Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Biện pháp phát triển văn hóa doanh nghiệp tại công ty cổ phần hoàng tống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.57 KB, 81 trang )

Khoá luận tốt nghiệp

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

DN

: Doanh nghiệp

KH

: Khách hàng

CB_CNV

: Cán bộ công nhân viên

VHDN

: Văn hóa doanh nghiệp

PR

: Public Relations

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn

XH

: Xã hội



KH

: Khách hàng

NV

: Nhân viên



: Lao động

SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2


Khoá luận tốt nghiệp

DANH SÁCH CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Bảng thống kê máy móc thiết bị chính.................................................
Bảng 2.2 Cơ cấu nhân sự......................................................................................
Bảng 2.2: Bảng cân đối kế toán 2010-2011..........................................................
Bảng 2.3: Bảng báo cáo hoạt động kinh doanh của công ty Hoàng Tống năm
2010-2011............................................................................................................

SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2


Khoá luận tốt nghiệp


DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1.1: Bốn nhóm nhân tố cấu thành văn hóa doanh nghiệp............................
Hình 2.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần Hoàng Tống.......................

SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2


Khoá luận tốt nghiệp

1

MỞ ĐẦU

Văn hóa doanh nghiệp là vấn đề đang được bàn luận sôi nổi của các chuyên
gia kinh tế và những nhà kinh doanh hiện nay. Nó được xem là một loại tài sản vô
hình của doanh nghiệp và có tầm quan trọng lớn đối với không chỉ công ty mà đối
với cả nền kinh tế nói chung.
Vậy có nên đặt vấn đề xây dựng và phát triển một môi trường văn hoá riêng
gọi là văn hoá doanh nghiệp hay không? Biện pháp xây dựng và phát triển văn hoá
doanh nghiệp đó như thế nào? Làm thế nào để hiểu rõ và nhận thức được một cách
sâu sắc về văn hóa của doanh nghiệp?
Nhìn chung phần lớn các doanh nghiệp trẻ của nước ta, đặc biệt là doanh
nghiệp tư nhân, chưa chú ý tới việc xây dựng và phát triển một nền văn hoá đặc thù
cho doanh nghiệp của mình và quan trọng hơn hết đó là nhận thức về văn hóa doanh
nghiệp của con người thì chưa thực sự phát triển.
Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đã bước vào sân chơi thương mại toàn
cầu. Thời cơ có nhiều, nhưng thách thức cũng rất lớn. Đó là nguy cơ tụt hậu, hiệu
quả kinh tế và sức cạnh tranh thấp, sự tụt hậu về trình độ văn hoá, năng lực chuyên
môn, nghề nghiệp của người lao động… dẫn đến sự suy yếu của sản phẩm dịch vụ,
yếu kém của sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của hàng hoá. Để đẩy lùi nguy

cơ tụt hậu, không ít doanh nghiệp chỉ nghĩ đến việc mua sắm, thay đổi công nghệ,
mà không quan tâm đến bồi dưỡng các phẩm chất văn hoá cho các thành viên trong
công ty, nên cán bộ lãnh đạo vẫn quản lý tồi, công nhân lại không phát huy được
công suất, hiệu quả của công nghệ mới…Thậm chí, có những doanh nghiệp máy
móc nhập về vài năm mà vẫn không vận hành được. Đáng chú ý là hàm lượng văn
hoá thấp trong quan hệ giữa chủ doanh nghiệp và công nhân, giữa công nhân với
công nhân, giữa doanh nghiệp với khách hàng và doanh nghiệp với xã hội đã cản
trở rất nhiều đến sự bền vững của các doanh nghiệp.

SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2


Khoá luận tốt nghiệp

2

Khi mà cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt, sản phẩm kinh doanh trở nên
bão hòa thì yếu tố quan trọng và quyết định để khách hàng lựa chọn sẽ và nên sử
dụng sản phẩm nào và của công ty nào đó chính là văn hóa doanh nghiệp - tài sản
vô hình - sức mạnh và ưu thế cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp. Văn hóa doanh
nghiệp ngày càng chứng tỏ tầm quan trọng của mình trong cạnh tranh và phát triển
những lợi thế khác biệt đối với đối thủ. Và đặc biệt trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN với rất nhiều các quan hệ kinh tế đan xen nhau bên cạnh mặt tích
cực, đã xuất hiện nhiều mặt tiêu cực làm nảy sinh các hành vi kinh doanh thiếu đạo
đức – phi văn hoá, chạy theo lợi nhuận ảnh hưởng đến văn hoá kinh doanh, đến các
giá trị kinh doanh nền tảng của nền kinh tế thị trường – làm cho các giá trị đó bị đảo
lộn, đe doạ sự bất ổn cho hoạt động kinh tế.
Ngành xây dựng công trình dân dụng, sản xuất lắp đặt các loại kính, cửa nhựa
cao cấp, trang trí nội, ngoại thất, là những ngành đang có sự cạnh tranh rất lớn trên
phạm vi nước ta nói chung, ở địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng. Công ty cổ

phần Hoàng Tống cũng không thể tránh khỏi sự cạnh tranh gay gắt đó.
Công ty Cổ Phần Hoàng Tống là một điển hình trong việc xây dựng và phát
triển cho mình một lợi thế riêng về văn hóa. Công ty đã có một số chuẩn mực về
văn hóa tương đối đầy đủ với những quy tắc ứng xử, làm việc trong doanh nghiệp.
Tuy nhiên, việc thực hiện, phát triển và làm việc theo những tiêu chí văn hóa đó của
đội ngũ cán bộ nhân viên vẫn còn lơ là và chưa được chú trọng.
Nhận thấy được những vấn đề còn tồn tại trên, nhận thức được tầm quan trọng
của văn hóa doanh nghiệp trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm và khả năng
cạnh tranh của mỗi công ty, người nghiên cứu đã lựa chọn đề tài “Biện pháp phát
triển Văn hóa Doanh nghiệp”
Tuy nhiên, văn hoá doanh nghiệp là một phạm trù rộng lớn có nhiều mối quan
hệ tác động qua lại hết sức đa dạng và phức tạp đòi hỏi phải được tiếp tục đi sâu
nghiên cứu, thảo luận trong thời gian tới. Cho nên đề tài của em có thể có nhiều hạn

SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2


Khoá luận tốt nghiệp

3

chế nhất định. Em mong nhận được những ý kiến đóng góp xây dựng quý báu của
các thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!

SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2


Khoá luận tốt nghiệp


4

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA DOANH NGHIỆP

1.1. Khái quát về Doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm
Về góc độ pháp lý, theo Khoản 1 Điều 4 Luật doanh nghiệp ban hành ngày 29
tháng 11 năm 2005 của Việt Nam, khái niệm về doanh nghiệp như sau: "Doanh
nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được
đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện ổn định
các hoạt động kinh doanh". Trên thực tế doanh nghiệp được gọi bằng nhiều thuật
ngữ khác nhau: cửa hàng, nhà máy, xí nghiệp, hãng,...
Theo quan điểm của viện thống kê và nghiên cứu kinh tế của Pháp “ Doanh
nghiệp là một tổ chức kinh tế mà chức năng chính của nó là sản xuất ra của cải vật
chất và dịch vụ để bán”
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và thông tin, các hình
thức tổ chức doanh nghiệp ngày càng đa dạng, các loại sở hữu doanh nghiệp ngày
càng phong phú.
Do đó nếu đứng trên các quan điểm khác nhau thì có các định nghĩa khác nhau
về doanh nghiệp.
Theo quan điểm của nhà tổ chức: Doanh nghiệp là tổng thể các phương tiện,
máy móc, thiết bị và con người được tổ chức lại nhằm đạt được một mục đích. Mục
đích được đề cập ở đây là làm lợi vốn đầu tư, làm lợi cho công nhân viên và đảm
bảo sự phát triển trong tương lai.
Theo quan điểm lợi nhuận: Doanh nghiệp là một tổ chức sản xuất, thông qua
đó, trong khuôn khổ một số tài sản nhất định người ta kết hợp nhiều yếu tố sản xuất
khác nhau nhằm tạo ra sản phẩm và dịch vụ để bán trên thị trường nhằm thu về một
khoản chênh lệch giữa giá thành và giá bán sản phẩm.

SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2



Khoá luận tốt nghiệp

5

Theo quan điểm chức năng: Doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất kinh doanh
nhằm thực hiện một, hoặc một số, hoặc tất cả các công đoạn trong quá trình đầu tư từ
sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, hoặc thực hiện các nhiệm vụ nhằm mục đích sinh lãi.
Theo quan điểm lý thuyết hệ thống: Doanh nghiệp là một bộ phận hợp thành
trong hệ thống kinh tế, mỗi đơn vị trong hệ thống đó phải chịu sức tác động tương
hỗ lẫn nhau, phải tuân thủ những điều kiện hoạt động mà nhà nước đặt ra cho hệ
thống kinh tế đó nhằm phục vụ cho mục đích tiêu dùng của xã hội.
Mỗi định nghĩa nêu trên đều được phát biểu dựa trên các quan điểm khác
nhau, nếu tổng hợp các định nghĩa của các quan điểm khác nhau đó sẽ có khái niệm
toàn diện hơn về doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất kinh doanh được tổ chức nhằm tạo ra
sản phẩm hoặc dịch vụ đáp ứng yêu cầu tiêu dùng trên thị trường, thông qua đó để
tối đa hóa lợi nhuận, trên cơ sở tôn trọng pháp luật nhà nước và quyền lợi chính
đáng của người tiêu dùng.
Nhìn chung doanh nghiệp đều có những đặc điểm:
- Là một tổ chức kinh tế thực hiện chức năng kinh doanh
- Là một sự kết hợp giữa các nhân tố đầu vào như vốn và lao động để tạo ra
các sản phẩm dịch vụ và tiêu thụ trên thị trường
- Là một chủ thể doanh nghiệp có quy mô đủ lớn
- Là một tổ chức sống theo nghĩa luôn luôn vận động
1.1.2. Phân loại doanh nghiệp
1.1.2.1. Căn cứ vào hình thức sở hữu
Căn cứ vào chủ sở hữu phần vốn thành lập nên doanh nghiệp là một trong
những tiêu chí quan trọng nhất để quyết định về cấu trúc tổ chức và quản lý của

doanh nghiệp. Tiêu chí này phân ra những loại doanh nghiệp sau:

SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2


Khoá luận tốt nghiệp

6

 Doanh nghiệp nhà nước: là doanh nghiệp mà nhà nước sở hữu trên 50% vốn
điều lệ. Doanh nghiệp nhà nước hiện nắm giữ 75% tài sản cố định quốc gia, 20%
vốn đầu tư xã hội, gần 50% vốn đầu tư của nhà nước, 60% tín dụng ngân hàng trong
nước, hơn 70% vốn vay nước ngoài, được hưởng nhiều ưu đãi nhưng kinh doanh
kém hiệu quả, chỉ đóng góp 50% thu ngân sách, trong đó thuế thu nhập chỉ có 9%.
Đây là khu vực cơ chế quản lý kém hiệu quả nhất, có nhiều tiêu cực lãng phí.
 Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: là một tổ chức kinh tế do cá nhân
hay pháp nhân nước ngoài thành lập tại Việt Nam, có vốn đầu tư nước ngoài toàn bộ
hay một phần và hoạt động kinh doanh theo pháp luật Việt Nam. Nói cách khác đó
là những doanh nghiệp mà nguồn vốn của doanh nghiệp được hình thành từ toàn bộ
hay một phần vốn của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Hiện doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có hơn 5.300 dự án có hiệu lực
đang hoạt động, chiếm 15,7% tổng vốn đầu tư xã hội, 40% giá trị sản xuất công
nghiệp, tạo ra 54,6% kim ngạch xuất khẩu, thu hút gần 70 vạn lao động.
Do có vốn lớn, công nghệ tương đối hiện đại, kỹ năng quản lý tiên tiến, doanh
nghiệp hoạt động có hiệu quả rõ rệt mang lại nhiều kinh nghiệm tốt cho kinh doanh
của các doanh nghiệp
 Doanh nghiệp dân doanh là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản có trụ sở
giao dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật do một hay
nhiều cá nhân trong nước thành lập, đầu tư vốn và quản lí với tư cách chủ sở hữu
nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.

Doanh nghiệp dân doanh thường hoạt động kinh doanh theo một trong các
hình thức: doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH (một hoặc hai thành viên trở lên),
công ty cổ phần và công ty hợp danh. Thời gian gần đây, doanh nghiệp dân doanh
thường có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong các loại hình doanh nghiệp.
Năm 2005, loại hình doanh nghiệp này chiếm 32,1% tổng vốn đầu tư xã hội,
30% giá trị sản xuất công nghiệp cả nước. Đây thực sự là khu vực kinh tế dân sự

SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2


Khoá luận tốt nghiệp

7

rộng lớn, do dân tự chủ kinh doanh đang trên đà phát triển mạnh mẽ, năng động trở
thành lực lượng chủ lực của công cuộc phát triển kinh tế nước ta.
Việc phân chia thành ba loại doanh nghiệp như trên sẽ chỉ rõ vị trí vai trò và
những đóng góp trong phát triển kinh tế- xã hội của nước ta của từng loại hình
doanh nghiệp qua đó giúp Nhà nước xây dựng các chính sách phù hợp nhằm phát
triển cân đối các loại hình doanh nghiệp, góp phần tạo nên thành công trong sự
nghiệp phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
1.1.2.2. Căn cứ vào số lượng chủ sở hữu
a. Doanh nghiệp một chủ sở hữu
Doanh nghiệp nhà nước: Theo điều 1 luật Doanh nghiệp Nhà nước: DNNN
là một tổ chức kinh tế do Nhà nước- người đại diện toàn dân thành lập đầu tư vốn
và quản lý với tư cách chủ sở hữu hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích
nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế do Nhà nước giao, đồng thời là một pháp nhân
kinh tế, hoạt động theo pháp luật và bình đẳng trước pháp luật.
Doanh nghiệp tư nhân: là doanh nghiệp do cá nhân làm chủ, tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Doanh

nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.Mỗi cá nhân chỉ
được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân.
Công ty TNHH một thành viên: là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá
nhân làm chủ sở hữu; chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và
nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh và loại hình doanh nghiệp này không được quyền
phát hành cổ phần.
b. Doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu :
Doanh nghiệp được hình thành trên cơ sở liên kết của các thành viên, thể hiện
qua việc cùng nhau góp vốn thành lập doanh nghiệp, như công ty cổ phần, công ty
SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2


Khoá luận tốt nghiệp

8

trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên hay công ty hợp danh theo Luật
Việt Nam.
Công ty cổ phần: là doanh nghiệp mà vốn điều lệ của công ty được chia thành
nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cổ đông là cá nhân hay tổ chức sở hữu cổ
phần của doanh nghiệp (số lượng cổ đông tối thiểu là ba) chịu trách nhiệm về các
khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh
nghiệp và có quyền chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác ngoại trừ
trường hợp cổ phần ưu đãi biểu quyết.Công ty cổ phần có quyền phát hành các loại
chứng khoán để huy động vốn.
Công ty TNHH hai thành viên: là doanh nghiệp trong đó thành viên là các tổ
chức cá nhân (số lượng không quá 50 người) chịu trách nhiệm về các khoản nợ và
nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết góp vào

doanh nghiệp, phần vốn góp của công ty chỉ được chuyển nhượng cho công ty,
thành viên của công ty và đối tượng khác theo thứ tự ưu tiên.
Công ty TNHH hai thành viên có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên không được quyền phát hành cổ phiếu
để huy động vốn.
Công ty hợp danh: là doanh nghiệp, trong đó có ít nhất hai thành viên hợp
danh, ngoài các thành viên hợp danh, có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp
danh là cá nhân, có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp và phải chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Ngoài ra, thành
viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số
vốn đã góp vào công ty.
Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp đăng ký kinh
doanh và không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào để huy động vốn.
Thành viên hợp danh có quyền quản lý công ty và tiến hành các hoạt động
kinh doanh nhân danh công ty, cùng liên đới chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của
công ty. Thành viên góp vốn có quyền được chia lợi nhuận theo tỷ lệ được quy định
SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2


Khoá luận tốt nghiệp

9

tại Điều lệ công ty; không được tham gia quản lý công ty và hoạt động kinh doanh
nhân danh công ty. Các thành viên hợp danh có quyền ngang nhau khi quyết định
các vấn đề quản lý công ty.
1.1.2.3. Căn cứ vào quy mô của Doanh nghiệp
-

Doanh nghiệp quy mô lớn.


-

Doanh nghiệp quy mô vừa.

-

Doanh nghiệp quy mô nhỏ.

Để phân biệt các doanh nghiệp có quy mô như trên, hầu hết các nước dựa vào
những tiêu chuẩn chư tổng số vốn đầu tư của doanh nghiệp, số lượng lao động
doanh nghiệp, doanh thu các doanh nghiệp và lợi nhuận hàng năm.
1.1.2.4. Căn cứ mục tiêu hoạt động
Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh là nhằm mục tiêu thu lợi nhuận; tạo
việc làm ổn định cho người lao động; thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và đáp
ứng yêu cầu phát triển của Công ty.
Doanh nghiệp hoạt động công ích là DNNN độc lập hoặc DNNN là thành
viên hạch toán độc lập của Tổng công ty Nhà nước trực tiếp thực hiện nhiệm vụ
quốc phòng, an ninh hoặc sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ công cộng theo
chính sách của Nhà nước, do Nhà nước giao kế hoạch hoặc đặt hàng và theo giá,
khung giá hoặc phí do Nhà nước quy định, hoạt động chủ yếu không vì mục tiêu lợi
nhuận.
1.1.2.5. Căn cứ lĩnh vực kinh doanh
Doanh nghiệp được phân loại thành
-

Doanh nghiệp nông nghiệp là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực

nông nghiệp hướng vào sản xuất ra những sản phẩm là cây, con và phụ thuộc nhiều
vào điều kiện tự nhiên


SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2


Khoá luận tốt nghiệp

-

10

Doanh nghiệp công nghiệp là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực

công nghiệp nhằm tạo ra những sản phẩm bằng cách sử dụng những thiết bị máy
móc để khai thác hoặc chế biến nguyên vật liệu thành thành phẩm. Trong công
nghiệp có công nghiệp xây dựng, công nghiệp điện tử, công nghiệp chế tạo…
-

Doanh nghiệp thương mại là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực

thương mại, hướng vào việc khai thác các dịch vụ trong khâu phân phối hàng hóa
cho người tiêu dùng tức thực hiện các dịch vụ mua vào bán ra để kiếm lời. Doanh
nghiệp thương mại có thể tổ chức dưới hình thức buôn bán sỉ hoặc buôn bán lẻ và
hoạt động của nó có thể hướng vào xuất nhập khẩu
-

Doanh nghiệp hoạt động dịch vụ: những doanh nghiệp trong ngành dịch vụ

không ngừng phát triển về doanh thu và số lượng mà còn rất đa dạng phong phú ở
lĩnh vực này như ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính viễn thông, vận tải, du lịch, y
tế…

1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp
Doanh nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng của nền kinh tế, là bộ phận chủ
yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nước (GDP). Hoạt động của doanh nghiệp những
năm gần đây đã có bước phát triển đột biến, góp phần giải phóng và phát triển sức
sản xuất, huy động và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế xã hội, góp phần quyết
định vào phục hồi và tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân
sách
(1) Doanh nghiệp tạo ra của cải vật chất, tạo ra thu nhập, cải thiện và nâng cao
đời sống của người lao động.
(2) Sự phát triển của nền kinh tế thể hiện ở sự phát triển của hệ thống doanh
nghiệp.
(3) Thông qua hệ thống doanh nghiệp, nhà nước thực hiện được các chủ
trương của mình.

SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2


Khoá luận tốt nghiệp

11

(4) Doanh nghiệp tăng trưởng và phát triển là yếu tố quyết định đến tăng
trưởng cao và ổn định của nền kinh tế những năm qua.
(5) Doanh nghiệp cũng là yếu tố quan trọng, quyết định đến chuyển dịch các
cơ cấu lớn của nền kinh tế quốc dân và trong nội bộ mỗi ngành như: Cơ cấu nhiều
thành phần kinh tế, cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu kinh tế giữa các vùng, địa phương.
(6) Doanh nghiệp phát triển, đặc biệt là DN ngành công nghiệp tăng nhanh là
nhân tố đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, nâng cao hiệu quả kinh tế, giữ vững ổn định và tạo thế mạnh hơn về năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình hội nhập.

(7) DN không chỉ quyết định sự phát triển bền vững về mặt kinh tế mà còn
quyết định đến sự ổn định và lành mạnh hoá các vấn đề xã hội.
1.2. Văn hóa doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm văn hóa
Việt Nam, trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế kinh tế, các doanh nghiệp dễ
nhận thấy rằng: Những vấn đề về mặt kỹ thuật không đưa lại những thách thức bằng
vấn đề hiểu và động viên các nhân viên cống hiến hết khả năng của mình. Và doanh
nghiệp muốn thành công thì phải luôn sáng tạo ra những giá trị mới cho xã hội, mà
điều này lại cần tới sự trợ giúp của các nhân viên.
Hướng tiếp cận doanh nghiệp dưới góc độ văn hóa sẽ giúp đạt hiệu quả cao
hơn trong việc huy động sự tham gia của con người trong tổ chức, (mặc dù hướng
tiếp cận tổ chức về mặt kỹ thuật - cơ cấu ở Việt Nam hiện nay vẫn là vấn đề chưa
thể bỏ qua).
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn hoá. Theo E.Heriôt thì “Cái gì còn
lại khi tất cả những cái khác bị quên đi - cái đó là văn hoá”. Còn UNESCO lại có
một định nghĩa khác về văn hoá: “Văn hoá phản ánh và thể hiện một cách tổng quát,
sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và của mỗi cộng đồng) đã diễn
ra trong quá khứ, cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao nhiêu thế kỷ
SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2


Khoá luận tốt nghiệp

12

nó đã cấu thành một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống và dựa
trên đó từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình”.
Theo giáo trình quản lý xã hội khái niệm văn hoá là một thiết chế xã hội cơ
bản, là một phức thể, tổng thể các đặc trưng – diện mạo về tinh thần, vật chất, tri
thức, tình cảm...khắc hoạ nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng

miền quốc gia, xã hội....văn hoá có thể là hữu thể, có thể là vô hình.
Văn hóa là tất cả những giá trị vật thể do con người sáng tạo ra trên nền của
thế giới tự nhiên, là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển
trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia
vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội.
Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội
hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã
hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được
biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người
cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
Như vậy, dù theo định nghĩa, mọi định nghĩa văn hoá đều chứa một nét chung
là “con người” đều thừa nhận và khẳng định mối liên hệ mật thiết giữa văn hoá với
con người. Văn hoá và con người là hai khái niệm không tách rời nhau. Con người
là chủ thể sáng tạo ra văn hoá. Trong suốt lịch sử hình thành và phát triển của mình,
con người luôn sáng tạo không ngừng để làm nên giá trị văn hoá. Một trong số
những giá trị văn hoá được con người sáng tạo ra ấy chính là bản thân con người –
con người có văn hoá. Con người sáng tạo ra văn hoá, đồng thời chính con người
cũng là sản phẩm của văn hoá.
1.2.2. Khái niệm văn hóa doanh nghiệp
1.2.2.1. Khái niệm
Văn hoá doanh nghiệp(VHDN) là toàn bộ các giá trị văn hoá được gây dựng
nên trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp, trở thành các

SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2


Khoá luận tốt nghiệp

13


giá trị, các quan niệm và tập quán, truyền thống ăn sâu vào hoạt động của doanh
nghiệp ấy và chi phối tình cảm, nếp suy nghĩ và hành vi của mọi thành viên của
doanh nghiệp trong việc theo đuổi và thực hiện các mục đích.
Hay: Văn hóa doanh nghiệp là luật không thành văn quy định cách thức thực
sự mà con người đối xử với nhau hàng ngày trong tổ chức, cách thức thực sự mà
doanh nghiệp giải quyết công việc, đáp ứng nhu cầu khách hàng. Văn hóa doanh
nghiệp ăn sâu vào niềm tin nên có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu,
nhiệm vụ của tổ chức.
Theo Georges de Saite Marie, chuyên gia Pháp về doanh nghiệp vừa và nhỏ,
"VHDN là tổng hợp các giá trị, các biểu tượng, huyền thoại, nghi thức, các điều
cấm kị các quan điểm triết học, đạo đức tạo thành nền móng sâu xa của doanh
nghiệp".
Theo ILO, "VHDN là sự tổng hợp đặc biệt các giá trị, các tiêu chuẩn, các thói
quen và truyền thống, những thái độ ứng xử và lễ nghi mà toàn bộ chúng là duy
nhất đối với một tổ chức đã biết".
Theo Edgar H.Schein, chuyên gia nghiên cứu các tổ chức, "VHDN (hay văn
hoá công ty) là tổng hợp những quan niệm chung mà thành viên trong doanh nghiệp
học được trong quá trình giải quyết các vấn đề nội bộ và xử lý các vấn đề với môi
trường xung quanh".
Hoặc Marvin Bower - Tổng giám đốc, McKinsey Co. đã nói 'VHDN là tất cả
các thành tố mà chúng ta đang thực hiện trong quá trình kinh doanh và di sản để lại
cho thế hệ kế tiếp.
Theo các tài liệu nghiên cứu và giảng dạy ở nước ta, VHDN là trạng thái tinh
thần và vật chất đặc sắc của một doanh nghiệp được tạo nên bởi hoạt động quản lý
và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một điều kiện lịch sử xã
hội nhất định.

SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2



Khoá luận tốt nghiệp

14

Nhìn chung, “văn hóa là sâu, rộng và phức tạp” (Schein, 1992) và có thể hiểu
rằng văn hóa công ty chính là nền tảng cho các hành vi và hoạt động của mỗi cá
nhân trong tổ chức, là sản phẩm và tài sản của mỗi doanh nghiệp.
1.2.2.2. Đặc điểm của văn hóa doanh nghiệp
Văn hóa doanh nghiệp là toàn bộ hệ thống các chuẩn mực về tinh thần và vật
chất quy định mối quan hệ, thái độ và hành vi ứng xử của tất cả các thành viên trong
doanh nghiệp, hướng tới những giá trị tốt đẹp được xã hội đồng tình, tạo ra nét riêng
độc đáo đồng thời là sức mạnh lâu bền của doanh nghiệp thể hiện qua sức mạnh sản
phẩm của doanh nghiệp trên thương trường. Những chuẩn mực đó được quy định
trên cơ sở đặc điểm riêng về loại hình và ngành hàng của từng doanh nghiệp và các
thể chế văn hóa xã hội nơi doanh nghiệp hoạt động, nên nó không giống nhau đối
với từng doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp tạo nên thương hiệu, đó là hình
tượng hay biểu tượng về chất lượng hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp, đồng thời
nó cũng “đúc” nên những nét nhân cách, phong thái riêng rất dễ nhận ra của các
thành viên của doanh nghiệp ở trong xã hội. Cho nên không thể có một chuẩn mực
chung về văn hóa doanh nghiệp cho mọi xí nghiệp. Phải có sự nghiên cứu công phu
và quá trình thực thi đúc rút bền bỉ mới mong tạo được những tập tục, tập quán hay
truyền thống quý báu trong nếp sống của tập thể và mỗi thành viên.
Văn hóa doanh nghiệp thể hiện ở thương hiệu của doanh nghiệp. Thương hiệu
đó phải được chăm lo xây dựng và quảng bá không ngừng để in đậm dấu ấn vào
tâm trí người tiêu dùng. Làm sao cứ nghĩ đến loại hàng đó là người ta nghĩ ngay đến
thương hiệu của doanh nghiệp. Ví dụ nói đến giày dép thì tìm ngay đến Biti’s. Cốt
lõi của thương hiệu doanh nghiệp là chất lượng hàng hóa và phải được đăng ký sở
hữu bản quyền ở trong nước cũng như nước ngoài.

Văn hóa doanh nghiệp còn là


hệ thống các ký hiệu, biểu trưng cho doanh nghiệp như: Hình ảnh biểu tượng chung
của hãng thể hiện ở khắp mọi nơi có liên quan đến doanh nghiệp, ngày truyền thống
doanh nghiệp. Những quy định về áo quần, giày mũ, găng tay, áo đi mưa… đồng
phục giống nhau từ giám đốc đến nhân viên, và giống nhãn hiệu hàng hóa, không ai

SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2


Khoá luận tốt nghiệp

15

được phép thay đổi: Biển tên, số hiệu nhân viên, ký hiệu công việc (hay bộ phận
công tác) từng người; phong bì, giấy viết thư, phong bao dùng để phát lương hoặc
các thiết bị đặc biệt khác… nhất nhất phải theo mẫu thương hiệu quy định, và được
sử dụng rộng rãi liên tục, không thay đổi, tạo thành ấn tượng xã hội, thành niềm tự
hào của các thành viên trong doanh nghiệp và gia đình họ từ đời này qua đời khác.
Văn hóa doanh nghiệp hiện đại hiện nay còn là nghiệp vụ giao dịch đối ngoại
(Marketing gọi là Public Relations (PR)) nhằm xây dựng và nâng cao hình ảnh và
tên tuổi của doanh nghiệp trong xã hội và trên thị trường. Nghiệp vụ đối ngoại còn
tìm mọi cách để quảng bá sản phẩm và uy tín của doanh nghiệp, tổ chức tiếp tân,
diễn thuyết, tạo lập các “thông cáo báo chí trung thực và định hướng” để cung cấp
cho các nhà báo. Nghiệp vụ này còn rất mới lạ ở Việt Nam, nhưng cũng đã được rất
nhiều doanh nghiệp áp dụng. Hệ thống tập tục về thái độ và hành vi ứng xử hàng
ngày cho mỗi thành viên là một bộ phận tạo nên văn hóa doanh nghiệp.
Các nguyên tắc đó gồm: Quy định về bảo mật, về giờ giấc làm việc, nghỉ ngơi;
quy định về trang phục, đồng phục, phù hiệu, tư thế, tác phong khi làm việc; các
nguyên tắc về giao dịch, tiếp khách; nguyên tắc và hình thức tuyên dương khen
thưởng; nguyên tắc về ghi chép chứng từ, báo cáo ghi nhật ký sản xuất; nội quy sử

dụng bảo quản máy móc, thiết bị, về bảo vệ môi trường, phòng chống cháy, sử dụng
điện, nước v.v… Tất cả các quy định này phải rõ ràng, tránh chung chung, có kèm
theo thưởng phạt trở thành quy tắc văn hóa, thành nếp sống tự thân của mỗi thành
viên doanh nghiệp.
Văn hóa doanh nghiệp còn bao gồm những tập tục không thành văn, do các
thành viên trong doanh nghiệp tự nguyện lập nên vì lợi ích chung. Doanh nghiệp
phải tạo ra được những tập quán tốt đẹp như: tập quán trung thực, cởi mở, đấu tranh
thẳng thắn, tập quán mừng sinh nhật, mừng năm mới, ngày cưới, ngày thôi nôi con,
thưởng con em công nhân học giỏi, hay tục chia buồn, thăm ốm đau viếng tang
người trong đơn vị, giúp đỡ gia đình khó khăn v.v... Tập quán đẹp này sẽ gắn bó
mọi người trong doanh nghiệp, biến thành chính cuộc sống của họ, biến thành năng
suất và chất lượng công nghiệp.
SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2


Khoá luận tốt nghiệp

16

Để biến một doanh nghiệp thành một thực thể văn hóa, không phải cứ định ra
vô số những quy tắc này nọ, mà cốt yếu là làm sao biến các quy tắc đó thành hơi thở
cuộc sống, biến thành sức mạnh cạnh tranh và trường tồn của doanh nghiệp. Quá
trình tạo dựng nền văn hóa doanh nghiệp này, vai trò chủ tịch Hội đồng quản trị,
giám đốc có tính quyết định. Một hành vi nhỏ của người giám đốc như xin lỗi công
khai những sai sót của mình trước cấp dưới, đi thăm nhân viên bị ốm v.v... đều tạo
nên hiệu quả to lớn trong xây dựng văn hóa doanh nghiệp. Dưới đây là một số nhiều
định nghĩa về văn hóa doanh nghiệp có thể được tìm thấy.
Nói một cách khác, văn hóa doanh nghiệp chính là bản sắc của một công ty, và
vì lý do đó, trong một số cách, nó sẽ trở thành một bản sắc của những người làm
việc ở đó, nhân viên, con người trong cùng một công ty sẽ có những tác phong,

phong cách và chuẩn mực làm việc, sinh hoạt tập thể giống nhau.
Vì vậy, trong khi có nhiều định nghĩa về văn hóa doanh nghiệp, tất cả trong số
họ tập trung vào những điểm giống nhau: “Kinh nghiệm tập thể, thói quen, niềm tin,
các giá trị, mục tiêu, và hệ thống”. Đây là những kinh nghiệm học được, tiếp tục
truyền đạt lại cho nhân viên mới, và tiếp tục như là một phần của bản sắc cốt lõi của
công ty.
1.2.2.3. Đặc trưng của văn hoá doanh nghiệp
Văn hóa doanh nghiệp là sản phẩm của những người cùng làm trong một
doanh nghiệp và đáp ứng nhu cầu giá trị bền vững. Nó xác lập một hệ thống các giá
trị được mọi người làm trong doanh nghiệp chia sẻ, chấp nhận, đề cao và ứng xử
theo các giá trị đó giúp nâng cao năng suất, chất lượng và đào tạo con người. Văn
hoá doanh nghiệp còn góp phần tạo nên sự khác biệt giữa các doanh nghiệp và được
coi là truyền thống của riêng mỗi doanh nghiệp. Cũng có thể nói, văn hóa của doanh
nghiệp giống như “cá tính” của doanh nghiệp đó. Ở mỗi cá nhân, cá tính giúp phân
biệt người này với người khác, “văn hóa” cũng chính là bản sắc riêng giúp một
doanh nghiệp không thể lẫn với doanh nghiệp khác dù có cùng hoạt động trong một

SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2


Khoá luận tốt nghiệp

17

lĩnh vực và cung cấp những sản phẩm tương tự ra thị trường. Nhìn chung lại, đặc
trưng của văn hóa doanh nghiệp được thể hiện qua
- Tính nhân sinh: tức là gắn với con người. Trong một tổ chức, tập hợp những
người làm việc với nhau sẽ hình thành nên những thói quen, đặc trưng của đơn vị
đó. Do đó, văn hóa doanh nghiệp chủ yếu hình thành trên ý thức tự giác. Theo thời
gian, những thói quen này sẽ dần càng rõ ràng hơn và hình thành ra “cá tính” của

đơn vị. Chủ động tạo ra những giá trị văn hoá mong muốn là điều cần thiết nếu
doanh nghiệp muốn văn hóa thực sự phục vụ cho định hướng phát triển chung, góp
phần tạo nên sức mạnh cạnh tranh của mình.

- Tính giá trị: Không có VHDN “tốt” và “xấu”, chỉ có văn hoá phù hợp hay không
phù hợp. Giá trị là kết quả đánh giá của chủ thể đối với đối tượng theo một hoặc
một số thang độ nhất định và những nhận định này được thể hiện ra thành “đúngsai”, “tốt-xấu”, “đẹp-xấu”..., nhưng bản chất của “sai” của “xấu” đều là “không phù
hợp”. Giá trị cũng là khái niệm có tính tương đối, phụ thuộc vào chủ thể, không
gian và thời gian. Trong thực tế, người ta hay áp đặt giá trị của mình, của tổ chức
mình cho người khác, đơn vị khác, nên dễ có những nhận định “đúng-sai” về văn
hoá của một doanh nghiệp nào đó.

- Tính ổn định: Văn hoá doanh nghiệp khi đã được định hình thì “khó thay đổi”.
Qua thời gian, các hoạt động khác nhau của các thành viên doanh nghiệp sẽ giúp
các niềm tin, giá trị được tích lũy và tạo thành văn hoá. Sự tích lũy các giá trị tạo
nên tính ổn định của văn hoá.
1.2.2.4. Vai trò của văn hóa doanh nghiệp
Văn hóa doanh nghiệp quyết định sự trường tồn của doanh nghiệp. Nó giúp
doanh nghiệp trường tồn vượt xa cuộc đời của những người sáng lập.
Theo đề cương tọa đàm xây dựng văn hóa doanh nghiệp tổng công ty thương
mại Sài Gòn- SATRA thì văn hóa doanh nghiệp có những vai trò sau:

SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2


Khoá luận tốt nghiệp

18

 Văn hóa doanh nghiệp là nguồn lực tạo ra lợi thế cạnh tranh

Văn hóa doanh nghiệp đóng vai trò hết sức quan trọng, tạo nên lợi thế cạnh
tranh cho doanh nghiệp. Đó chính là nguồn lực, là lợi thế so sánh khi khách hàng
phải quyết định lựa chọn các đối tác khác nhau. Văn hóa doanh nghiệp là cơ sở duy
trì và phát triển mối quan hệ khách hàng, tạo ra tâm lý tin tưởng cùng hợp tác liên
kết lâu dài và bền vững. Văn hóa doanh nghiệp tạo ra sự chuyên nghiệp trong mọi
suy nghĩ và hành động của doanh nghiệp.
 Văn hóa doanh nghiệp góp phần thu hút nhân tài, tăng cường sự gắn bó
giữa người sử dụng lao động với người lao động và giữa nội bộ người lao động.
Các giá trị văn hóa tích cực phản ánh một hình ảnh tốt đẹp của doanh nghiệp
và môi trường làm việc hấp dẫn với mục đích duy trì nguồn nhân lực nhất là những
nhân viên giỏi vì văn hóa cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến khuynh
hướng rời bỏ tổ chức của nhân viên; đồng thời thu hút lực lượng lao động đặc biệt
là những người có năng lực, những nhân tài bên ngoài bởi người lao động bên cạnh
việc xem xét các yếu tố như lương bổng, tính chất công việc,… thì họ ngày càng
quan tâm đến yếu tố văn hóa trước khi bắt đầu gia nhập một tổ chức mới. Văn hóa
tổ chức tích cực sẽ làm gia tăng sự cam kết và hợp tác của đội ngũ nhân viên, kết
quả là sự hiệu quả của tổ chức được nâng cao, sự nhất trí quan tâm cao đến các định
hướng chiến lược, năng suất lao động tăng, việc ra quyết định tốt hơn
 Văn hóa doanh nghiệp tạo nên bản sắc của doanh nghiệp.
Văn hóa doanh nghiệp giúp phân biệt giữa tổ chức này với các tổ chức khác .
Doanh nghiệp cần phải có cách thức duy trì và phát triển những đặc trưng văn hóa
nào để từ đó phát triển được bản sắc văn hóa riêng biệt của mình, tạo nên một hình
ảnh có sức hấp dẫn cao không chỉ với các thành viên trong doanh nghiệp mà còn
với các khách hàng và đối tác.
 Văn hóa doanh nghiệp ảnh hưởng đến việc hoạch định chiến lược và
cùng đồng hành phát triển theo doanh nghiệp.

SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2



Khoá luận tốt nghiệp

19

Văn hóa doanh nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạch định chiến lược phát
triển của doanh nghiệp thông qua việc chọn lọc thông tin thích hợp (áp dụng kinh
nghiệm, mô hình phù hợp), đặt ra những nguyên tắc, tiêu chuẩn theo giá trị của
doanh nghiệp. Hoạch định chiến lược đúng sẽ giúp cho các thành viên phát huy
được ở mức cao nhất vai trò của họ trong doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có văn
hóa mạnh tức là đã tạo ra được sự thống nhất và tuân thủ cao của mọi thành viên đối
với tổ chức, góp phần thực hiện thành công chiến lược phát triển của tổ chức (văn
hóa doanh nghiệp xác định luật chơi).
 Văn hóa doanh nghiệp tạo nên sự ổn định của tổ chức
Có thể nói rằng, văn hóa doanh nghiệp như một chất keo kết dính các thành
viên trong tổ chức đó.
Các cuộc nghiên cứu về mức độ hài lòng nhân sự ở các doanh nghiệp trong
nước cũng minh chứng các lý do chủ yếu vì sao nhân viên cấp quản lý trung gian
thường rời bỏ công ty sau 2 đến 3 năm công tác. Sau một thời gian phục vụ công ty,
nhân viên thường rơi vào trạng thái "hoang mang", thiếu định hướng vì nhiều lý do
phi tài chính khác nhau như không hiểu rõ mục tiêu và công ty sẽ đi về đâu trong
tương lai do không cảm nhận được sự chia sẻ của ban lãnh đạo; cảm nhận không rõ
vai trò và ý nghĩa của bản thân đối với công ty hoặc liệu chúng có phù hợp với mục
tiêu công ty hay không. Mặt khác, cấu trúc tổ chức và cơ chế phân quyền - giao
quyền làm hạn chế quyền chủ động trong quản lý và thực thi công việc. Như vậy,
nhân viên ngoài mong muốn thoả mãn nhu cầu "chức năng" về mức thu nhập hợp
lý, họ còn quan tâm nhiều đến việc thoả mãn nhu cầu "cảm xúc" như chứng tỏ vai
trò và năng lực bản thân, vị thế trong xã hội, nhu cầu giao tiếp xã hội, niềm vui
trong công việc, sự cổ động và khuyến khích làm việc nhờ việc công nhận và khen
thưởng từ lãnh đạo, đồng nghiệp và xã hội đó chính là các yếu tố văn hóa của công
ty... Nếu mục đích và hành vi của cá nhân phù hợp với mục đích và văn hóa doanh

nghiệp, nhân viên dễ bị lôi cuốn và phát huy tốt nhất năng lực cá nhân để đóng góp
cho doanh nghiệp.

SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2


Khoá luận tốt nghiệp

20

 Văn hóa doanh nghiệp tạo nên sự cam kết chung, vì mục tiêu và giá trị của
bản thân doanh nghiệp.
1.2.3. Nhân tố cấu thành văn hóa doanh nghiệp
Phát triển văn hoá doanh nghiệp giúp doanh nghiệp thích ứng với những thay
đổi trong môi trường bên ngoài. Những thay đổi về chính trị, kinh tế, xã hội, công
nghệ thông tin... đang tác động đến hoạt động sản xuất, kinh doanh. Chính vì vậy,
doanh nghiệp phải có các công cụ để phân tích được các dữ liệu cần thiết nhằm
nhận diện được đúng điểm mạnh, yếu của văn hóa hiện đang tồn tại trong doanh
nghiệp và giúp hình dung được văn hóa mà doanh nghiệp sẽ hướng tới để họ thích
nghi được với những thay đổi, phát triển.
Và như vậy, để có được một cái nhìn sâu sắc và hiểu biết rõ hơn về văn hóa
doanh nghiệp, để biết được có những yếu tố nào thuộc về văn hóa doanh nghiệp, có
ảnh hưởng đến nhận thức của con người về vấn đề này, chúng ta phải hiểu được cấu
trúc để hình thành nên văn hóa doanh nghiệp gồm những bộ phận nào, quan hệ giữa
các bộ phận ra sao và các bộ phận này có vai trò như thế nào? Đơn giản nhất, nó
phải gồm 4 nhóm yếu tố:

Hình 1.1: Bốn nhóm nhân tố cấu thành văn hóa doanh nghiệp
(Nguồn: lanhdao.net)
SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2



Khoá luận tốt nghiệp

21

Văn hóa doanh nghiệp là một cấu trúc có bề sâu khó nhìn thấy nhưng bền
vững. Kết cấu bốn yếu tố đó là một thể thống nhất toàn vẹn, tác động qua lại mật
thiết với nhau để tạo nên bản sắc, cá tính và sức mạnh của doanh nghiệp.
1.2.3.1. Nhóm yếu tố giá trị
Ở tầng sâu nhất: đó là giá trị cơ bản (hay còn gọi là giá trị nền tảng) và các
triết lý kinh doanh mà doanh nghiệp đang theo đuổi. Những giá trị này gắn liền theo
những mức độ khác nhau với hệ giá trị của văn hóa dân tộc.
Nhóm yếu tố giá trị có thể ví như lõi trong cùng của cây gỗ được cưa ngang.
Phải trồng cây gỗ nhiều năm mới có được lõi gỗ và nó là phần rắn nhất trong cây
gỗ. Giá trị văn hóa của một tổ chức cũng vậy. Tạo dựng được giá trị phải mất nhiều
năm và giá trị chỉ khẳng định được sự xác lập của nó thông qua việc thâm nhập,
chuyển tải các biểu hiện của giá trị vào các nhóm yếu tố chuẩn mực và yếu tố hữu
hình. Điều này cho thấy, những giá trị cốt lõi đó khi đã được xác lập muốn xóa bỏ
nó cũng không dễ trong ngày một ngày hai, nhưng giá trị cũng có thể bị suy thoái,
bị thay đổi trong một số điều kiện. Các giá trị cốt lõi là yếu tố cần thiết và là niềm
tin lâu dài của một tổ chức, là động lực chủ yếu thúc đẩy mọi người làm việc, hạt
nhân liên kết mọi người trong doanh nghiệp với nhau, liên kết doanh nghiệp với
khách hàng, đối tác của doanh nghiệp, liên kết doanh nghiệp với xã hội nói chung.
Thực tế, nếu một quan niệm mạnh tồn tại trong một doanh nghiệp hay một tổ
chức, các thành viên trong đó sẽ thấy rằng hành vi của họ sẽ không cần phải dựa
trên một cơ sở nào khác ngoài quan niệm đó. Hệ thống các quan niệm sẽ xác định
cho các thành viên những gì phải chú ý đến, các sự vật có ý nghĩa gì, họ phải phản
ứng như thế nào với những gì đang xảy ra và họ phải hành động như thế nào trong
các tình huống khác nhau.

Nói cách khác, các quan niệm này có tác dụng định hướng hành vi của các
thành viên trong quá trình nhận thức, tư duy và cảm nhận về các vấn đề quan hệ bên
trong và bên ngoài doanh nghiệp. Những giá trị này không thể bị phản bác hay bàn

SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2


Khoá luận tốt nghiệp

22

luận và do đó sẽ rất khó thay đổi. Một khi các giá trị này thay đổi sẽ dẫn đến sự xáo
trộn hoặc khủng hoảng trong tổ chức.
Như vậy, trước hết, cái quan trọng nhất khi nhìn doanh nghiệp ở góc độ văn
hóa là các giá trị văn hóa nào đã được doanh nghiệp đề xướng, quán triệt hay tuân
thủ. Đây không chỉ là câu khẩu hiệu treo trên tường, hoặc bài phát biểu của giám
đốc doanh nghiệp mà chúng ta phải tìm thấy sự hiển diện của các giá trị này qua
nhiều nhóm yếu tố văn hóa khác.
Ví dụ, một doanh nghiệp đề cao sự tận tụy với khách hàng là một trong những
giá trị mà họ theo đuổi, thì người ta phải thấy giá trị này được tôn vinh qua phiếu
đánh giá của khách hàng về nhân viên, giá trị này cũng phải được chuyển tải trong
tuyển dụng nhân viên. Hay đối với Công ty hoạt hình Walt Disney, giá trị cốt lõi là
trí tưởng tượng và lợi ích cho sức khỏe con người – những thứ này không xuất phát
từ những nhu cầu của thị trường mà từ niềm tin nội tại của người sáng lập rằng:
người ta phải nuôi dưỡng trí tưởng tượng và lợi ích cho sức khỏe con người và chỉ
vậy mà thôi.
1.2.3.2. Nhóm yếu tố chuẩn mực
Nhóm yếu tố chuẩn mực thuộc tầng trung gian: Có thể hình dung đây là vòng
bên ngoài liền kề với lõi trong cùng của cây gỗ khi cưa ngang. Thuộc nhóm yếu tố
này gồm: các biểu tượng của doanh nghiệp, các truyền thuyết, giai thoại về những

năm tháng gian khổ và vẻ vang đã qua, về những nhân vật anh hùng của doanh
nghiệp (nhất là hình tượng người thủ lĩnh khởi nghiệp), các tập quán, nghi thức
được mọi thành viên chia sẻ, các tín ngưỡng được thành viên tin theo và tôn thờ,
những chiến lược, những mục tiêu và triết lý kinh doanh của doanh nghiệp…
Các triết lý kinh doanh được hình thành trong quá trình giải quyết các vấn đề
thích ứng với bên ngoài và phối hợp bên trong tổ chức. Ban đầu, các giá trị này đơn
giản chỉ là những tư tưởng, những cách giải quyết vấn đề mới liên quan đến công
việc quản trị hay hoạt động của một số người có ảnh hưởng đến nhóm hay tổ chức
trong việc lựa chọn cách giải quyết vấn đề, chủ yếu là của những người sáng lập và
SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2


×