Tải bản đầy đủ (.docx) (93 trang)

Tiếp nhận Thơ mới từ 1986 đến nay (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.39 KB, 93 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ THỦY

TIẾP NHẬN THƠ MỚI TỪ 1986 ĐẾN NAY

Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 822 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM

HÀ NỘI, 2018


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ THỦY

TIẾP NHẬN THƠ MỚI TỪ 1986 ĐẾN NAY

Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 822 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THIỆN KHANH



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, đã được
công bố theo đúng quy định. Kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tìm
hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan. Các kết quả này chưa được
công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Tuyên Quang, ngày 25 tháng 10 năm 2018
Tác giả luận văn

Đỗ Thị Thủy


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
Chương 1. TIẾP NHẬN THƠ MỚI GIAI ĐOẠN TRƯỚC 1986.............11
1.1. Đôi nét về Thơ mới (1932-1945).................................................................... 11
1.2. Thơ mới trong sự diễn giải của "phái bảo thủ” đầu thế kỷ XX.......................16
1.3. Thơ mới trong sự diễn giải của "phái cải cách” đầu thế kỷ XX......................19
1.4. Thơ mới trong sự diễn giải của giới văn nghệ miền Bắc trước 1975…24
Chương 2. NGỮ CẢNH VÀ CHỦ THỂ TIẾP NHẬN THƠ MỚI TỪ 1986
ĐẾN NAY.......................................................................................................30
2.1. Sự thay đổi thiết chế xã hội của văn học.............................................. 30
2.2. Sự thay đổi hệ hình nghiên cứu văn học...............................................35
2.3. Chủ thể tiếp nhận Thơ mới từ 1986 đến nay........................................ 40
Chương 3. SỰ TÁI DIỄN GIẢI THƠ MỚI TRONG NGỮ CẢNH ĐỔI MỚI
(1986 ĐẾN NAY)............................................................................................. 48
3.1. Tái diễn giải Thơ mới trong sự chuyển đổi của thiết chế xã hội..........48
3.2. Tái diễn giải Thơ mới trong sự thay đổi hệ hình nghiên cứu văn học . 54
KẾT LUẬN.................................................................................................... 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................70

PHỤ LỤC.......................................................................................................80


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử văn học Việt Nam, phong trào Thơ mới 1932-1945 ra đời
góp phần quan trọng vào tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc, đánh dấu sự
chuyển biến lớn lao về quan niệm mĩ học, đặc biệt là hệ thống thi pháp trữ
tình, với sự xuất hiện của nhiều cá tính sáng tạo độc đáo.
Tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhất định (1932-1945), Thơ mới là
một hiện tượng văn học đặc biệt. Hiện tượng này thu hút sự quan tâm từ nhiều
phía, nhiều chủ thể. Từ trước 1954 đã có nhiều cuộc tranh luận, bút chiến,
diễn thuyết về Thơ mới, phê phán có, bênh vực Thơ mới có. Từ sau 1954 đến
1975, Thơ mới cũng trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều công trình văn
học sử, ở cả miền Nam và miền Bắc. Tùy theo kinh nghiệm thẩm mĩ, ngữ
cảnh văn hóa, ý thức hệ, mỗi chủ thể tiếp nhận sẽ có tiêu chuẩn, cách định giá
khác nhau về vị trí, đóng góp, ý nghĩa của phong trào Thơ mới.
Sau 1986, đặc biệt từ cuối thập niên 90 trở lại đây, Thơ mới được tái
bản khá nhiều. Cùng với sự du nhập, tiếp nhận nhiều lý thuyết văn học hiện
đại, Thơ mới được xem là mảnh đất thử nghiệm của nhiều phương pháp
nghiên cứu; là đối tượng đọc lại, diễn giải lại của nhiều nhà nghiên cứu văn
học sử và nhà phê bình văn học; là đề tài khảo sát của rất nhiều luận văn, luận
án khoa học. Mặc dù đã có một số công trình “nhìn lại sự tiếp nhận Thơ mới”
trong lịch sử văn học, nhưng cho đến nay, một bức tranh toàn cảnh về sự tiếp
nhận Thơ mới vẫn chưa được vẽ lại rõ nét (đặc biệt là những góc khuất trong
tiếp nhận Thơ mới ở miền Nam trước 1975, tiếp nhận Thơ mới của người
đương thời 1932-1945 và khúc ngoặt trong sự tiếp nhận Thơ mới từ sau 1986)
… Tính đến thời điểm năm 2016, chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập
đến vấn đề Tiếp nhận Thơ mới từ 1986 đến nay (2016) một cách cụ thể, tập
trung và có hệ thống. Vì thế, kế thừa những thành tựu nghiên cứu đi trước,


5


luận văn sẽ đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu về sự tiếp nhận Thơ mới trong đời
sống văn học từ 1986 đến 2016.
Tóm lại, có ba lý do chính khiến chúng tôi lựa chọn đề tài này. Trước
hết, là vị trí văn học sử đặc biệt của Thơ mới: đây “là cuộc cách mạng thi ca
chưa từng có trong lịch sử văn học dân tộc” (Trần Đình Sử); đồng thời là đối
tượng diễn giải từng bị ý thức hệ hóa và có nhiều thăng trầm trong tiếp nhận.
Thứ hai, việc nghiên cứu Thơ mới từ 1986 đến nay đã có nhiều chuyển biến,
đạt nhiều thành tựu đáng chú ý: cái nhìn ý thức hệ mờ dần, thay vào đó là cái
nhìn học thuật ngày càng đậm nét. Thứ ba, mặc dù đã có một số công trình
quan tâm đến lịch sử tiếp nhận Thơ mới, song trên đại thể những công trình
đó mới chỉ dừng lại ở sự tiếp nhận giai đoạn trước 1986, còn sự tiếp nhận
phong trào này từ mốc Đổi mới trở về sau thì dường như vẫn chưa có một
nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống nào.
Khảo sát sự : ''Tiếp nhận Thơ mới từ 1986 đến nay '' vừa giúp cho tác
giả luận văn có dịp nhìn lại để hiểu đúng, sâu hơn về một thời đại thi ca, vừa
bước đầu cung cấp một mảnh ghép nhằm hoàn chỉnh hơn bức tranh tiếp nhận
Thơ mới trước và sau 1945.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1.

Theo từng giai đoạn, Thơ mới đã đón nhận những đánh giá khen chê, những
cách nhìn nhận khác nhau. Có thời điểm Thơ mới được hoan nghênh, chào
đón nồng nhiệt, được xem là có ý nghĩa rất lớn đối với quá trình hiện đại hóa
nền văn học dân tộc. Có thời kỳ, Thơ mới lại bị phủ nhận giá trị, bị gác lại và
bị gạt ra bên lề,… Lịch sử đã ghi nhận, Thơ mới được diễn giải theo thiên
hướng phủ nhận, phê phán trong các giáo trình lịch sử văn học ở miền Bắc

1954-1975; Thơ mới nhất là khuynh hướng thơ tượng trưng, siêu thực được
tiếp nhận, được đánh giá cao ở miền Nam trước ngày đất nước thống nhất.
Đấy không chỉ là sự thay đổi của “thời tiết văn học”, của hệ quy


chiếu nói chung mà còn là “sự chuyển hóa” ngay ở bản thân một người đọc có nhà phê bình khi Thơ mới có những kết tinh đỉnh cao thì ca ngợi, nhưng
sau này, do lựa chọn lập trường khác, họ lại phủ nhận ý kiến trước đó của
mình, không thừa nhận những mặt tích cực của Thơ mới,… Từ năm 1986, cụ
thể hơn từ đầu thập niên 90, Thơ mới được đánh giá lại, khoa học hơn, nhân
văn hơn, có nhiều phát hiện mới, nhiều lý thuyết, phương pháp mới được vận
dụng để đọc lại, diễn giải lại phong trào thi ca này như thi pháp học, phong
cách học, loại hình học, văn hóa học,… Ngày càng có nhiều công trình nghiên
cứu, khẳng định đóng góp to lớn của Thơ mới trong tiến trình thơ hiện đại
Việt Nam.
2.2.

Trước 1975 đã có một số công trình đề cập đến vấn đề tiếp nhận Thơ mới. Các
công trình, bài viết tổng kết của Hoài Thanh, Lê Tràng Kiều, Vũ Ngọc Phan,
Thanh Lãng, Nguyễn Tấn Long, Phan Canh... là những ví dụ tiêu biểu, phác
thảo lại những ngã rẽ trong tiếp nhận của người đương thời đối với Thơ mới.
Sau 1975, trong xu hướng nhìn lại nhiều hiện tượng văn học quá khứ,
Lê Đình Kỵ là một trong những nhà nghiên cứu sớm quan tâm dựng lại những
bước thăng trầm của Thơ mới. Trong Thơ Mới những bước thăng trầm xuất
bản năm 1993, Lê Đình Kỵ đã hệ thống hóa lại các chặng đường tiếp nhận
Thơ mới rất cụ thể, sinh động (bao gồm giai đoạn trước cách mạng tháng Tám
và trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ), ông giải thích lý do cần phải
trình bày chi tiết các nhận định, các khuôn mẫu đánh giá về Thơ mới như sau:
“dẫn ra các hiện tượng trên để ngày nay ta có thể hình dung được cái không
khí văn học lúc bấy giờ như thế nào, và nó đã ảnh hưởng đến việc nhìn nhận
thơ lãng mạn cũ như thế nào” [46, tr.36].

Đầu thập niên 90, đời sống văn học ghi nhận nhiều sự kiện quan trọng
về tiếp nhận Thơ mới. Một là, các nhà Thơ mới như Xuân Diệu, Huy Cận,


Nguyễn Xuân Sanh, Anh Thơ… nhóm họp bàn về kỉ niệm 60 năm Phong trào
Thơ mới đồng thời chủ trương “góp phần truyền bá cái hay cái đẹp của Thơ
mới, tiếp tục nghiên cứu, bình giá để Thơ mới có vị trí xứng đáng như giá trị
vốn có” của nó. Hai là, một số hội thảo khoa học lớn được tổ chức ở Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh nhằm làm sống lại Thơ mới. Công trình Nhìn lại
một cuộc cách mạng trong thi ca (1993) do Huy Cận, Hà Minh Đức chủ biên,
là kết quả của ba cuộc hội thảo, “phần chủ yếu của cuốn sách là sự nhìn lại,
đánh giá lại một trào lưu thơ ca lớn, mà Hoài Thanh gọi là một cuộc cách
mạng trong thơ ca và Tế Hanh xem là hiện tượng thơ ca lớn nhất thế kỉ”
[11,tr.4]. Bên cạnh việc nhìn nhận, đánh giá lại Thơ mới, một số ý kiến đã trực
tiếp bàn về sự tiếp nhận Thơ mới giai đoạn trước và sau 1945. Trước 1945,
đánh giá của Hoài Thanh, Hoài Chân được xem là sâu sắc, Huy Cận khẳng
định: Thi nhân Việt Nam “tổng kết một cách sâu sắc với tấm lòng tri âm tri kỉ”
về Thơ mới [92, tr.8]. Còn Hoài Chân nhấn mạnh: “Sau cách mạng tháng
Tám, trong suốt bốn mươi năm, Thơ mới “ở không yên ổn ngồi không vững
vàng”. Chỉ từ năm 1984, nhất là từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI,.… giá trị Thơ
mới mới dần dần được nhìn nhận thỏa đáng…[92, tr. 20]. Gần với quan sát
của Hoài Chân, Đỗ Đức Hiểu ghi nhận tình hình nghiên cứu Thơ mới thập
niên 80, 90: “Vài năm nay, về Thơ mới, từ nhiều điểm nhìn, với nhiều tâm
trạng khác nhau, nhiều tiếng nói vang lên, chân thành, tha thiết và khách
quan, trên Tạp chí Văn học, tuần báo Văn nghệ, Giáo dục và Thời đại, các
sách văn phổ thông trung học… Chẳng hạn, tiếng nói của Văn Tâm với những
cứ liệu chính xác đáng trân trọng, tiếng nói của Đỗ Lai Thúy thiên về triết lý
(không gian trong thơ Huy Cận, thời gian trong thơ Xuân Diệu, chân quê
trong thơ Nguyễn Bính…) và bao ý kiến tốt đẹp, tế nhị xung quanh thơ Hàn
Mặc Tử, Thâm Tâm” [92, tr.140]. Trần Đình Sử khái quát về cách tiếp cận

Thơ mới: “cho đến nay Thơ mới, vẫn chỉ được xem xét chủ yếu như một trào


lưu thơ (với khuynh hướng tư tưởng, ý thức cổ nhân), một số phong cách thơ
(với cá tính sáng tạo độc đáo không lặp lại), một số bài thơ hay, nhưng vẫn
chưa lưu ý xứng đáng với tư cách là một hệ thống” thi pháp, “mà ý nghĩa của
nó vượt ra xa ngoài phạm vi một trào lưu, đánh dấu một giai đoạn mới thực sự
của thơ trữ tình tiếng Việt” [92, tr.164]. Văn Tâm cho rằng việc giới thuyết
Thơ mới chưa đạt được nhiều tiến bộ: “Nhiều nhà nghiên cứu văn học đã tốn
không ít giấy mực, đã thảo luận, tranh luận (khoảng năm 1959, 1960) về Thơ
mới, có mấy tác phẩm chuyên luận vài trăm trang (Phan Cự Đệ, Lê Đình Kỵ)
xuất bản rồi, nhưng hình như chưa cây bút nào xác định được rõ ràng hàm
nghĩa Thơ mới - xác định giàu tính thuyết phục thì lại càng chưa” [92, tr.189].
Một dấu mốc quan trọng trong việc dựng lại bức tranh tiếp nhận Thơ
mới trước 1945, là sự xuất hiện (2001) của bộ sách đồ sộ Tranh luận văn
nghệ thế kỉ XX (2 tập) do nhóm tác giả Nguyễn Ngọc Thiện, Cao Kim Lan
sưu tầm, biên soạn, khảo cứu. Giá trị trước hết của bộ sách này là phần tuyển
chọn, giới thiệu các văn bản bài viết tham gia tranh luận về Thơ mới/Thơ cũ;
thư mục tên các bài tham gia tranh luận, thư mục những công trình nghiên
cứu về cuộc tranh luận đó. Tiếp theo là sự dẫn giải, đánh giá tổng quát về diễn
biến, sự phân hóa trong tiếp nhận Thơ mới ở hồi đầu thế kỷ XX. Trong Tiểu
dẫn “Về cuộc tranh luận Thơ mới/Thơ cũ”, Cao Kim Lan chỉ rõ: “trong cuộc
tranh luận, bên cạnh những bài viết đề cập trực tiếp đến đặc trưng và bản chất
của thơ ca thì ta có thể thấy lộ ra những phương pháp nghiên cứu đi sâu vào
đặc thù của văn chương nghệ thuật ẩn sau những bài phê bình. Ở đây, những
quan điểm sáng tác, đặc trưng thẩm mỹ của văn chương nghệ thuật và sự vận
động phát triển của văn học đã được thực tiễn “chưng cất” trở thành một thứ
lý thuyết hết sức sinh động, mềm mại và dễ hiểu” [102, tr.38].
Năm 2007, Phan Cư Đệ biên soạn và xuất bản cuốn sách Về một cuộc
cách mạng trong phong trào thi ca: phong trào Thơ mới. Ngay Lời nói đầu,



tác giả cho biết tham vọng của ông là “tổng kết được phần nào những thành
tựu nghiên cứu mới (sau Thi nhân Việt Nam), mặt khác tập trung vào một số
vấn đề chung về phong trào, tác giả, tác phẩm mà ý kiến cho đến nay vẫn còn
chưa thống nhất do sự khác nhau về quan điểm đánh giá, về phương pháp
luận, đôi khi đơn giản là do sự thiếu tư liệu về văn bản tác phẩm, chân dung
tác giả” [28, tr.6]. Trên thực tế, Phan Cự Đệ không nghiên cứu sâu về bản thân
sự tiếp nhận, diễn giải Thơ mới, mà một cách khéo léo hơn, ông đi từ các diễn
giải, nghiên cứu cụ thể rồi tổng hợp và khái quát chúng thành “những vấn đề
chung của Thơ mới”, “những vấn đề đang tranh luận về tác giả, tác phẩm”.
Cũng trong năm 2007, Mai Thị Liên Giang hoàn thành luận án Tiến sĩ
ngữ văn, xem xét Vấn đề chủ thể tiếp nhận qua lịch sử tiếp nhận Thơ mới.
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu vấn đề người đọc Thơ mới - chủ thể
tiếp nhận Thơ mới (từ 1932 đến 2005), một yếu tố quan trọng chi phối sự
định giá, đánh giá phong trào Thơ mới. Ngoài khảo sát chủ thể tiếp nhận, Mai
Thị Liên Giang cũng đánh giá có hệ thống về một số phương pháp tiếp cận
Thơ mới, theo tác giả “mỗi phương pháp tiếp cận Thơ mới đều chỉ hướng đến
một khía cạnh nào đó của chủ thể” [37, tr.134], “mỗi phương pháp đều nảy
sinh một cách hiểu khác về Thơ mới” [37, tr.132].
Năm 2013, cuốn Nhìn lại Thơ mới và văn xuôi Tự lực văn đoàn do
Trần Hữu Tá, Nguyễn Thành Thi, Đoàn Lê Giang chủ biên xuất bản. Cuốn
sách đánh dấu sự quan tâm đặc biệt của của giới nghiên cứu văn học sử và
phê bình văn học, một nỗ lực tiếp tục nhìn lại, nhận thức lại hai hiện tượng
văn học quan trọng của văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX. Trong bài mở sách
“Cùng nhìn lại”, Trần Hữu Tá cho rằng, “Những năm đầu thời kỳ đổi mới
(1986-1995), giới nghiên cứu đã nhìn lại và kết quả rất tích cực. Từ đó đến
nay, như một nhu cầu tất yếu, Thơ mới và văn xuôi Tự lực văn đoàn luôn là



đối tượng, mời gọi sự đầu tư công sức của những ai quan tâm đến văn học
Việt Nam hiện đại. Theo thời gian và đà tiến của xã hội, việc nhận định đánh
giá ngày càng công bằng, xác đáng hơn [84, tr.16]. Đáng chú ý trong cuốn
sách này là tiểu luận, “Văn chương Tự lực văn đoàn và Thơ mới trong
chương trình trung học môn Văn ở miền Nam trước 1975” của Nguyễn
Công Lý, bên cạnh việc giới thiệu chung về chương trình khung và sách
giáo khoa trung học môn Văn ở miền Nam trước 1975, tác giả đã đi đến
khái quát: văn chương Tự lực văn đoàn và Thơ mới có một vai trò và vị trí
quan trọng trong chương trình môn văn trung học ở miền Nam trước 1975.
Trong khi đó, cùng thời gian này trong chương trình và sách giáo khoa ở
miền Bắc lại không hề nhắc đến; còn trong giáo trình văn học sử giai đoạn
1932-1945 ở bậc đại học thì lại phê phán Tự lực văn đoàn và Thơ mới một
cách gay gắt, nặng nề. Bài viết “Thơ mới và tiểu thuyết Tự lực văn đoàn
trong sự tiếp nhận của độc giả trẻ Việt Nam hiện nay” của Hà Thanh Vân lần
đầu tiên lấy sự tiếp nhận Thơ mới từ sau 1986 (công chúng trẻ) làm đối
tượng điều tra, phân tích, đánh giá, lý giải từ lý thuyết tiếp nhận văn học
hiện đại. Theo Hà Thanh Vân, nghiên cứu về Thơ mới bao giờ cũng có sức
hút riêng, “từ góc độ tiếp nhận văn học, có thể đặt ra vấn đề sự tiếp nhận
của công chúng văn học đương đại, đặc biệt là công chúng trẻ đối với Thơ
mới và tiểu thuyết Tự lực văn đoàn hiện nay như thế nào”, [84, tr.478]. Để
rút ra các kết luận về tâm lý tiếp nhận của độc giả, tác giả bài viết đã thực
hiện điều tra xã hội học văn học qua mạng. Kết quả thu được cho thấy tầm
đón nhận cũng như hứng thú tiếp nhận rất khác nhau đối với Thơ mới và
Tự lực văn đoàn ở trường phổ thông.
Ngoài những công trình, bài viết trên đây, quá trình tiếp nhận Thơ mới
cũng đã được đề cập đến trong các công trình của Đỗ Lai Thúy, Nguyễn
Đăng Điệp, Hoàng Thị Huế, Nguyễn Thanh Tâm, Trần Nho Thìn,


…. Trong đó nổi bật là biên khảo Thơ mới - những chuyện chưa bao giờ

cũ của Nguyễn Hữu Sơn được xuất bản năm 2016, đã tập hợp, khảo luận
những đánh giá của người đương thời Thơ mới (1932-1945), cụ thể là
khảo luận, giới thiệu các đánh giá, nhận định về mười hai tác giả tiêu
biểu làm nên phong trào Thơ mới: Đông Hồ, Nam Trân, Thế Lữ, Lưu
Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Bích Khê, Huy Cận, Chế Lan Viên,
Vũ Hoàng Chương, Huy Thông, Nguyễn Bính. Cuốn sách là nguồn tư
liệu quý, góp phần làm cho bức tranh tiếp nhận Thơ mới trước 1945
được sáng rõ hơn [74].
Tóm lại, có thể nói rằng, thành tựu nghiên cứu văn học sử và phê
bình về Thơ mới, rất phong phú. Từ cuối thập niên 80 đến nay, cùng với sự
nhìn lại phong trào này, vấn đề tiếp nhận Thơ mới đã được quan tâm sưu
tầm, nghiên cứu, hệ thống hóa, đánh giá lại. Tuy nhiên, vẫn chưa có công
trình nào đặt ra và giải quyết thấu đáo những vấn đề xung quanh việc Tiếp
nhận Thơ mới từ 1986 đến 2016. Trên cơ sở kế thừa những nghiên cứu của
các tác giả đi trước, luận văn đi sâu nghiên cứu về các diễn ngôn về Thơ
mới trong đời sống văn học sau 1986.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là thông qua việc nghiên cứu việc
tiếp nhận Thơ mới (1932-1945) trong đời sống văn học sau 1986 để chỉ ra sự
đổi mới về khung tri thức, góc nhìn, quan điểm, chủ thể và phương pháp đánh
giá Thơ mới.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Luận văn đặt việc tiếp nhận Thơ mới trong sự
đổi mới tư duy văn học, đổi mới hệ hình nghiên cứu và thiết chế xã hội của
văn nghệ để xem xét, lý giải. Qua đó, góp thêm một cái nhìn mới, có hệ thống
trong việc khẳng định vị trí, giá trị của Thơ mới đối với sự vận động của văn
học Việt Nam hiện đại.


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Sự tiếp nhận Thơ mới (1932-1945) ở Việt Nam sau

1986
.

Phạm vi nghiên cứu: sự tiếp nhận của giới nghiên cứu lịch sử văn học,

phê bình văn học từ 1986 đến 2016.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp chủ yếu:
- Phương pháp xã hội học văn học: Luận văn sử dụng phương pháp xã hội học
để xác định ngữ cảnh xã hội, chính trị, thị hiếu... đã ảnh hưởng đến việc tiếp
nhận Thơ mới trong từng thời kỳ lịch sử, đặc biệt là giai đoạn từ 1986 đến
nay. Phương pháp này cũng được vận dùng vào việc xem xét công chúng tiếp
nhận văn học, các phương thức tiếp nhận và các thiết chế phân phối các ấn
phẩm Thơ mới thời kỳ sau 1986.
- Phương pháp loại hình: Phương pháp này được luận văn sử dụng để xác định
loại hình Thơ mới, trên cơ sở đó sẽ tiến hành phân loại, phân tích các mối quan
tâm khác nhau đối với thơ lãng mạn, tượng trưng và siêu thực. Đồng thời những
tri thức của phương pháp này sẽ được vận dụng để xem xét các thực hành về
tiếp cận Thơ mới từ góc độ loại hình học.
- Phương pháp văn hóa học: Sự ra đời, phát triển và tiếp nhận Thơ mới gắn bó chặt
chẽ với lịch sử văn hóa. Do đó, luận văn sử dụng phương pháp văn hóa học để
xác định bối cảnh văn hóa của sự diễn giải Thơ mới, ngoài ra còn dùng vào việc
xác định một cái nhìn văn hóa để phân tích, lý giải các chiều hướng định giá Thơ
mới.
- Phương pháp thực chứng: Luận văn chú trọng nghiên cứu các sự kiện, các
hiện tượng, trường hợp xác thực, chỉ căn cứ vào các công trình, các bài viết
được công bố chính thức, có thật trong lịch sử, nhằm tránh những suy


luận võ đoán, chủ quan, mơ hồ trong việc khái quát các khung, các tiêu chí,

tiêu chuẩn đánh giá Thơ mới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Qua thực tiễn tiếp nhận Thơ mới, luận văn góp phần khẳng định, lịch sử văn
học không chỉ là lịch sử tác giả, tác phẩm, hiện tượng văn học mà còn là lịch
sử tiếp nhận chúng.
- Góp phần làm sáng tỏ hơn một vài vấn đề tiếp nhận văn học (ngữ cảnh, chủ
thể tiếp nhận...) qua một hiện tượng, phong trào văn học cụ thể, tiêu biểu.
- Khái quát những bước thăng trầm của Thơ mới từ thập niên 30-40 đến nay,
góp một cách nhìn về quá trình tạo nghĩa, định giá Thơ mới không ngừng
thông qua người đọc.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tiếp nhận Thơ mới giai đoạn trước 1986.
Chương 2: Ngữ cảnh và chủ thể tiếp nhận Thơ mới từ 1986 đến nay.
Chương 3: Sự tái diễn giải Thơ mới trong ngữ cảnh Đổi mới (1986 đến
nay).


Chương 1
TIẾP NHẬN THƠ MỚI GIAI ĐOẠN TRƯỚC 1986
Chương I giới thiệu đôi nét sự ra đời và phát triển của Thơ mới như
một loại hình thơ hiện đại, một thi pháp mới khác biệt với thơ cổ điển, thơ
cách mạng. Đồng thời cung cấp một bức tranh tổng quan về sự tiếp nhận Thơ
mới của người đương thời, sự tiếp nhận, diễn giải nó ở miền Bắc (và phần nào
đó là miền Nam) trước 1986.
1.1. Đôi nét về Thơ mới (1932-1945)
Sự ra đời của Thơ mới gắn liền với tên tuổi của Phan Khôi và báo Phụ
nữ tân văn. Bài thơ Tình già và bài báo "Một lối thơ mới trình tránh giữa làng
thơ” của Phan Khôi được xem là bước đi khởi đầu của phong trào Thơ mới

[48]. Nhớ về “cuộc ra trận của cả một thế hệ văn chương” hồi đầu thế kỷ XX,
Huy Cận nhấn mạnh: “vào giờ phút trả lại cho Thơ mới những giá trị lớn
lao... chúng ta nhớ ông Phan Khôi và báo Phụ nữ tân văn đã có công “trình
chánh giữa làng thơ” một bài Thơ mới vào ngày 10/3/1932”. Hơn mười năm
hình thành và phát triển, Thơ mới đã dần khẳng định được vị thế và có những
đóng góp quan trọng trên bước đường hiện đại hóa nền thi ca dân tộc. Nói về
Phong trào Thơ mới 1932-1945, tác giả Hoài Thanh đã tổng kết "..., nhất đán
một cơn gió mạnh bỗng từ xa thổi đến. Cả nền tảng xưa bị một phen điên đảo,
lung lay. Sự gặp gỡ phương Tây là cuộc biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt
Nam từ mấy mươi thế kỷ “ [92, tr.9].
Thơ mới ra đời trong một bối cảnh xã hội, văn hóa đặc biệt. Từ đầu thế
kỷ XX, khi người Pháp đẩy mạnh các cuộc khai thác thuộc địa, xã hội Việt
Nam có những thay đổi căn bản, trước hết là sự thay đổi về cơ cấu xã hội với
sự xuất hiện của nhiều tầng lớp mới. Tiếp đến là sự phát triển của nền kinh tế
hàng hóa gắn liền với sự hình thành các trung tâm, đô thị mới. Trong lòng các
đô thị này, lớp thị dân mới tiếp xúc với văn hóa phương Tây, có lối cảm,


lối nghĩ, thị hiếu khác hẳn với con người tiểu nông cổ truyền. Yêu cầu hiện
đại hóa văn học giai đoạn này được đặt ra nhằm đáp ứng những đòi hỏi của
thời đại.
Thơ mới ra đời gắn liền với một thế hệ mới, một đội ngũ trí thức mới:
trí thức Tây học. Họ trưởng thành trong hệ thống nhà trường Pháp, tiếp thu
nền văn hóa Pháp. “Thơ mới là tiếng nói của tầng lớp trí thức đô thị mới xuất
hiện” [107, tr.12]. Tầng lớp này có ý thức cá nhân cao độ, có cái nhìn thế giới
mới, quan niệm thẩm mĩ và quan niệm sáng tác không giống với kiểu tác giả
nhà nho truyền thống. Khẳng định tâm lý sáng tạo và ngôn ngữ thế giới quan
mới của một thế hệ thi sĩ, Lưu Trọng Lưu cho rằng: “các cụ ta yêu màu đỏ
chót; ta lại ưa màu xanh nhạt. Các cụ ta bâng khuâng vì tiếng trùng đêm
khuya; ta lại nao nao vì tiếng gà đúng ngọ. Nhìn một cô gái ngây thơ, các cụ

coi như một điều tội lỗi; ta thì cho là mát mẻ như đứng trước một cánh đồng
xanh. Cái tình của các cụ chỉ là hôn nhân, nhưng với ta thì trăm hình muôn
trạng, cái tình say đắm, cái tình thoảng qua, cái tình gần gũi, cái tình xa xôi,
cái tình chân thật, cái tình ảo mộng, cái tình ngây thơ, cái tình già dặn, cái tình
trong giây phút, cái tình nghìn thu” [92, tr.14]. Hoài Thanh khái quát: “chúng
ta ở nhà tây, đội mũ tây, đi giầy tây, mặc áo tây. Chúng ta dùng đèn điện, đồng
hồ, ô tô, xe lửa, xe đạp.... Nói làm sao cho xiết những điều thay đổi về vật
chất, phương Tây đã đem tới giữa chúng ta.... Những đồ dùng kiểu mới ấy đã
dẫn đường cho tư tưởng mới. Trong công cuộc duy tân, ảnh hưởng của nó ít ra
cũng ngang với ảnh hưởng những sách nghị luận của hiền triết Âu Mỹ, cùng
những sách cổ động của Khang, Lương.... phương Tây đã đi đến chỗ sâu nhất
trong hồn ta, ta không còn có thể vui cái vui ngày trước, buồn cái buồn ngày
trước, yêu ghét, giận hờn nhất nhất như ngày trước.... tình chúng ta thay đổi,
thơ chúng ta cũng phải đổi mới”. Theo Hoài Thanh chính thời đại “mưa Âu
gió Mỹ” đã trao cho thế hệ thi nhân mới sứ mệnh phải cởi trói thi ca khỏi


những quy phạm của thơ cổ điển, Thơ mới là sản phẩm của một khát vọng
thành thực: “khát vọng cởi trói cho thi ca là khát vọng nói rõ những điều kín
nhiệm u uất, cái khát vọng được thành thực”, “Thơ mới là kết quả không thể
không có của một cuộc biến thiên vĩ đại bắt đầu từ hồi nước ta sắp nhập đế
quốc Pháp và xa hơn nữa, từ hồi Nguyễn Trịnh phân tranh lúc người Âu mới
đến. Cái ngày người lái buôn phương Tây thứ nhất đặt chân lên xứ ta, người
ấy đã đem theo cùng với hàng hóa phương Tây, cái mầm sau này sẽ nảy thành
Thơ mới” [92, tr-12-13].
Lịch sử phát triển của Thơ mới, có thể khái quát quát qua 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1932 - 1935: Đây là giai đoạn diễn ra cuộc đấu tranh giữa
Thơ mới và Thơ cũ. Sau bài thơ khởi xướng của Phan Khôi, một loạt các nhà
thơ như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Vũ Đình Liên tiếp tục công kích
thơ Đường luật, hô hào bỏ niêm, luật, đối, bỏ điển tích, sáo ngữ. Trong khi đó

phía đại diện cho Thơ cũ như Tản Đà, Huỳnh Thúc Kháng, Hoàng Duy Từ,
Nguyễn Văn Hanh phản đối, chống lại Thơ mới một cách quyết liệt. Cho đến
cuối năm 1935, cuộc đấu tranh tranh lắng xuống với sự thắng thế của phái
Thơ mới.
Giai đoạn 1936-1939: Đây là giai đoạn Thơ mới chiếm ưu thế tuyệt đối
trên nhiều bình diện, nhất là về mặt thể loại. Giai đoạn này xuất hiện nhiều tên
tuổi lớn có tiếng vang như Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, Bích
Khê,... Tuy nhiên, vào cuối giai đoạn, xuất hiện sự phân hóa và hình thành một
số khuynh hướng sáng tác khác nhau như khuynh hướng lãn mạn, tượng trưng,
siêu thực.
Giai đoạn 1940 - 1945: Giai đoạn đầu 1940 xuất hiện nhiều nhóm phái,
tiêu biểu là nhóm Dạ Đài gồm Vũ Hoàng Chương, Trần Dần, Đình Hùng,...;
nhóm Xuân Thu Nhã Tập có Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Đỗ
Cung,... nhóm Trường thơ loạn có Chế Lan Viên, Hàn Mạc Tử, Bích Khê,...


Ở giai đoạn này, cảm hứng sáng tác thẩm mỹ và tư duy nghệ thuật của các nhà
Thơ mới đã có sự thay đổi sâu sắc, thi pháp thơ trữ tình có nhiều sáng tạo đột
khởi.
Thơ mới là một cuộc cách mạng thi ca. Tính cách mạng của phong
trào thi ca này thể hiện ở chỗ, nó đánh dấu bước chuyển từ thơ ngôn chí
truyền thống sang thơ trữ tình điệu nói hiện đại, đánh dấu sự hình thành
một thi pháp mới. Thơ mới là một khái niệm rộng. Làm nên một thời đại
thi ca rực rỡ không chỉ có thơ lãng mạn, mà còn có các loại hình thơ tượng
trưng, siêu thực.
Về bản chất loại hình, thơ lãng mạn là thơ của cái tôi cá nhân, cá thể.
Điều này có nghĩa, cái tôi là một nguyên tắc tổ chức thế giới nghệ thuật thơ
lãng mạn, là nguyên tắc cắt nghĩa thế giới. Không phải ngẫu nhiên Hoài
Thanh gọi Thơ mới là thời đại của chữ tôi. Cái tôi trong thơ lãng mạn là cái
tôi cô đơn, buồn sầu, tự do, phóng khoáng, “Nhà thơ lãng mạn muốn tỏ bày

cho chúng ta trước hết là về chính họ, là phơi bày tâm hồn cõi lòng họ. Họ thổ
lộ cho chúng ta những chiều sâu tâm hồn xúc cảm, sự đa dạng của cá tính”
(V.Zhirmunki) [77, tr.36]. Thơ tượng trưng khác với thơ lãng mạn ở chỗ,
nguyên tắc tổ chức thế giới của nó là các ám thị nghệ thuật. Thơ tượng trưng
muốn vượt qua thơ lãng mạn, khắc phục cách nói bộc lộ trực tiếp, cụ thể ý
nghĩ và tình cảm của thơ lãng mạn, bằng cách đẩy thơ ca đi sâu vào khu vực
bí ẩn, mơ hồ của tâm linh, đi sâu vào thế giới của cái biểu đạt, thế giới của ý
niệm, trừu tượng; thơ tượng trưng chủ trương kéo thơ ca lại gần với âm nhạc.
Thơ siêu thực chủ trương lối viết tự động, biểu đạt thực tại của tư tưởng, một
thực tại “nằm ngoài mọi sự kiểm soát phi lí tính, nằm ngoài mọi kiến giải
thẩm mĩ hay đạo lí” (Breton). Thế giới của thơ siêu thực là thế giới “tự động
thuần tâm lí”, thế giới của giấc mơ vô thức, của sự tự do tuyệt đối, và con
người toàn nguyên.


Trong tiến trình phát triển, Thơ mới ngay từ khi xuất hiện năm 1932,
đã mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa lãng mạn với tên tuổi nổi bật như Thế Lữ,
Lưu Trọng Lư, Phạm Huy Thông, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Đình Liên, Thái
Can… và sau đó là các tác giả Xuân Diệu, Huy Cận, Thanh Tịnh, Nguyễn
Bính… Với tư tưởng nhằm thoát ly thực tại dung tục, tầm thường để hướng
đến tìm kiếm, xây dựng thế giới của khát vọng, lý tưởng và chủ đề về thiên
nhiên, tôn giáo, tình yêu và đặc biệt là đào sâu vào cái tôi cá thể.... Từ năm
1936, những dấu hiệu của chủ nghĩa lãng mạn của Thơ mới dần nhường chỗ
cho những ảnh hưởng của lối thơ tượng trưng, tiêu biểu là các nhà thơ thuộc
Trường thơ loạn với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Yến Lan,...họ đi
sâu khám phá những bí ẩn trong chiều sâu tâm linh, huyền bí,... Tới cuối thập
niên 40, khuynh hướng tượng trưng dần chuyển sang siêu thực với những ảo
mộng, thần bí, các nhà thơ đi tìm cảm giác ngoài thực tại đời sống. Đại biểu
cho khuynh hướng này là phái Xuân Thu nhã tập, Dạ Đài với các tác giả Hàn
Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn

Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ,...
Có thể nói Thơ mới là một phong trào thi ca được sản sinh trên cơ sơ
nhu cầu thị hiếu của tầng lớp công chúng mới, tầng lớp tiểu tư sản thành thị
đầu thế kỷ XX với những tư tưởng mới, cảm xúc mới trước sự thay đổi của
lịch sử xã hội khi bước vào thời kỳ giao lưu văn hóa, do vậy nó có sức lôi
cuốn mạnh mẽ đối với người đọc. Đánh giá chung về vị trí, đóng góp của Thơ
mới, trong công trình Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca, tác giả Phan
Cư Đệ đã nhận định: "Phong trào Thơ mới là một bước tiến của thi ca Việt
Nam trên con đường hiện đại hóa,... là một cuộc đánh giá lại các thể thơ cũ,
đồng thời học tập một cách sáng tạo thơ ca nước ngoài, nhất là thơ Pháp. ...
trong quá trình hiện đại hóa, Thơ mới đã thực hiện một bước tổng hợp quan
trọng giữa thơ Đường, thơ lãng mạn và tượng trưng Pháp với truyền thống thơ


ca dân tộc. Thơ mới có nhiều khả năng diễn đạt hơn "thơ cũ” nhờ ở thể cách
linh hoạt, cách hiệp vần phong phú, nhạc điệu dồi dào, lối ngắt vần sinh động,
ngôn ngữ gợi cảm, giàu hình tượng. Thơ mới đã góp phần giải phóng bản ngã,
mở rộng thế giới tâm hồn bên trong của con người” [28; tr.57]. Lê Đình Kỵ
nhấn mạnh: "Thơ mới là một bước phát triển quan trọng tiến trình của thơ ca
Việt Nam, đưa thơ cổ điển Việt Nam đạt đến hiện đại cả về mặt biểu hiện
cũng như của cả cảm hứng thơ ca’ [11, tr.10].
1.2. Thơ mới trong sự diễn giải của "phái bảo thủ” đầu thế kỷ XX
Thơ mới ra đời, phát triển tạo ra cuộc đối đầu Mới - Cũ. Trên diễn đàn
văn học đã diễn những cuộc tranh luận giữa hai tuyến, theo phái thơ cũ có
Nguyễn Văn Hanh, Chất Hằng Dương Tự Quản, Thương Sương, Nguyễn
Hữu Tiến, Tản Đà,... Sự phòng vệ và phản kháng của phái thơ cũ nhằm mục
tiêu giữ vững hình thái thơ truyền thống, trên mặt trận diễn thuyết nổi lên nhất
là Nguyễn Văn Hanh, còn trên phương diện báo chí, Chất Hằng Dương Tự
Quán là một trong những tác giả bênh vực Thơ cũ một cách mạnh mẽ. Chất
Hằng Dương Tự Quán trên Văn học tạp chí, số 18, đăng ngày 01 tháng 6 năm

1933, bộc lộ quan điểm chê thơ Phan Khôi "nhạt nhẽo, vô duyên, khắc khổ,
hùng hổ”, ông cũng bày tỏ quan điểm của cá nhân "Tôi thích đổi mới cho thơ
nhưng tôi chú trọng về tinh thần của thơ hơn là đường hình thức... Lối thơ
Đường luật tuy giam hãm vào cái thi pháp chặt chẽ nhưng ta thử hỏi có lối thơ
nào mà chẳng phải bó buộc bởi những luật lệ nhất định. Ngay như thơ Tây
cũng còn phải theo phép tắc rất phiền phức.... Còn như coi thể thơ Đường chật
hẹp quá, thì có thể cổ phong cũng là rộng rãi lắm chứ, việc gì phải lập dị.
Tinh thần hướng dẫn nhà thơ hiện đại phải là "dùng lối cổ mà diễn những tư
tưởng mới ... những người khởi xướng và cổ động Thơ mới chỉ là cho máy
chạy thụt lùi mà thôi” [102, tr.88]. Cũng với quan điểm bênh vực thơ cũ,
Thương Sương có bài "Thơ mới tức là Từ khúc” đăng trên Văn học tạp chí, số


24, ngày 01 tháng 9 năm 1933, trên cơ sở dẫn một số bản dịch Tỳ bà của Tản
Đà thư điếm của Cao Đông Gia ở đời Nguyễn, tác giả nhận định "... cách vần
ở bài Tình già cũ lắm lắm chứ có cũ vừa đâu” [102, tr.112].
Với bài viết "Tôi thất vọng vì Phan Khôi”, đăng trên An Nam tạp chí,
số 39 ngày 30 tháng 4 năm 1932, Vân Bằng viết phản đối Phan Khôi "Vừa
đây, ông lại ra công "sáng chế” một lối thơ "tân thời, tự do đặc biệt” không
cần niêm luật, tự ý vắn dài, làm cho nhiều người "hoài cổ” ngậm ngùi thương
tiếc "tấm vé” luật Đường. Có lẽ vì sự phát minh lối Thơ mới nầy mà phải mai
một đi chăng?” [102, tr.55].
Ủng hộ phái Thơ cũ, Tản Đà trong bài "Cùng các bạn làng thơ” đăng
trên Tiểu thuyết thứ bảy, số 28 ngày 8 tháng 12 năm 1934 nhận mình "Tôi vì
hơi có chút Hán học, xin đứng theo về trong đám người cũ, cứ ngu kiến, do sự
học ở chữ Hán nói chuyện” [102, tr.176].
Cũng bàn bàn về Thơ mới - Thơ cũ, tác giả Nguyễn Hữu Tiến đăng trên
Nam Phong, (số 193, Fesvrier-Mars, 1934) với tên gọi "Thơ mới với Thơ cũ”
ông bày tỏ quan điểm ủng hộ cải cách, nhưng trên tinh thần phải suy xét, có
phương pháp: "Muốn tiến hóa thì phải cải cách, thế mà xã hội Việt Nam ta đến

ngày nay mới có nhiều người bàn đến sự cải cách, thực là muộn lắm rồi. Song
muộn mà có làm còn hơn không. Nhưng lại phải biết cải cách là bỏ cái cũ nào
hủ bại đi mà đem cái mới nào tốt đẹp thay vào. Chứ không phải đã nói cải
cách là bất luận hay hay dở thế nào, cứ cũ thì bỏ, mới thì theo đâu. Như thế thì
lại là a dua chứ không phải là cải cách” [102, tr.141]. Và với ông thì thể tài
Thơ mới "xét ra chỉ vì nó không có cú pháp, không có âm điệu mà thành phạm
vào một cái bệnh rất nặng khó chữa là "khó đọc và khó nhớ”, .... [102, tr.145].
Nói về quan niệm của cá nhân về Thơ mới, Thiết Diện có bài đăng trên
Văn học tuần san, số 8, tháng 8 năm 1935 cho rằng: "Xét về phương diện tinh
thần, thì những bài Thơ mới ngày nay đó chỉ là cái tiếng nói của giai cấp tiểu


tư sản, là một giai cấp bại trận không có sức phấn đấu hẳn hoi như cấp bình
dân. Chính giai cấp sau này mới là nguyên động lực tiến hóa của xã hội”
[102, tr.270]. Phái bênh vực thơ cũ với lực lượng sáng tác chủ yếu là trí thức
theo Hán học, quan niệm “văn dĩ tải đạo”, “thi dĩ ngôn chí”, trọng giáo huấn,
đạo đức và truyền thống. Phản ứng lại sự tấn công của phái Thơ mới, các tác
giả này công kích bằng lý lẽ, họ dựa vào thành tựu gần 1000 năm thơ ca dân
tộc để phủ nhận Thơ mới, nhất là về mặt hình thức. Các nhà thơ cũ cho rằng
"Thơ mới chỉ là những bài tản văn lủng củng, lủng ca. Những người khởi
xướng và cổ động cho phong trào Thơ mới chỉ là "cho máy chạy rụt lùi”, là
"lập dị”, "chỉ mới ở ngoài vỏ, còn bên trong vẫn cũ rích, và khó đọc khó nhớ
vì không có âm điệu âm luật gì cả” [102, tr.156].
Bên cạnh đó, việc sáng tác của các nhà thơ cũ giai đoạn này lại khá mờ
nhạt, không có nhiều tác phẩm thật sự nổi bật. Sự ra đời của một lớp nhà thơ
mới và ảnh hưởng của làn gió văn hóa phương Tây đặt ra nhu cầu phải thay
đổi thơ ca, thay đổi phương tiện trực tiếp biểu hiện tư tưởng, tình cảm trong
thơ. Điều đó cũng cho thấy phần nào trăn trở, mâu thuẫn của những nhà thơ,
nhà văn cả về ý thức, quan niệm sáng tác trước phong trào thay cũ đổi mới
đang diễn ra mạnh mẽ trên thi đàn.

Thơ mới ra đời, mặc dù bị công kích, đả phá quyết liệt, những đến cuối
năm 1940, một loạt các bài thơ mới của Lưu Trọng Lư, Nguyễn Nhược Pháp,
Huy Thông, Thế Lữ ra đời nhanh chóng được chào đón, hoan nghênh, Thơ cũ
dần mất địa vị. Như đánh giá của tác giả Lê Đình Kỵ trong cuốn Thơ mới
những bước thăng trầm thì việc "Phá bỏ một lối thơ đã ngự trị hàng ngàn năm
trên thi đàn dân tộc đâu phải là chuyện chơi. Dư luận sôi nổi. Phía ủng hộ thơ
mới cũng đông đảo, ra sức phản đối thơ cũ.... Thơ cũ không có gì để địch lại
để chứng tỏ lý do tồn tại của nó. Người đại biểu được hâm mộ nhất là Tản Đà,
nhưng Tản Đà từ cuối những năm 20 đã không còn sáng tác gì đáng kể, mà dù


có đi nữa thì cũng không đáp ứng được những đòi hỏi mới của lớp người mới
đang lên. Thơ cũ trên thực tế, cũng như về nguyên tắc và cung cách sáng tác,
không còn phù hợp với thời đại” [46, tr.17] và khi bài thơ Nhớ rừng của Thế
Lữ ra đời, thơ cũ đã thực sự quy hàng. Trước sự phát triển của Thơ mới, thơ
cũ đã dần mất vị trí độc tôn.
1.3. Thơ mới trong sự diễn giải của "phái cải cách” đầu thế kỷ XX
Thơ mới giai đoạn đầu gắn liền với cuộc đấu tranh chống lại thơ cũ,
nhiều bài viết, ý kiến tranh luận bài bác Thơ mới và cuộc chiến giữa hai phái
Thơ mới-Thơ cũ, nói như Hoài Thanh, là một cuộc chiến "không ngang sức”,
rất nhiều người đã lên tiến ủng hộ Thơ mới, hưởng ứng lời kêu gọi của Phan
Khôi "Duy tân đi! Cải lương đi!” như Phan Khôi, Thế lữ, Nguyễn Thị Kiêm,
Lưu Trọng Lư, Lê Tràng Kiều,... Họ chê thơ cũ gò bó, sáo ngữ,... Lực lượng
các nhà Thơ mới đông đảo, cộng thêm họ có tờ báo Phong hóa (sau là tờ
Ngày nay) hậu thuẫn. Và điều hơn hết là từ các nhà Thơ mới họ đã có những
sáng tác hay, tiêu biểu cho thời đại, điều mà các nhà thơ cũ không còn khả
năng làm được. Theo Lưu Trọng Lư viết "Bức thư ngỏ cùng Phan Khôi...”
đăng trên Phụ nữ tân văn, số 153 vào tháng 6 năm 1932, tác giả đánh giá sự
xuất hiện của Thơ mới có ý nghĩa rất lớn "Nó chính là một tiếng chuông cảnh
tỉnh làng thơ giữa lúc đang triền miên trong cõi chết” [102, tr.59]. Trong cuốn

Thi nhân việt nam, Hoài Thanh bày tỏ quan điểm của mình "Tình chúng ta đã
đổi mới, thơ chúng ta cũng phải đổi mới vậy. Cái khát vọng cởi trói cho thi ca
chỉ là cái khát vọng nói rõ những điều kín nhiệm u uất, cái khát vọng được
thành thực” [92 tr.19].
Tranh luận về Thơ mới - Thơ cũ còn nổi bật trong các bài diễn thuyết,
tiêu biểu là những bài luận thuyết bênh vực Thơ mới của tác giả nữ Nguyễn
Thị Kiêm (Nguyễn Thị Manh Manh) với đại diện phái Thơ cũ là Nguyễn Văn
Hanh. Diễn thuyết tại Hội khuyến học Sài Gòn, 26 Juilet 1933, Nguyễn Thị


Kiêm nhận định "Thơ Đường luật là một lối thơ rất bó buộc về từng câu từng
chữ, chặc chịa về luật bằng trắc, về phép đối câu, đối chữ.... Ta có thể nói
rằng, Thơ Đường luật không dùng được nữa, vì bao nhiêu cái đề hay; bao
nhiêu cái ý tưởng sâu, đều có một hạng thi sĩ tài đời xưa, phô tả hết rồi, người
sau đây vì cái vòng niêm luật ấy, phải lập lại câu cũ, ý xưa mà thôi, thành ra
lời văn không thích hạp với sự đời bây giờ”, nên tác giả quả quyết rằng
"Muốn cho tình tứ không vì khuôn khổ mà bị "đẹt” mất thì rất cần phải có
một lối thơ khác, do lề lối nguyên tắc rộng rãi hơn. Thơ này khác hơn lối xưa
nên gọi là Thơ mới” [102, tr.99-100].
Tâm lý của thời đại ảnh hưởng, chi phối đến việc tiếp nhận văn
chương. Thơ mới từ khi ra đời cũng trải qua nhiều khúc quanh, nhiều sự
chuyển đổi tư duy, cảm xúc, với lực lượng tác giả đông đảo, cùng với đó là
sự xuất hiện ngày càng nhiều tác phẩm hay, khác về bản chất so với các sáng
tác thơ cũ, đáp ứng thị hiếu công chúng. Thơ mới thể hiện tâm lý của lớp
nhà thơ mới với cái nhìn cá nhân mới mẻ, trong Thi nhân Việt Nam, Hoài
Thanh đồng tình với lời nhận xét của Lưu Trọng Lư "... Các cụ ta ưa những
màu đỏ choét; ta lại ưa những màu xanh nhạt...các cụ bâng khuâng vì tiếng
trùng đêm khuya; ta nao nao vì tiếng gà lúc đúng ngọ. Nhìn một cô gái xinh
xắn, ngây thơ, các cụ coi như đã làm một điều tội lỗi; ta thì ta cho là mát mẻ
như đứng trước một cánh đồng xanh,...” [92, tr.18-19].

Năm 1936, tác giả Lê Tràng Kiều đã có một loạt bài đăng thảo luận về
Thơ mới và một số tác giả của phong trào Thơ mới đăng trên Hà Nội báo. Nói
về Thơ mới, tác giả này bày tỏ quan điểm "Một cơ quan văn học mà không
nhìn nhận giá trị của Thơ mới là một cơ quan văn học không xứng đáng đại
biểu cho nền văn học một nước! Vì không nhìn nhận giá trị của Thơ mới - tôi
cần phải nói cả quyết thêm điều này nữa - tức là không hiểu gì về Thơ mới
cả” [102, tr.298]. Bênh vực các nhà Thơ mới, đặc biệt là trường hợp Lưu


Trọng Lư, Lê Tràng Kiều viết: "Những người phản đối Thơ mới đều nói một
cách hồ đồ: Thơ mới là một thứ thơ không niêm, không luật, đọc lên nghe
"lủng ca lủng củng”, rồi họ kết luận: Thơ mà không có âm điệu là thơ bỏ
đi. Vâng, thật là thế! Nhưng Thơ mới đâu phải như lời họ nói - là thứ thơ
không có âm điệu. Thơ mới có âm điệu lắm chứ. Nhưng là một thứ âm điệu
riêng, khắc hẳn âm điệu của Thơ Đường, của lục bát, song thất lục bát, âm
luật của một thứ tiếng rất là dồi dào, và huyền diệu,.... Muốn chứng tỏ các
nhà thơ cổ biết rằng Thơ mới là một thứ thơ có âm nhạc hẳn hoi, không gì
hay hơn là đưa thơ của Lưu Trọng Lư mà nói, một thi sĩ xưa nay rất chú
trọng về mặt âm nhạc của thơ. Lưu Trọng Lư chính là một người đầu tiên
gieo hạt thơ mới vào đất Bắc” [74, tr.162]. Bên cạnh đó, năm 1937, báo
Ngày nay với mục Tin thơ do Thế Lữ phụ trách đã trở thành một diễn đàn
của phong trào Thơ mới và Thơ mới đã thực sự chiếm lĩnh thi đàn. Theo
đánh giá của tác giả Lại Nguyên Ân về mười năm của phong trào Thơ mới
"... tuy thanh thế của phong trào là rộng lớn, khiến số đông người làm thơ
"nhập tịch” vào phong trào, nhưng "tuyến cải cách” năng động và có hiệu
quả nhất chỉ là tuyến từ Thế Lữ đến Xuân Diệu... Còn các tuyến khác chỉ
hưởng ứng về mặt tuyên ngôn, tinh thần và tâm trạng hơn là thực thể sáng
tác” [4, tr.183-184].
Hoài Thanh xác định "tinh thần Thơ mới”, ở "thời chữ tôi”- "chữ tôi
với cái nghĩa tuyệt đối của nó”. "Ngày thứ nhất chữ tôi xuất hiện trên thi đàn

Việt Nam (...) mang theo một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này: quan
niệm cá nhân” [91]. Và với tinh thần lý luận, Hoài Thanh ví thời điểm bột
phát của Thơ mới như là "cuộc xâm lăng của văn xuôi: Văn xuôi tràn vào
địa hạt thơ, tàn phá tan tành”. Ông cũng nhận định "Phong trào Thơ mới
trước hết là một cuộc thí nghiệm táo bạo để định lại giá trị khuôn phép xưa”.
Trước những ý kiến của các nhà thơ cũ cho rằng Thơ mới toàn những bài thơ


×