau đó các
trận dịch lớn đã xảy ra trong thế kỷ 18 đến thế kỷ 20 ở bờ biển Đại Tây
Dương của Mỹ và Nam Mỹ, đảo Caribe và lưu vực sông Mississippi, vụ bùng

phát cuối cùng xảy ra vào năm 1945 ở New Orleans . Sự gia tăng dịch bệnh
trong Thế chiến thứ II, khi quân đội bắt đầu phân tán trên đất liền và sử dụng
phương tiện giao thông hiện đại trong và giữa các quốc gia, do đó dịch bệnh
SXH trở nên bùng phát mạnh hơn. Vào cuối chiến tranh, do sự phát triển của
vấn đề giao thông, vận chuyển và đơ thị hóa đã dẫn đến sự gia tăng truyền
bệnh SXH ở nhiều nước Đông Nam Á và sau đó là sự xuất hiện các dạng
bệnh SXH , . Cuối cùng, căn nguyên vi rút và sự lây lan của muỗi cũng đã
được xác định trong thế kỷ 20 .
1.1.1.2. Thực trạng sốt xuất huyết Dengue trên thế giới
Trong nửa thế kỷ qua, tỷ lệ mắc sốt xuất huyết trên tồn thế giới đã tăng
30 lần, với ước tính xấp xỉ 390 triệu ca nhiễm/năm. Những năm 2014 và 2015
được mô tả bởi sự bùng phát bệnh sốt xuất huyết trên toàn thế giới, là mối đe


4

dọa đối với sức khoẻ cộng đồng, đặc biệt là ở các nước châu Á . Sự lây lan về
mặt địa lý của cả véc tơ muỗi và vi rút đã dẫn đến sự gia tăng toàn cầu của
dịch bệnh sốt xuất huyết và xuất hiện những hình thái nghiêm trọng trong 25
năm qua . Từ những năm 1950, chỉ có 9 quốc gia báo cáo có dịch sốt xuất
huyết thì cho đến nay sốt Dengue hiện đang là mối quan ngại về sức khoẻ
cộng đồng ở hơn 100 quốc gia . Số lượng trung bình các trường hợp mắc bệnh
sốt xuất huyết được báo cáo cho Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã tăng từ 908
trường hợp trong giai đoạn 1950 - 1999 lên 514.139 trường hợp trong giai
đoạn 1990 - 1999 . Theo ước tính hiện nay có khoảng 3,6 tỷ người hiện đang
sinh sống ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, nơi lưu hành các loại vi rút
sốt xuất huyết , , . Theo nhiều nghiên cứu khác nhau, ước tính khoảng từ 50
đến 200 triệu người mắc bệnh sốt xuất huyết, 500.000 trường hợp mắc SXH
nặng và hơn 20.000 trường hợp tử vong vì bệnh sốt xuất huyết xảy ra hàng
năm . Tỉ lệ hiện nhiễm toàn cầu đã tăng lên đáng kể trong những thập kỷ gần

đây đặc biệt là ở Đông Nam Á và đang có dấu hiệu tiếp tục gia tăng .

Nguồn: Tổ chức Y tế thế giới

Hình 1.1. Bản đồ phân bố bệnh sốt xuất huyết Dengue trên thế giới
của WHO năm 2011


5

Năm 2012, Tổ chức Y tế Thế giới đã xếp loại Dengue là căn bệnh do vi
rút gây ra quan trọng nhất trên thế giới do sự xuất hiện và lây lan rộng của vi
rút và véc tơ ở các khu vực trước đây không bị ảnh hưởng cũng như gánh
nặng bệnh tật và sự ảnh hưởng về kinh tế xã hội do nó mang lại , , . Ở hầu hết
các quốc gia, gánh nặng chính của tỷ lệ bệnh tật và tử vong này chủ yếu là ở
trẻ em , .
Ở Châu Mỹ, ước tính tổng chi phí cho SXH hàng năm là 2,1 tỷ đô la
Mỹ . Một nghiên cứu của 12 nước ở Đông Nam Á cho thấy tổng gánh nặng
kinh tế hàng năm do SXH mang lại là 950 triệu USD . Thực tế con số có thể
sẽ lớn hơn rất nhiều do sự giám sát bệnh vẫn còn hạn chế, báo cáo chưa đầy
đủ cũng như việc chẩn đốn bệnh cịn bị bỏ sót , , .
Mặc dù con số thống kê về số người mắc cũng như sự ảnh hưởng về kinh
tế xã hội cịn khác nhau giữa các nghiên cứu, nhưng khơng thể phủ nhận sự có
mặt, lây lan của SXH tại tất cả các khu vực trên thế giới.
Nghiên cứu của Raghwani J cho thấy phần lớn gánh nặng bệnh tật chỉ
hạn chế ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới cũng như gần 75% dân số toàn cầu
tiếp xúc với bệnh sốt xuất huyết sống ở châu Á Thái Bình Dương , . Tuy
nhiên vào năm 2014, lần đầu tiên trong hơn 70 năm một đợt dịch sốt xuất
huyết đã xảy ra ở Nhật Bản mặc dù đây là đất nước có khí hậu ơn đới. Qua
phân tích, các nhà khoa học cho thấy dịch SXH xảy ra ở Nhật Bản là kết quả

của việc đi du lịch quốc tế từ các nước Đông Nam Á. Năm 2014, dịch sốt xuất
huyết cũng đã ảnh hưởng đến một số quốc gia Châu Á, bao gồm Trung Quốc,
Thái Lan, Việt Nam và Nhật Bản , . Một số nghiên cứu đã cho thấy tỷ lệ các
ca sốt xuất huyết nặng ở khu vực Đông Nam Á cao gấp 18 lần khu vực Châu
Mỹ , . Trong năm 2011, khu vực Đông Nam Á có tổng số 244.855 trường hợp
mắc bệnh, trong đó 839 trường hợp tử vong, chiếm 0,34%. Trong đó
Philippines là nước có tỷ lệ mắc SXHD cao nhất trong khu vực với 125.975


6

trường hợp, 675 người tử vong. Việt Nam đứng hàng thứ 2 với 69.680 ca mắc
mới, 61 người tử vong . Tại Úc, SXHD không phải là bệnh phổ biến, tuy
nhiên ở phía Bắc Queensland đã ghi nhận các trường hợp mắc SXH từ khu
vực Đông Nam Á đem lại .
Khu vực Châu Mỹ, mặc dù khơng có sự xuất hiện của SXHD cho đến
giữa thế kỷ 20, nhưng đến năm 2010 hầu hết các nước ở Châu Mỹ đều xảy ra
dịch với chu kỳ xuất hiện từ 3 - 5 năm , với quy mô ngày càng tăng đặc biệt
là ở Mỹ Latinh với hơn 1,6 triệu ca sốt xuất huyết, trong số đó 49.000 ca là
SXHD thể nặng. Vào năm 2013, ở Châu Mỹ có hơn 2 triệu trường hợp mắc
SXH (trong đó 32.270 trường hợp nặng), tỷ lệ mắc là 404,35/100.000 dân và
1175 trường hợp tử vong (trường hợp tử vong = 0,05%) . Chỉ có hai nước ở
châu Mỹ La tinh khơng có sự xuất hiện của SXHD là Uruguay và Chile . Do
sự hồi sinh của bệnh sốt xuất huyết và các véc tơ ở châu Mỹ trong những thập
kỷ gần đây, Tổ chức Y tế khu vực Châu Mỹ đã một lần nữa đưa ra “Chiến
lược Quản lý tổng hợp để phòng chống sốt xuất huyết " và phấn đấu để giảm
bệnh tật và giảm gánh nặng kinh tế do SXHD mang lại .
Kể từ năm 1960 đến 2010 có 22 nước Châu Phi đã báo cáo xuất hiện các
trường hợp SXHD hoặc bùng phát thành dịch , , và cho đến nay có 32 quốc
gia ở Châu Phi đã ghi nhận sự xuất hiện của vi rút Dengue . Trong số 96 triệu

ca nhiễm trên tồn thế giới thì châu Phi chiếm 16% tương tự như ở Mỹ Latinh
(≈14%) . Do đặc điểm riêng của sốt rét trên toàn khu vực châu Phi, phần lớn
(> 70%) các trường hợp sốt, bao gồm cả xuất huyết, có khả năng được chẩn
đốn nhầm và điều trị như bệnh sốt rét Plasmodium malaria . Điều này tác
động tiêu cực đến bức tranh toàn diện của dịch tễ học bệnh sốt xuất huyết
trong khu vực và cho thấy sư cần thiết của việc giám sát thường xuyên dịch
bệnh cũng như các hoạt động dự phịng có liên quan.


7

Khu vực Đông Địa Trung Hải trong 2 thập kỷ qua đã có nhiều đợt bùng
phát SXHD ở 3 quốc gia - Ả Rập Saudi, Pakistan và Yemen. Năm 2011, thành
phố Lahore ở Pakistan đã trải qua một dịch sốt xuất huyết Dengue lớn với
21.685 trường hợp mắc và 350 trường hợp tử vong , .
Tại Châu Âu dịch bệnh sốt xuất huyết Dengue cuối cùng ở châu Âu xảy
ra vào khoảng năm 1926 đến năm 1928 ở Hy Lạp. Dịch này có liên quan đến
Aedes aegypti và có tỷ lệ tử vong cao . Cho đến những năm 1990 khi Aedes
albopictus có mặt tại Châu Âu thì bệnh dịch đã quay trở lại. Ngày nay, dịch
SXHD đã được phát hiện tại Pháp, Croatia và một số quốc gia khác ở châu
Âu . Như vậy, mặc dù Châu Âu không bị sốt xuất huyết trong phần lớn thế kỷ
20, tuy nhiên do sự phát triển toàn cầu của bệnh sốt xuất huyết Dengue đã ảnh
hưởng đến khu vực vào thời điểm hiện tại .
Như vậy SXHD đã xuất hiện ở hầu hết các nước, ở các khu vực trên thế
giới với các tần suất khác nhau. Hiện nay SXHD cũng được coi là bệnh truyền
nhiễm quan trọng nhất trên thế giới khi hơn 50% dân số thế giới sinh sống ở
những nơi có nguy cơ mắc bệnh và khoảng 50% sống ở các quốc gia lưu hành
bệnh sốt xuất huyết, trong đó có khu vực Châu Á Thái Bình Dương, cụ thể
Việt Nam là một điểm nóng của bệnh SXHD .
1.1.2. Đặc điểm dịch tễ học bệnh sốt xuất huyết Dengue tại Việt Nam

Tại Việt Nam, từ năm 1913, Gaide đã thông báo về bệnh Dengue cổ điển
tại miền Bắc và miền Trung. Năm 1929, Boyé có viết về một vụ dịch Dengue
cổ điển (1927) ở miền Nam , . Năm 1958, lần đầu tiên Chu Văn Tường và
cộng sự căn cứ trên một số bệnh nhi ở bệnh viện Bạch Mai, các tác giả đã đưa
ra thông báo về một vụ dịch nhỏ sốt xuất huyết ở Hà Nội. Tới tháng 8 năm
1963, dịch SXH xảy ra ở đồng bằng sông Cửu Long với tổng số bệnh nhân
được thông báo là 331, trong đó có 116 trẻ em tử vong. Trong vụ dịch này
Halstead và cộng sự đã phân lập được vi rút D2 , . Tiếp sau đó, vụ dịch sốt


8

Dengue lớn đã xảy ra ở 19 tỉnh, thành phố ở miền Bắc năm 1969. Từ năm
1970 đến năm 1974, dịch xảy ra lẻ tẻ ở một số địa điểm trong nội thành Hà
Nội với số bệnh nhân từ vài chục tới hàng trăm trường hợp phải vào viện điều
trị tại các bệnh viện. Trong thời gian đó, dịch cũng lan ra các thành phố, thị
xã, thị trấn và cả các vùng nông thôn. Cho đến nay, SXHD tăng dần và lan
rộng ra cả nước, từ các thành phố đông dân lan về các thị trấn nông thôn,
khoảng cách thời gian giữa các vụ dịch cũng gần nhau hơn , .
Mặc dù chương trình kiểm sốt sốt xuất huyết Dengue quốc gia đã có từ
năm 1998, sốt Dengue vẫn là một vấn đề sức khoẻ ở Việt Nam. Sốt xuất huyết
và sốt xuất huyết Dengue là nguyên nhân hàng đầu gây ra tình trạng nhập
viện, chiếm tới 1.000.866 trường hợp được báo cáo tại Việt Nam trong giai
đoạn 1991-2004, con số cao nhất ở Tây Thái Bình Dương .
Dịch sốt Dengue/SXHD bùng nổ theo chu kỳ với khoảng cách trung bình
từ 4 - 5 năm , năm 1998 cả nước ghi nhận số trường hợp mắc là 234.920 và
377 trường hợp tử vong, năm 2010 với 128.710 ca mắc, 109 ca tử vong. Giai
đoạn 2011 - 2013, số ca mắc và tử vong giảm xuống theo qui luật chung do
miễn dịch cộng đồng sau vụ dịch năm 2010 .
Sốt Dengue /SXHD lưu hành rộng rãi ở vùng châu thổ sông Hồng (miền

Bắc), sông Cửu Long (miền Nam) và dọc theo bờ biển miền Trung. Bệnh
không chỉ xuất hiện ở đô thị mà cả vùng nơng thơn, nơi có muỗi véc tơ sinh
sống. Ở những nơi khác, nếu có, bệnh được coi như là kết quả của sự xâm
nhập vi rút Dengue từ vùng có bệnh dịch lưu hành tới. Mức độ lan rộng của
sốt Dengue /SXHD tùy thuộc vào sự phát triển giao thông và sự giao lưu của
dân cư giữa các vùng. Ở những vùng núi, cao nguyên biên giới phía Bắc,
khơng thấy xuất hiện bệnh, kể cả những năm có dịch lớn .
Do đặc điểm địa lý và khí hậu nên khu vực miền Nam Việt Nam là khu
vực có tỷ lệ mắc SXHD cao nhất cả nước , với trên 85% ca mắc và 90% ca tử


9

vong và tiếp tục có xu hướng gia tăng . Trong giai đoạn từ 2001 - 2011 có
76,9% ca mắc SXHD và 83,3% ca tử vong do SXHD là ở 20 tỉnh phía Nam .
Ngun nhân có thể do đặc điểm khí hậu, địa lý nhiều kênh ngịi, sơng nước
và tập quán của người dân tích trữ nước trong lu, vại, chum...đã tạo điều kiện
cho dịch bệnh gia tăng , .
Mặc dù vậy, những năm trở lại đây số ca mắc tại các tỉnh Bắc bộ cũng
gia tăng nhất là Hà Nội có xu hướng tăng nhanh và là điểm nóng của sốt xuất
huyết của tồn miền Bắc , , . Năm 2013, khu vực Miền Bắc chỉ ghi nhận một
số ổ dịch có tính tản phát, phân bố rải rác tại Hà Nội, Hải Phòng, Nghệ An,
Hà Tĩnh, Quảng Ninh, các ổ dịch ở quy mô nhỏ .
Do vấn đề bệnh dịch xuất hiện phức tạp và rộng khắp các tỉnh thành trên
cả nước nên việc kiểm soát và có những biện pháp ứng phó kịp thời với sốt
xuất huyết là vấn đề vơ cùng có ý nghĩa. Nghiên cứu được quy luật, dự đốn
được mơ hình bệnh tật sẽ làm giảm gánh nặng bệnh tật và kinh tế .
1.1.3. Tình hình mắc bệnh và tử vong do sốt xuất huyết Dengue tại Bến Tre
Sốt xuất huyết Dengue là một bệnh dịch lưu hành trên 08 huyện 01 thành
phố của tỉnh Bến Tre, nhưng tập trung chủ yếu là các huyện vùng hạ của tỉnh

như Ba Tri, Thạnh Phú, Bình Đại…là những huyện vùng biển người dân có
tập qn chứa nước mưa để uống và sinh hoạt.
Tuy tỉnh Bến Tre khơng nằm trong số 10 tỉnh có số mắc (54/100.000
dân) cao nhất cả nước nhưng đứng hàng thứ 7 các tỉnh có tỷ lệ chết/ mắc
SXHD cao nhất cả nước với 0,14% . Hàng năm ngành y tế tỉnh Bến Tre đều
xây dựng kế hoạch hoạt động phòng chống sốt xuất huyết đưa ra các chỉ tiêu
cụ thể về giảm tỷ lệ mắc, giảm tỷ lệ chết khống chế không để dịch lớn xảy ra.
Kế hoạch tập trung chủ yếu vào việc làm thay đổi hành vi kiểm soát lăng
quăng của các hộ gia đình. Chương trình phịng chống dịch bệnh và chăm sóc
sức khỏe ban đầu đã được lồng ghép vào xây dựng nông thôn mới tại các địa


10

phương. Tuy vậy, từ năm 2010 đến nay, năm nào cũng có ca tử vong về sốt
xuất huyết Dengue và 3 năm trở lại đây thì tỷ lệ mắc và chết vẫn còn .
Theo các chuyên gia, giai đoạn 2014 - 2016 là giai đoạn hiện tượng El
Nino hoạt động mạnh, gây nên thời tiết khơ hạn khiến việc tích trữ nước gia
tăng, gia tăng nhiệt độ trung bình cũng như thời gian phát triển chu kỳ trứng
thành muỗi rút ngắn, kéo dài thời gian sống của muỗi và làm gia tăng mật độ
muỗi khiến cho dịch sốt xuất huyết bùng phát trở lại. Do đó việc xác định
được tình hình dịch tễ học của bệnh để từ đó áp dụng các giải pháp can thiệp
trong nghiên cứu của chúng tơi là điều hết sức cần thiết nhằm góp phần hạn
chế sự gia tăng của bệnh SXH hiện nay.
1.2. Căn nguyên và một số yếu tố liên quan đến bệnh
sốt xuất huyết Dengue
1.2.1. Căn nguyên gây bệnh sốt xuất huyết Dengue
Năm 1943 các nhà khoa học đã xác định được căn nguyên gây bệnh
SXHD là do vi rút Dengue gây nên với 4 týp huyết thanh DEN - 1, DEN - 2,
DEN - 3, DEN - 4 . Nhiễm vi rút Dengue lần đầu tạo ra miễn dịch bền suốt

đời với týp đã nhiễm. Ngoài ra, miễn dịch chéo một phần với 3 týp cịn lại có
tính bảo vệ rất ngắn. Như vậy, nếu nhiễm lần 2 với một týp vi rút Dengue
khác (nhiễm thứ phát) bệnh sẽ nặng hơn .
Hiện nay, tất cả bốn týp vi rút Dengue đều được tìm thấy trong hầu hết
các mơi trường nhiệt đới và cận nhiệt đới, nơi Aedes aegypti có mặt . Các hiện
tượng tồn cầu như đơ thị hố và du lịch quốc tế là những yếu tố chủ chốt
trong việc tạo điều kiện cho sự lây lan của bệnh sốt xuất huyết cũng như sự
xuất hiện của các týp huyết thanh .
Có nghiên cứu cho rằng bệnh nhân nhiễm týp vi rút DEN - 2 sẽ dẫn đến
bệnh nặng hơn, trong khi nhiễm DENV - 1 thì bệnh sẽ nhẹ hơn . Ngoài ra


11

nghiên cứu cho thấy DEN - 2 có liên quan tới sốt Dengue xuất huyết Dengue xuất huyết có sốc, gần đây thì liên quan tới DEN - 3 .
Theo tác giả Phạm Thị Nhã Trúc sự phân bố của các týp vi rút Dengue
qua các vụ dịch SXHD đã cho thấy có sự thay đổi vai trị gây bệnh của các
týp vi rút . Tại Việt Nam trước năm 1990, chủng vi rút thường gây thành dịch
là týp DEN - 2. Tuy nhiên trong những năm gần đây các tác giả nhận thấy týp
DEN - 4 mới là týp chiếm ưu thế trong các vụ dịch .
Khi các týp huyết thanh Dengue lưu hành đa dạng và hay thay đổi sẽ dẫn
đến bệnh cảnh lâm sàng sốt xuất huyết ngày càng đa dạng và phức tạp.
1.2.2. Véc tơ gây bệnh sốt xuất huyết Dengue
Bệnh SXHD không truyền trực tiếp từ người sang người mà do muỗi đốt
bệnh nhân rồi truyền vi rút sang người lành qua vết đốt của muỗi Aedes cái.
Có hai lồi muỗi truyền bệnh SXHD là muỗi Aedes aegypti (Ae. aegypti) và
Aedes albopictus (Ae. albopictus), trong đó quan trọng nhất là Aedes aegypti véc tơ giữ vai trị trung gian chính truyền bệnh, cịn Aedes albopictus giữ vai
trò trung gian truyền bệnh thứ cấp của bệnh SXHD .
Muỗi Aedes aegypti và Aedes alpopictus trưởng thành có màu đen xen lẫn
trắng trên khắp cơ thể muỗi tạo nên vằn trắng đen nên thường được gọi là muỗi

vằn.

Aedes aegypti
Aedes albopictus
Muỗi vằn thường sống trong nhà, gần người, trú đậu nơi có ánh sáng
yếu, thường là các góc hoặc xó tối trong nhà, trên quần áo, chăn màn, dây


12

phơi và các đồ dùng trong nhà, đẻ trứng nơi nước sạch, ở những vật chứa
nước tự nhiên hay nhân tạo như chum, vại, phuy, hồ, bể chứa nước không đậy
nắp, lọ hoa chậu cây cảnh, chậu nước chống kiến dưới chân tủ thức ăn, lon đồ
hộp, ve chai, gáo dừa, vỏ xe hoặc bất kì một vật dụng chứa nước nào khác có
thể tích trữ nước đến 7 ngày.
Muỗi vằn cái thường đốt người vào ban ngày, mạnh nhất là vào sáng sớm
và chiều tối. Đặc biêt, chúng bay rất nhanh, nếu tìm thấy mồi là lao vào đốt và
hút máu ngay; đồng thời bám theo mồi rất dai và chỉ bay đi khi đã hút no máu.
Hoạt động tìm mồi hút máu của lồi muỗi này phụ thuộc vào nhiệt độ môi
trường, nếu nhiệt độ môi trường dưới 230C thì muỗi hầu như khơng có khả
năng hoạt động hút máu. Vì thế muỗi vằn thường phát triển mạnh nhất vào mùa
mưa, thời tiết nóng ẩm, khi nhiệt độ trung bình hàng tháng vượt trên 200C.
Chu kỳ phát triển của muỗi vằn Aedes từ lúc đẻ trứng đến phát triển
thành bọ gậy trung bình là 7 ngày, thời gian phát triển từ bọ gậy thành muỗi
trưởng thành chỉ mất khoảng 2 đến 3 ngày. Muỗi cái chuyên đi hút máu người
có thể sống từ 20 - 40 ngày. Tỷ lệ nhiễm sốt xuất huyết cao hơn ở ngoài trời
và vào ban ngày, khi những con muỗi này đốt thường xuyên nhất. Tuy
nhiên, Aedes aegypti đẻ ở trong nhà có khả năng đốt bất cứ ai trong suốt cả
ngày, môi trường sống ở trong nhà ít nhạy cảm với sự thay đổi khí hậu và làm
gia tăng tuổi thọ của muỗi. Theo các nhà nghiên cứu hầu hết muỗi Aedes

aegypti cái có thể dành cả cuộc đời trong hoặc xung quanh nhà, nơi đó chúng
trở thành muỗi trưởng thành với khoảng cách bay trung bình là 400 mét.


13

Hình 1.3. Vịng đời và trứng của muỗi Aedes aegypti
Ngay khi bị nhiễm, con người trở thành vật chủ mang và nhân lên của
các vi rút, như là một nguồn của vi rút cho những con muỗi không bị nhiễm
bệnh. Vi rút lưu thông trong máu trong người bị nhiễm bệnh từ 2 - 7 ngày, xấp
xỉ với thời gian mà người phát triển thành sốt. Bệnh nhân đã bị nhiễm vi rút
sốt xuất huyết có thể truyền sự lây nhiễm qua muỗi Aedes sau khi các triệu
chứng đầu tiên xuất hiện (trong vòng 4 - 5 ngày, tối đa là 12 ngày).

Hình 1.4. Khả năng lan truyền vi rút Dengue của muỗi Aedes aegypti
1.2.3. Yếu tố thời tiết/mùa
Đặc trưng của yếu tố thời tiết/mùa liên quan đến SXH chính là lượng
mưa và nhiệt độ.
- Lượng mưa : Bằng sự phân tích khí tượng và các dữ liệu giám sát dịch
tễ và côn trùng, tác giả Elodie Descloux đã nghiên cứu sự ảnh hưởng của khí
hậu đối với bệnh SXHD ở Noumea, thủ đô của New Caledonia, trong giai
đoạn 1971 - 2010. Kết quả cho thấy đỉnh dịch ở vào tháng có nhiệt độ nóng


14

nhất trong 1 đến 2 tháng với lượng mưa và độ ẩm tương đối ở mức tối đa. Sự
phát triển theo mùa của các chỉ số côn trùng phù hợp với mùa vụ của dịch sốt
xuất huyết. Có mối tương quan thuận giữa nhiệt độ, độ ẩm và lượng mưa với
tỷ lệ mắc SXHD . Theo kết quả nghiên cứu của Díaz Quijano và Waldman

cho thấy lượng mưa có liên quan chặt chẽ với tỉ lệ tử vong do sốt xuất huyết ở
Mỹ Latinh và các nước khu vực Caribbean . Theo nghiên cứu của Nguyễn Thi
Văn Văn (Đồng Nai) có mối tương quan mạnh giữa lượng mưa và số ca mắc
(r = 0,897), giữa nhiệt độ với chỉ số nhà có bọ gậy và dụng cụ chứa nước có
bọ gậy (0,7 < r < 0,9) . Điều này thể hiện tính phân bố theo mùa của SXHD
trên thế giới cũng như tại Việt Nam.
- Nhiệt độ: Nghiên cứu của tác giả Tsuzuki và cộng sự năm 2009 tại
thành phố Nha Trang tỉnh Khánh Hòa trong giai đoạn từ năm 2004 - 2006 đã
chỉ ra rằng sau khoảng 2 tháng khi nhiệt độ tăng cao thì số ca bệnh bắt đầu
tăng và khi nhiệt độ giảm thì số ca mắc vẫn cịn duy trì ở mức cao sau 1 đến 2
tháng nữa rồi mới giảm .
Như vậy khi lượng mưa và nhiệt độ môi trường gia tăng là điều kiện hết
sức lý tưởng, phù hợp cho sự sinh sôi và phát triển của véc tơ truyền bệnh
SXH . Các thống kê khoa học cho thấy, sự xuất hiện dịch sốt xuất huyết có
tính chất chu kỳ cứ 3 đến 5 năm lại xảy ra một trận dịch. Tại Việt Nam, cao
điểm của dịch sốt xuất huyết là vào mùa mưa, bởi đây là thời điểm độ ẩm tăng
cao, và dịch cũng liên quan từng thời điểm và từng vùng miền, thơng thường
có 2 đỉnh dịch đáng lưu ý là tháng 4 - 5 và tháng 9 - 10 ở cả 3 miền Bắc,
Trung, Nam , .
1.2.4. Yếu tố di cư
Sự di cư đóng vai trị quan trọng trong sự xuất hiện của bệnh dịch
SXHD. Phần lớn thế kỷ 20, mặc dù châu Âu khơng có sự xuất hiện của bệnh


15

sốt xuất huyết nhưng việc xuất hiện của dịch bệnh SXHD trên tồn cầu đã
khiến cho Châu Âu khơng tránh khỏi sự tác động , .
Tại Việt Nam, trước đây SXHD chủ yếu tập trung trong quần thể dân cư
đô thị và ven đơ thị, nơi có mật độ dân số cao tạo điều kiện thuận lợi cho việc

lưu hành véc tơ. Tuy nhiên một nghiên cứu tại Bạc Liêu cho thấy SXHD
không chỉ lưu hành ở thành thị và ven thành thị mà còn xuất hiện nhiều ở các
khu vực nơng thơn và có xu hướng tăng cao trong khu vực này . Ở Bình
Phước, Thành phố Hồ Chí Minh…các cộng đồng dân cư biến động, người
dân từ các địa phương khác đến làm công nhân ở các khu cơng nghiệp, ở các
nhà trọ ẩm thấp có nhiều dụng cụ chứa nước sinh hoạt, vệ sinh môi trường
nhà ở kém…khiến cho nguy cơ dịch SXH bùng phát .
1.2.5. Yếu tố theo tuổi, giới
Theo WHO, tất cả mọi người, mọi lứa tuổi nếu chưa có miễn dịch với vi
rút Dengue đều có thể bị nhiễm vi rút Dengue và mắc bệnh, cả nam và nữ đều
có nguy cơ mắc bệnh như nhau . Tuy nhiên, ở vùng bệnh lưu hành nặng như
miền Nam và Nam Trung Bộ nước ta tỷ lệ mắc bệnh của trẻ em dưới 15 tuổi
thường cao hơn, còn ở các vùng khác khả năng mắc bệnh của trẻ em và người
lớn là như nhau. Khoảng 90% số ca tử vong do sốt xuất huyết ở Việt Nam là ở
nhóm tuổi dưới 15 . Trong nghiên cứu của Đặng Kim Hạnh cả người lớn và
trẻ em đều mắc sốt Dengue/SXHD nhưng chủ yếu là độ tuổi > 15 chiếm
86,7% . Tuy nhiên trong một số nghiên cứu khác có đến 67,8% ca bệnh
SXHD ≤ 15 tuổi được ghi nhận . Một số nghiên cứu trên thế giới cho thấy tỷ
lệ mắc bệnh và tử vong do SXHD chủ yếu ở lứa tuổi < 15, và tỷ lệ tử vong
gặp chủ yếu ở trẻ nhỏ .
Như vậy với các kết quả nghiên cứu khác nhau cho thấy không có giới
hạn cho độ tuổi, giới tính mắc bệnh SXH với nguy cơ mắc bệnh cho các độ
tuổi là như nhau.


16

1.2.6. Một số yếu tố liên quan đến sự xuất hiện của muỗi, bọ gậy
Muỗi trưởng thành thường đẻ trứng ở bất kỳ dụng cụ chứa nước (DCCN)
nào có thể tích trữ nước đến 7 ngày đều có thể là nơi sinh sản của muỗi truyền

bệnh sốt xuất huyết. Những dụng cụ chứa nước như: chum vại, bể, chai lọ, vỏ
dừa, lốp ô tô cũ, phuy chứa nước, dụng cụ chứa nước bằng nhựa, bát kê chân
tủ đựng thức ăn trong bếp, bể chứa nước trong nhà tắm, bể chứa nước khơng
có nắp đậy, giếng nước cạn, khay nước của tủ lạnh, điều hòa nhiệt độ, lọ hoa
ở trong nhà, dụng cụ chứa nước quanh nhà những nơi râm mát . Các nghiên
cứu đều chỉ ra rằng có mối liên quan giữa mật độ muỗi, bọ gậy với tỷ lệ
SXHD. Trong nghiên cứu của Lê Đăng Ngạn, có tương quan thuận và chặt
giữa các chỉ số mật độ muỗi, chỉ số nhà có bọ gậy, chỉ số Breteau, và số mắc
SXHD (hệ số tương quan r từ 0,76 - 0,89) .
Như vậy nếu môi trường sống nhiều kênh rạch, ao tù, sơng ngịi sẽ là
điều kiện rất thuận lợi cho sự xuất hiện của muỗi và bọ gậy. Ngoài ra vấn đề
vệ sinh môi trường quanh khu vực nhà ở, thói quen tích trữ nước trong các
dụng cụ chứa nước của người dân cũng sẽ tạo điều kiện cho sự xuất hiện và
gia tăng của bệnh dịch SXH.
1.2.7. Yếu tố kiến thức, thái độ, thực hành của người dân về phòng chống
sốt xuất huyết Dengue
Kiến thức, thái độ, thực hành của người dân là yếu tố quan trọng đối với
sự xuất hiện và gia tăng của dịch bệnh SXHD. Tại Việt Nam, vấn đề TTGDSK
tới người dân được thực hiện thông qua hệ thống cộng tác viên tới thăm hỏi
định kỳ từng hộ gia đình, qua loa đài, ti vi và hệ thống báo chí, áp phích, băng
rơn, khẩu hiệu, tờ rơi...Tuy nhiên kết quả nghiên cứu của các tác giả cho thấy
kiến thức của người dân còn thấp, 74,2% số người được hỏi có kiến thức kém,
điểm kiến thức về bệnh SXHD trung bình đạt 34,1% so với điểm mong đợi.
Tương tự điểm thực hành của người dân cũng rất thấp, 89,3% số người có mức


17

thực hành kém, điểm thực hành trung bình chỉ đạt 19,1% so với điểm mong đợi
. Qua đánh giá tác động can thiệp bằng TTGDSK, tác giả Nguyễn Văn Tới đưa

ra kết luận người dân đã có sự thay đổi đáng kể về kiến thức, thực hành trong
cơng tác phịng chống SXH. Điều đó góp phần làm giảm số ca mắc SXH . Tuy
nhiên hiệu quả của công tác TTGDSK làm thay đổi hành vi, ý thức người dân
tự phòng chống bệnh SXH cho gia đình cho trong cộng đồng họ sinh sống chưa
đạt được kết quả kỳ vọng như tác giả Đỗ Kiến Quốc và cộng sự đã khẳng định .
1.3. Một số biện pháp can thiệp phòng chống bệnh sốt xuất huyết Dengue
Các biện pháp can thiệp trong phòng chống bệnh SXHD bao gồm các
biện pháp khi chưa có dịch, bệnh và khi có dịch, bệnh. Khi chưa có dịch bệnh
thì việc kiểm sốt véc tơ truyền bệnh vẫn là biện pháp dự phịng chính . Theo
Lê Đăng Ngạn cần thiết phải duy trì hoạt động giám sát véc tơ Aedes định kỳ
tại các điểm cố định để theo dõi và dự báo dịch SXHD . Nghiên cứu của
Nguyễn Lâm cũng cho thấy kiểm sốt véc tơ phịng chống SXHD trong
trường học đã cho thấy hiệu quả trong việc làm giảm chỉ số nhà có muỗi và
chỉ số nhà có bọ gậy dưới mức dự báo nguy cơ xảy ra dịch .
1.3.1. Biện pháp thay đổi sinh thái, môi trường sống của muỗi
Biện pháp này làm thay đổi mơi trường, tập tính của muỗi truyền bệnh,
làm giảm tiếp xúc người - muỗi truyền bệnh. Đây là biện pháp dựa trên cơ sở
tồn tại các tác nhân thiên địch như: sinh vật ăn mồi, côn trùng sống cạnh
tranh, hoặc những tác nhân gây bệnh tham gia vào việc điều tiết quần thể.
Đây là biện pháp giúp phòng ngừa sự hình thành của véc tơ gây bệnh
bằng cách thay đổi môi trường sống bằng cách loại bỏ các nơi sinh sản của
muỗi, thu gom đồ vật phế thải loại bỏ ổ lăng quăng như: lốp xe, vỏ dừa, các
hộp, chai lọ, mẻ sành, bình hoa, chân chén tủ... nạo vét cống rãnh, vũng nước,
phát quang bụi rậm xung quanh nhà ở, sử dụng bồn chứa nước sinh hoạt kín.
Các DCCN được coi là vô dụng hoặc không cần thiết (các lốp phế thải, các đồ


18

phế thải gia đình…), cần thiết phải thải hoặc loại bỏ các DCCN này. Những

nơi tự nhiên tích tụ nước (hốc cây, bẹ lá, hốc tre…) có thể loại bỏ hoặc biến
đổi hình thái để loại bỏ nơi sinh sản của muỗi. Súc rửa thường xuyên DCCN,
đậy nắp kín các DCCN khi không sử dụng, dùng vải hoặc lưới để phủ các
DCCN mưa. Dùng lưới chắn muỗi ở cửa ra vào và cửa sổ, ngủ màn, mặc áo
dài tay, dùng vỉ diệt muỗi, dùng đèn bẫy muỗi, vợt điện...
Để thực hiện được biện pháp này cần phải dựa vào cộng đồng. Tại Thái
Lan nghiên cứu “Sinh thái sức khỏe và phòng chống SXHD” được thực hiện
trong năm 2010, nhằm mục đích để chứng minh một ứng dụng của chiến lược
dựa vào cộng đồng, tích hợp sinh thái sinh học xã hội học kết hợp với các
cơng cụ kiểm sốt véc tơ sinh thái thân thiện môi trường, sản xuất trong nước
nhằm kiểm soát bệnh sốt xuất huyết, đặc biệt tại các vùng đô thị và ven đô ở
miền đông Thái Lan. Kết quả cho thấy chương trình kiểm sốt véc tơ sốt xuất
huyết dựa vào cộng đồng đã làm giảm đáng kể chỉ số véc tơ/người qua các
cuộc điều tra côn trùng đã được tiến hành trong khoảng thời gian nghiên cứu
tại các cụm can thiệp và cũng nâng cao nhận thức sự tham gia liên ngành và
hộ gia đình trong hoạt động phòng chống bệnh sốt xuất huyết . Ngoài ra một
số nghiên cứu khác tại Ấn Độ “kết hợp các yếu tố sinh thái sinh học - xã hội”
của bệnh sốt xuất huyết cho thấy sự cần thiết, có sự tham gia cộng đồng và
của liên ngành với các hoạt động phòng chống bệnh sốt xuất huyết ở Chennai
được thực hiện giai đoạn 2008 - 2011. Các yếu tố sinh thái bao gồm các yếu
tố khí hậu (lượng mưa, độ ẩm, nhiệt độ, v.v…) và các cấu phần của hệ sinh
thái tự nhiên và nhân tạo. “Yếu tố Sinh học” liên quan đến tập tính của các
véc tơ Ae. aegypti, và đặc tính của tác nhân gây bệnh. Yếu tố xã hội liên quan
đến hệ thống y tế, bao gồm cả kiểm soát véc tơ và dịch vụ y tế và với các dịch
vụ công cộng và tư nhân như vệ sinh môi trường và xử lý nước thải, thu gom


19

rác thải và cung cấp nước; và các sự kiện như nhân khẩu học cũng như đơ thị

hóa; kiến thức, thái độ và thực hành theo hộ gia đình .
Tại Việt Nam mơ hình sinh thái - xã hội phịng chống sốt xuất huyết
Dengue được thực hiện thí điểm tại đảo Cát Bà, Hải Phòng với kỳ vọng là sử
dụng chiến lược “Sinh thái y tế” để xây dựng và thực hiện mơ hình giám sát
và phịng chống chủ động SXHD cũng đã cho kết quả khả quan .
1.3.2. Biện pháp sinh học
Tác nhân gây bệnh cho côn trùng muỗi được chứng minh từ năm 1602
bằng sự phát minh ra nội ký sinh ở Pieris rapae, đã được tìm thấy và chia
thành các nhóm: nguyên sinh động vật, vi rút và vi khuẩn.
- Nấm: ký sinh chủ yếu ở muỗi thuộc giống Coelomyces, các lồi nấm này
có chu kỳ sinh học rất phức tạp, địi hỏi phải có mặt một số loài giáp xác
Crustacae (Ostracode hoặc Copepode), hơn nữa dạng lan truyền ở muỗi, cũng
như việc nghiên cứu đánh giá hoạt động của chúng cịn gặp nhiều khó khăn.
- Giun trịn: Simuli đều thuộc họ Mermithidae, trong đó có 3 loài là đối
tượng hay được sử dụng, quen thuộc nhất là Romanomermis culieivorax.
- Nguyên sinh động vật: thuộc lớp Microsporidae, Ở Pháp L'ORSTOM Bondy, đã thí nghiệm trứng của An. Stephensi được rửa với dung dịch formol
0,01 trước khi cho nở nhằm loại bỏ các tiểu bào tử có trong tự nhiên, vì chúng
sẽ làm gia tăng tỷ lệ chết của bọ gậy muỗi.
- Vi rút: Sử dụng vi rút phòng trừ véc tơ. Khoảng 600 vi rút đã được
phân lập từ côn trùng gây hại cây trồng, nhưng chỉ có vài chục loại vi rút ở
các véc tơ truyền bệnh.
- Vi khuẩn: Hai loài được sử dụng nhiều nhất trong phòng chống véc tơ
là Bacillus thuringiensis và Bacillus sphaericus. Bacillus thuringiẹnsis có rất
nhiều dạng, trong đó Bacillus thuringiensis và Bacillus israelensis tỏ ra có
hiệu quả nhất. Độc tính của 2 loài này là do các bào từ vi khuẩn tạo ra 1 hoặc


20

nhiều protein độc phá hủy tế bào, thối hóa mơ biểu mơ, sự biến đổi tính thấm

của màng tế bào cũng như sự biến tính tế bào hệ thống thần kinh, cấu trúc, và
cuối cùng bọ gậy chết. Mặc dù khơng được sử dụng nhiều ở khu vực Tây Thái
Bình Dương, tác nhân này đã được sử dụng trong nước uống và chưa xuất
hiện một dấu hiệu có hại cho sức khỏe nào.
Ngoài ra giải pháp diệt bọ gậy cũng là một giải pháp hạn chế sự hình
thành của muỗi trưởng thành, từ đó giúp kiểm sốt dịch bệnh sốt xuất huyết có
hiệu quả. Việc bọ gậy của giống muỗi Toxorhynchites có khả năng ăn bọ gậy
của các lồi muỗi khác rất tốt, con trưởng thành của Toxorhynchites có kích
thước lớn (gấp 5 lần muỗi Aedes aegypti) nhưng không hút máu người. Hoặc
loại cá ăn bọ gậy (đứng đầu là cá tuế thuộc họ cá chép, cá bảy màu, cá lia
thia…) có thể được sử dụng như phương tiện bổ trợ phòng chống bọ gậy của
Aedes trong các DCCN lớn và thường xuyên tích trữ nước , . Các tác giả nhận
thấy tất cả các loại cá địa phương như: cá vàng, hắc mơ nì, cá chọi, săn sắt, rơ
phi, cá sóc, chép lai... đều có thể sử dụng diệt bọ gậy Aedes aegypti.
Ngồi ra Mesocyclops là lồi lồi tơm bậc thấp, chúng là một trong
những tác nhân sinh học ứng dụng có hiệu quả tốt trong q trình tiêu diệt
trung gian truyền bệnh SXH ở giai đoạn bọ gậy muỗi.... Lindberg (1936) và
Hurlbut (1938), Kay (1992) là những tác giả đầu tiên nhận thấy một số
Cyclopoid copepods có khả năng ăn bọ gậy muỗi. 20 năm sau, tại Hawaii,
Bonnet và Mukaida Kay (1992) đã thả một cách ngẫu nhiên Mesocyclops
obsoletus vào ổ Aedes albopictus và nhận thấy một copepod có thể ăn 15 - 20
bọ gậy tuổi 1 và 2 trong 1 ngày. Đây là những ngòi nổ đầu tiên cho sự nghiên
cứu áp dụng các lồi Mesocyclops phịng chống véc tơ SXHD.


21

Hình 1.5. Giáp xác Mesocyclops đang ăn bọ gậy muỗi truyền bệnh
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học thì khả năng ăn bọ gậy của các
loài Mesocyclops là rất tốt, phù hợp với điều kiện Việt Nam. Tuy nhiên để duy

trì được thì cần có sự tham gia của cộng đồng với năng lực quản lý phải tốt thì
mới duy trì được giải pháp này , , .
Việc sử dụng loài giáp xác Mesocyclops để diệt bọ gậy muỗi truyền bệnh
SXH đã được nghiên cứu và ứng dụng ở nước ta tại một số tỉnh thành miền
Bắc từ năm 1993, sau đó triển khai thực hiện ở miền Trung và miền Nam . Tại
Việt Nam, các nhà khoa học qua điều tra khảo sát ở 26 tỉnh thành đã thu thập
được loài giáp xác Mesocyclops hiện diện trong những thủy vực; trong đó xác
định có 9 lồi có khả năng ăn bọ gậy muỗi truyền bệnh SXH Aedes aegypti
gồm: Mesocyclops woutersi, Mesocyclops aspericornis, Mesocyclops affinis,
Mesocyclops

ogunnus,

Mesocyclops

ruttneri,

Mesocyclops

yenae,

Mesocyclops thermocyclopoides, Mesocyclops disimilis và Mesocyclops
pehpeiensis. Một nghiên cứu ghi nhận trong điều kiện bình thường của phịng
thí nghiệm, giáp xác Mesocyclops có thể ăn 9 con bọ gậy muỗi ở nhóm tuổi I
nhưng điều quan trọng ở đây là chúng có thể cắn chết thêm 23 con bọ gậy
muỗi nữa sau khi đã ăn no nên đã có khả năng tiêu diệt bọ gậy muỗi truyền
bệnh SXH khá hiệu quả , .
Ngồi ra có thể sử dụng chuồn chuồn ngoài đồng ruộng, các ấu trùng
chuồn chuồn trong nước ăn bọ gậy, còn chuồn chuồn trưởng thành bắt muỗi



22

trong khơng trung. Ni bị sát nhỏ như thạch sùng, thằn lằn để ăn muỗi trong
nhà. Bảo vệ dơi bắt muỗi. Dùng các côn trùng thủy sinh thuộc họ Corixidae
(Micronecta) để diệt bọ gậy.
Đối với biện pháp sinh học, hạn chế của việc ứng dụng giải pháp này
trong can thiệp chính là năng lực quản lý, tổ chức khi triển khai, ngồi ra cần
phải dựa vào cộng đồng thì mới có thể thực hiện được. Vấn đề kinh phí cũng
là một trong những yếu tố cần phải xem xét.
1.3.3. Biện pháp hóa học
Nhờ tiến bộ khoa học kỹ thuật, người ta biết được cơ chế tác động của
các chất hóa học, phân tích được các thành phần và tổng hợp được các phân
tử tương tự. Hóa chất diệt muỗi, lăng quăng bao gồm các chất diệt côn trung
như: temephos (Abate) và tác động lên sự tăng trưởng của côn trùng (IGRs)
như methoprene (Altosid, tạo chất tương tự hc mơn juvenile) đã cho thấy
hiệu quả chống muỗi Aedes sinh sản trong DCCN sạch...
Đối với muỗi trưởng thành có thể sử dụng hóa chất diệt cơn trùng phun
dưới dạng thể tích hạt cực nhỏ, tẩm rèm, tẩm màn; phun khói nóng; dùng
hương trừ muỗi, bình xịt muỗi, các thuốc xua muỗi. Ảnh hưởng mơi trường
của các hóa chất diệt bọ gậy là rất nhỏ nếu nó được sử dụng đúng cách .
Hiện nay, trên thế giới có một chiến lược mới phịng trừ cơn trùng truyền
bệnh bằng các chất điều hịa sinh trường (IGR: lnsect Growth Regulators) có
thể coi như một dạng hóa chất diệt cơn trùng dựa trên cơ sở tác động của các
hormone tham gia điều hòa sự phát triển của cơn trùng. Chúng ít độc đối với
động vật có vú nhưng rất độc đối với cơn trùng, vì thế liều sử dụng rất thấp
nhưng hiệu quả cao. Chế phẩm được sự dụng rộng rãi hiện nay là
Diflubenzuron, Triflumuron, Teflubenzuron, Lufenuron, Cyromazin .
Việc sử dụng hóa chất thường xun địi hỏi phải theo dõi và đánh giá
tính nhạy cảm của cơn trùng đối với các loại hóa chất đang sử dụng nhằm



23

đảm bảo việc diệt cơn trùng có hiệu quả, tránh hiện tượng đề kháng với thuốc
Nguyễn Thị Mỹ Tiên và cộng sự đã đánh giá tính nhạy cảm của muỗi Aedes
aegypti đối với các hóa chất diệt cơn trùng tại 19 tỉnh thành phía Nam Việt
Nam năm 2009 - 2010 với 7 loại hóa chất. Kết quả cho thấy sự đề kháng của
loài muỗi này thể hiện khác nhau ở từng địa phương. Mặc dù kết quả cho thấy
muỗi Aedes aegypti đã kháng với nhóm pyrethroid nhưng nồng độ giấy thử
rất thấp so với nồng độ đang được sử dụng phun khơng gian. Do đó tác giả
khuyến nghị cần thực hiện thêm các thử nghiệm hiệu lực diệt sinh học tại thực
địa để xác định hóa chất nào cịn sử dụng được và sử dụng ở nồng độ bao
nhiêu thì hiệu quả mà không ảnh hưởng tới con người và môi trường .
Như vậy ở những địa phương thường xuyên bùng phát sốt xuất huyết với
khả năng phát triển thành dịch bệnh, đặc biệt ở các tỉnh phía Nam, ngồi
những biện pháp diệt ấu trùng gồm bọ gậy và loăng quăng muỗi truyền bệnh
thường được sử dụng, nếu có điều kiện có thể xem xét áp dụng biện pháp xử
lý các điểm sinh sản của muỗi trong khu vực bằng bánh hóa chất hoặc hạt hóa
chất methoprene vì chúng có tác dụng hiệu quả, an toàn và khả năng tồn lưu
diệt ấu trùng muỗi lâu dài trong những tháng mùa bệnh. Tuy nhiên hạn chế
của biện pháp này chính là việc sử dụng phải đúng cách để tránh sự kháng
thuốc của côn trùng cũng như gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người và mơi
trường sống. Ngồi ra chi phí cho việc sử dụng hóa chất là khá tốn kém.
1.3.4. Biện pháp dùng vắc xin
Vắc xin phòng ngừa bệnh sốt xuất huyết Dengue đầu tiên có tên là
Dengvaxia do hãng dược phẩm Sanofi Pasteur nghiên cứu ở các quốc gia có
lưu hành dịch bệnh, chủ yếu ở hai khu vực châu Mỹ La-tinh và là Đông Nam
Á. Việc sử dụng vắc xin được chứng minh là giúp làm giảm số ca mắc, số
trường hợp vào viện cũng như làm giảm tỷ lệ bệnh SXH Dengue thể nặng .



24

Tang Yun Xia và cộng sự từ Trung Quốc đã nghiên cứu mơ hình thử
nghiệm vắc xin để chống lại sự nhiễm 4 típ huyết thanh của vi rút Dengue.
Bằng cách dùng P. pastoris để tạo nên các tiểu thể giống vi rút Dengue mang
lại một chiến lược hứa hẹn và kinh tế đối với việc phát triển phòng chống
bệnh SXH .
Tại Việt Nam, nghiên cứu do Viện Pasteur, thành phố Hồ Chí Minh triển
khai từ năm 2011 tại Long Xuyên và Mỹ Tho với 2336 trẻ đã tham gia nghiên
cứu. Sau khi được tiêm 3 mũi vắc xin, các đối tượng tham gia thử nghiệm
được theo dõi thêm 13 tháng để đánh giá hiệu quả. Kết quả cho thấy vắc xin
sốt xuất huyết Dengue đã giúp ngừa được 56,5% ca sốt xuất huyết có triệu
chứng (gây ra do bất kỳ týp vi rút Dengue nào). Không chỉ thế, vắc xin còn
làm giảm được 88,5% ca sốt xuất huyết thể nặng và làm giảm 67% nguy cơ
nhập viện do sốt xuất huyết . Với kết quả này, khả năng vắc xin phòng dịch
sốt xuất huyết ra đời đã ở trong tầm tay.
1.3.5. Biện pháp di truyền
Chiến lược dựa vào biến đổi gen tạo ra những dịng muỗi kháng hoặc
khơng có khả năng truyền Dengue và thay thế quần thể tự nhiên bằng những
dịng này (khơng là véc tơ truyền bệnh). Wolbachia sống nội cộng sinh
(endosymbiotic) trong quần thể véc tơ hoang dại, những vi khuẩn này có khả
năng làm ngắn tuổi thọ của muỗt trưởng thành một cách đáng kể. Vi rút
Dengue cần giai đoạn ủ bên ngoài khoảng 12 - 14 ngày trong cơ thể véc tơ
trước khi truyền cho người. Chủng Wolbachia có thể làm ngắn đời sống của
cơn trùng kí chủ khoảng 1/2 giai đoạn này , .



×