Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Luận văn Thạc sĩ Khoa học môi trường Nghiên cứu đa dạng hệ thực vật tại Khu Bảo tồn thiên nhiên Bát Xát tỉnh Lào Cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 77 trang )

BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG HỆ THỰC VẬT
TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN BÁT XÁT,
TỈNH LÀO CAI
CHUYÊN NGÀNH: KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG

NGUYỄN HƯNG THỊNH

HÀ NỘI, NĂM 2018


BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG HỆ THỰC VẬT
TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN BÁT XÁT,
TỈNH LÀO CAI

NGUYỄN HƯNG THỊNH

CHUYÊN NGÀNH: KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG
MÃ SỐ: 8440301
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. TS. ĐỖ THỊ XUYẾN
2. PGS.TS. HOÀNG NGỌC KHẮC

HÀ NỘI, NĂM 2018




CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
Cán bộ hướng dẫn chính: TS. Đỗ Thị Xuyến
PGS.TS. Hoàng Ngọc Khắc
Cán bộ chấm phản biện 1: TS. Dương Tiến Đức
Cán bộ chấm phản biện 2: PGS.TS. Đồng Thanh Hải
Luận văn thạc sĩ được bảo vệ tại:
HỘI ĐỒNG CHẤM LUẬN VĂN THẠC SĨ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
Ngày tháng năm 2018


MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................................ii
DANH MỤC CÁC BẢNG ........................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC HÌNH ........................................................................................... ..iv
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN ........................................... v
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ ................................................................. 3
1.1. Quan điểm nhận thức về đa dạng sinh học .............................................................. 3
1.2. Một số công trình nghiên cứu đa dạng hệ thực vật trên thế giới ............................. 6
1.3. Một số công trình nghiên cứu đa dạng hệ thực vật ở Việt Nam .............................. 8
1.4. Một số công trình nghiên cứu đa dạng hệ thực vật tại Khu BTTN Bát Xát.......... .11
1.5. Tổng quan về khu vực nghiên cứu - Khu Bảo tồn thiên nhiên
Bát Xát, tỉnh Lào Cai .................................................................................................. ...12
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN

CỨU .............................................................................................................................. 20
2.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ............................................................................. 20
2.2. Nội dung nghiên cứu ............................................................................................. 20
2.3. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................... 20
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................................... 29
3.1. Danh lục các loài thực vật tại khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát, tỉnh Lào Cai ...........
...................................................................................................................................... .29
3.2. Đa dạng hệ thực vật tại khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát, tỉnh Lào Cai ................. 31
3.2.1. Đa dạng về mức độ ngành .................................................................................. 31
3.2.2. Đa dạng ở mức độ họ ......................................................................................... 38
3.2.3. Đa dạng ở mức độ chi ........................................................................................ 39
3.2.4. Đa dạng về dạng sống của thực vật ................................................................... 41
3.2.5. Đa dạng về các yếu tố địa lý thực vật ................................................................ 46
3.2.6. Đa dạng về giá trị sử dụng ................................................................................. 50
3.2.7. Đa dạng về nguồn gen nguy cấp, quý, hiếm ....................................................... 55


3.3. Nguyên nhân gây suy giảm và đề xuất một số giải pháp bảo tồn nguồn tài nguyên
thực vật tại Khu BTTN Bát Xát, tỉnh Lào Cai ............................................................. 60
3.3.1. Nguyên nhân gây suy giảm nguồn tài nguyên thực vật ...................................... 60
3.3.2. Đề xuất giải pháp bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên thực vật tại khu vực
nghiên cứu ..................................................................................................................... 64
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ....................................................................................... 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 70
PHẦN PHỤ LỤC


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan các nội dung, số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực
và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Hà Nội, ngày

tháng 10 năm 2018

Tác giả luận văn

Nguyễn Hưng Thịnh


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành tại Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường
Hà Nội theo trường trình đào tạo cao học khóa 2 (2016 - 2018).
Trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn tôi đã nhận được sự quan tâm,
tận tình giúp đỡ của các thầy, cô giáo, các cán bộ công nhân viên Trường Đại học tài
nguyên và môi trường Hà Nội, Lãnh đạo và các cán bộ khoa Môi trường đã tạo mọi
điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn. Nhân dịp này,
tôi xin trân thành cảm ơn về sự giúp đỡ đó.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn trân thành tới PGS. TS. Hoàng Ngọc
Khắc và TS. Đỗ Thị Xuyến – người hướng dẫn khoa học, đã dành nhiều thời gian
hướng dẫn, tận tình giúp đỡ, truyền đạt những kiến thức quý báu trong suốt thời gian
thực hiện luận văn. Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn tới đề tài hợp tác của
Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt
Nam) với Hàn Quốc mang tên “Tiềm năng sinh học và hoạt chất sinh học từ thực vật”
đã tạo điều kiện về mẫu vật trong quá trình nghiên cứu.
Tôi cũng xin cảm ơn các cán bộ của Hạt kiểm lâm huyện Bát Xát, Khu bảo tồn
thiên nhiên Bát Xát và các hộ gia đình đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi triển khai
đề tài cũng như cung cấp thông tin, số liệu phục vụ cho luận văn.
Cuối cùng, tôi xin trân thành cảm ơn các đồng nghiệp, bạn bè và người thân
trong gia đình đã giúp đỡ, động viên tôi trong suốt thời gian học tập và hoàn thành
luận văn này.

Hà Nội, ngày

tháng 10 năm 2018

Tác giả

Nguyễn Hưng Thịnh


DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng
Bảng 2.1. Danh lục các loài thực vật ở Khu BTTN Bát Xát (Mẫu)
Bảng 3.1. Sự phân bố của các taxon trong các ngành của HTV Khu
BTTN Bát Xát
Bảng 3.2. So sánh tỷ lệ % số loài của HTV Khu BTTN Bát Xát với HTV
Việt Nam
Bảng 3.3. So sánh cấu trúc tỷ lệ % số loài của HTV Khu BTTN Bát Xát
với các HTV VQG Hoàng Liên, VQG Cúc Phương, Khu
BTTN Văn Bàn
Bảng 3.4. So sánh số loài trên cùng một đơn vị diện tích giữa HTV Khu
BTTN Bát Xát với hệ thực vật của VQG Hoàng Liên, VQG
Cúc Phương và Khu BTTN Hoàng Liên - Văn Bàn
Bảng 3.5. Sự phân bố của các taxon trong ngành Ngọc lan
Bảng 3.6. Các chỉ số đa dạng của từng ngành và cả hệ thực vật
Bảng 3.7. So sánh các chỉ số của HTV Khu BTTN Bát Xát với các chỉ số
của HTV VQG Hoàng Liên, VQG Cúc Phương, Khu BTTN
Hoàng Liên – Văn Bàn
Bảng 3.8. Thống kê 10 họ đa dạng nhất trong hệ thực vật Khu BTTN Bát
Xát
Bảng 3.9. Thống kê các chi đa dạng nhất trong HTV Khu BTTN Bát Xát

Bảng 3.10. Thống kê các dạng sống của các loài trong HTV Khu BTTN
Bát Xát
Bảng 3.11. Thống kê các dạng sống của các loài thuộc nhóm cây chồi
trên
Bảng 3.12. So sánh cấu trúc phổ dạng sống của HTV Khu BTTN Bát Xát
với HTV VQG. Hoàng Liên, VQG Cúc Phương, Khu BTTN
Hoàng Liên – Văn Bàn, HTV Việt Nam và phổ tiêu chuẩn của
Raunkiaer
Bảng 3.13. Các yếu tố địa lý các loài thực vật của HTV Khu BTTN Bát
Xát
Bảng 3.14. Thống kê các giá trị sử dụng của HTV Khu BTTN Bát Xát
Bảng 3.15. So sánh tỷ lệ % về số loài các giá trị tài nguyên nổi bật của
HTV Khu BTTN Bát Xát với HTV VQG. Hoàng Liên, VQG
Cúc Phương, Khu BTTN Hoàng Liên – Văn Bàn
Bảng 3.16. Các loài nguy cấp, quý, hiếm và tình trạng bảo tồn theo các
tiêu chí
Bảng 3.17. Thống kê các loài nguy cấp, quý, hiếm ở Khu BTTN Bát Xát

Trang
23
30
32
33

34

36
37
37


38
40
42
43
45

47
50
54

55
57


DANH MỤC CÁC HÌNH
Tên hình

Trang

Hình 1.1. Bản đồ hiện trạng rừng Khu BTTN Bát Xát

14

Hình 3.1. Tỷ lệ số họ, chi, loài của từng ngành thực vật so với tổng số

30

Hình 3.2. Biểu đồ phổ so sánh cấu trúc tỷ lệ % số loài trong từng ngành

34


của HTV Khu BTTN Bát Xát với các HTV VQG Hoàng Liên, VQG Cúc
Phương và Khu BTTN Hoàng Liên – Văn Bàn
Hình 3.3. Biểu đồ phân bố tỷ lệ % của hai lớp trong ngành Ngọc lan

36

Hình 3.4. Biểu đồ phổ so sánh tỷ lệ % số họ, chi, loài của 10 họ đa dạng

39

nhất với cả hệ thực vật
Hình 3.5. Biểu đồ phổ so sánh tỷ lệ % số chi, loài của 10 chi đa dạng nhất

41

với cả hệ thực vật
Hình 3.6. Biểu đồ phổ dạng sống cơ bản của HTV Khu BTTN Bát Xát

42

Hình 3.7. Biểu đồ tỷ lệ % của các nhóm cây chồi trên (Ph)

43

Hình 3.8. Biểu đồ so sánh cấu trúc phổ dạng sống của HTV Khu BTTN

46

Bát Xát với phổ tiêu chuẩn của Raunkiaer, HTV VQG Hoàng Liên, VQG

Cúc Phương, Khu BTTN Hoàng Liên – Văn Bàn
Hình 3.9. Biểu đồ phổ các yếu tố địa lý cơ bản của các loài trong khu

48

HTV Khu BTTN Bát Xát
Hình 3.10. Biểu đồ các nhóm công dụng chính của khu hệ thực vật Khu

51

BTTN Bát Xát
Hình 3.11. Cây bị chặt phá để lấy gỗ tại xã Dền Sáng

62

Hình 3.12. Khai thác chuối hạt tại xã Y Tý

62

Hình 3.13. Cây thảo quả được người dân trồng xen kẽ dưới tán rừng tại

62

xã Dền Sáng
Hình 3.14. Cây thảo quả được người dân trồng xen kẽ dưới tán rừng tại
xã Dền sáng

62



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Chữ viết tắt

Giải thích

BTTN

Bảo tồn thiên nhiên

BQL

Ban quản lí

BVR

Bảo vệ rừng

ĐDSH

Đa dạng sinh học

HTV

Hệ thực vật

KBT

Khu bảo tồn

QLBVR


Quản lí bảo vệ rừng

UBND

Uỷ ban nhân dân

VQG

Vườn quốc gia


MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Việt Nam là một nước nằm trong vùng nhiệt đới có hệ sinh thái rừng vô cùng
phong phú và đa dạng. Do sự tác động của tự nhiên cũng như của con người đã làm
cho các hệ sinh thái này luôn luôn có sự biến đổi. Tài nguyên rừng không những cung
cấp cho con người nguồn thức ăn, nước uống, dược liệu,… mà còn có một vai trò đặc
biệt quan trọng hơn cả - đó là cung cấp nguồn Oxy vô tận cho con người và các loài
sinh vật có thể tồn tại đến ngày nay. Cùng với chức năng cung cấp lâm sản phục vụ
nhu cầu của con người, rừng còn có chức năng bảo vệ môi trường sinh sống và là nơi
lưu giữ các nguồn gen động, thực vật. Rừng có được những chức năng đó là nhờ có
tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái. Một hệ sinh thái bền vững phải đảm bảo tính ổn
định ở cấu trúc, trong đó yếu tố thực vật là rất quan trọng có vai trò quyết định đến sự
tồn vong của hệ sinh thái. Tuy nhiên, trong những năm gần đây diện tích rừng trên thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang bị suy giảm, nguyên nhân chủ yếu là do
con người sử dụng nguồn tài nguyên rừng không hợp lý. Mất rừng đồng nghĩa với sự
thay đổi môi trường sinh thái và làm không ít các loài sinh vật đã và đang có nguy cơ
bị tuyệt chủng.
Nghiên cứu về hệ thực vật rừng là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng

đầu cho công tác nghiên cứu và bảo tồn đa dạng sinh học. Việc nghiên cứu hệ thực vật
giúp người ta hiểu biết rõ được thành phần, tính chất các hệ thực vật ở từng nơi, từng
vùng, nhằm xây dựng mô hình về khai thác, sử dụng, phát triển và bảo vệ nguồn tài
nguyên thực vật một cách bền vững, không gây ảnh hưởng đến môi trường sống, phục
hồi các hệ sinh thái đã bị suy thoái, mang lại lợi ích lâu dài cho con người. Vì vậy,
việc điều tra, đánh giá tính đa dạng thực vật rừng để xây dựng các biện pháp quản lý
và bảo tồn chúng là rất cần thiết.
Khu BTTN Bát Xát là khu bảo tồn thiên nhiên mới được UBND tỉnh Lào Cai
thành lập, nơi được đánh giá có tính đa dạng sinh học cao của tỉnh Lào Cai. Vì lý do
trên, việc nghiên cứu đa dạng sinh học tại đây là rất cần thiết. Vì thế, tôi đã tiến hành
thực hiện đề tài: "Nghiên cứu đa dạng hệ thực vật tại Khu Bảo tồn thiên nhiên Bát Xát,
tỉnh Lào Cai". Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, đa dạng
sinh học ở Khu BTTN Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
2. Mục tiêu nghiên cứu

1


- Bổ sung danh lục các loài thực vật ở khu vực nghiên cứu một cách đầy đủ có hệ
thống tính đến thời điểm nghiên cứu.
- Đánh giá được tính đa dạng thực vật về hệ thực vật ở khu vực nghiên cứu.
- Xác định các nguyên nhân gây suy giảm và đề xuất được các giải pháp bảo tồn
đa dạng thực vật ở khu vực nghiên cứu.
3. Nội dung nghiên cứu
3.1. Bổ sung và xác định danh lục các loài thực vật tự nhiên tại khu bảo tồn thiên
nhiên Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
3.2. Đánh giá đa dạng hệ thực vật Khu BTTN Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
Đa dạng phân loại hệ thực vật.
Đa dạng về dạng sống thực vật.
Đa dạng về các yếu tố địa lý thực vật.

Đa dạng về giá trị sử dụng, nguồn gen đặc hữu và quý hiếm.
3.3. Nguyên nhân gây suy giảm và đề xuất một số giải pháp bảo tồn nguồn tài
nguyên thực vật tại khu vực nghiên cứu.

2


Chương 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ
1.1. Quan điểm nhận thức về đa dạng sinh học
Ngày nay, yêu cầu bảo tồn đa dạng sinh học (ĐDSH), tài nguyên thiên nhiên và
môi trường là một vấn đề hàng đầu. ĐDSH không những có giá trị về mặt môi trường
sinh thái mà còn có giá trị về Văn hóa, Giáo dục, Thẩm mỹ... Chính vì vậy mà công
ước về bảo tồn ĐDSH đã được thông qua tại Đại hội thượng đỉnh Rio de Janeiro
(Braxin, 1992), đây là mốc đánh giá sự cam kết của các quốc gia trên toàn thế giới về
bảo tồn ĐDSH, đảm bảo việc sử dụng bền vững nguồn tài nguyên sinh vật. Do mới
được quan tâm nên ĐDSH vẫn còn là một khái niệm rất mới và nghĩa khá rộng nên
được nhiều tập thể tác giả đề cập đến.
Cho đến nay thì có khá nhiều định nghĩa khác nhau về đa dạng sinh học. Tuy
nhiên, trong số này thì định nghĩa được sử dụng trong Công ước đa dạng sinh học
(1992) được coi là "toàn diện và đầy đủ nhất" xét về mặt khái niệm. Trong thực tế
thuật ngữ đa dạng sinh học được dùng lần đầu tiên vào năm 1988 và sau khi Công ước
đa dạng sinh học được ký kết (5/6/1992) thì nó đã được dùng phổ biến hơn. Theo
Công ước này, khái niệm đa dạng sinh học (biodiversity, biological diversity) là sự
phong phú của sinh giới từ mọi nguồn trên trái đất, bao gồm sự đa dạng trong cùng
loài, giữa các loài và hệ sinh thái. Thuật ngữ này bao hàm sự khác nhau trong một loài
(đa dạng di truyền), giữa các loài (đa dạng loài) và các hệ sinh thái (đa dạng hệ sinh
thái) [1, 2].
Theo Quỹ Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên (WWF, 1990) đề xuất khái niệm ĐDSH
như sau: “ĐDSH là sự phồn thịnh của sự sống trên trái đất, là hàng triệu loài thực vật,
động vật và vi sinh vật, là những gen chứa đựng trong các loài và là những hệ sinh thái

vô cùng phức tạp cùng tồn tại trong một môi trường”. Như vậy, ĐDSH được xem xét ở
cả 3 mức độ: ĐDSH ở cấp độ loài bao gồm toàn bộ các sinh vật sống trên trái đất, từ vi
khuẩn đến các loài động, thực vật và các loài nấm. Ở mức độ tinh tế hơn, ĐDSH bao
gồm cả sự khác biệt về gen giữa các loài, giữa các quần thể sống cách ly nhau về địa lý
cũng như giữa các cá thể cùng chung sống trong một quần thể. ĐDSH còn bao gồm cả
sự khác biệt giữa các quần xã mà trong đó các loài sinh sống, giữa các hệ sinh thái, nơi
mà các loài cũng như các quần xã sinh vật tồn tại, và cả sự khác biệt của các môi
trường sống tương tác giữa chúng với nhau. [3]

3


Bên cạnh đó ĐDSH còn được định nghĩa như sau: “ĐDSH là tập hợp tất cả các
nguồn sống trên hành tinh chúng ta, bao gồm tổng số các loài động, thực vật, tính đa
dạng và phong phú trong từng loài, tính đa dạng của các hệ sinh thái trong các cộng
đồng sinh thái khác nhau hay là tập hợp của các loài sống ở các vùng khác nhau trên
thế giới với các hoàn cảnh khác nhau” trong “Kế hoạch hành động đa dạng sinh học
của Việt Nam”. Định nghĩa này tuy đã đề cập đến mức độ đa dạng của sinh vật trên
hành tinh, song còn quá dài và không cụ thể khiến người đọc khó hình dung. Mặt
khác, định nghĩa trên vẫn chưa đề cập đến mức đa dạng gen (di truyền), chỉ đề cập đến
tính đa dạng của hệ động vật, thực vật mà chưa đề cập đến các sinh vật khác như vi
sinh vật, tảo, nấm,… là một trong những mắt xích không thể thiếu được trong chuỗi
thức ăn để từ đó tạo ra quần xã sinh vật và hệ sinh thái. [trích theo 4]
Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) trong “Cẩm nang nghiên cứu đa dạng sinh vật” đã
đưa ra “ĐDSH là toàn bộ các dạng sống khác nhau của cơ thể sống trên trái đất gồm từ
các sinh vật phân cắt đến động, thực vật ở trên cạn cũng như ở dưới nước, từ mức độ
phân tử AND đến các quần thể sinh vật kể cả xã hội loài người. Khoa học nghiên cứu
về tính đa dạng đó gọi là ĐDSH”. Ở đây, ĐDSH được hiểu theo 3 khía cạnh:
+ Đa dạng ở mức độ di truyền: Mỗi loài sinh vật và thậm chí trong một cá thể
của loài đều có những phân tử AND đặc trưng cho loài. Tính đặc trưng này được thể

hiện qua số lượng và trình tự sắp xếp các nucleotit trong phân tử AND, qua hàm lượng
trong nhân tế bào và tỷ lệ giữa các cặp bazo A+T/G+X. Trật tự các nucleotit trong các
gen có liên quan đến việc qui định các tính trạng và các đặc tính của cơ thể. Trong quá
trình tiến hóa của sinh vật từ thấp đến cao, hàm lượng AND trong các tế bào cũng
được tăng lên. Đó là một sự biểu hiện của đa dạng gen.
+ Đa dạng ở mức độ loài: Phạm trù chỉ mức độ phong phú về số lượng các loài
hoặc số lượng các phân loài (loài phụ) trên trái đất, ở một vùng địa lý, trong một quốc
gia hay một sinh cảnh nhất định. Loài là một nhóm cá thể khác biệt với các nhóm cá
thể khác về mặt sinh học và sinh thái. Các cá thể trong loài có vật chất di truyền tương
tự nhau và có khả năng trao đổi thông tin di truyền (giao phối, giao phấn) với nhau và
cho ra các thế hệ con cái hữu thụ (có khả năng sinh sản tiếp tục). Như vậy, các cá thể
trong loài chứa toàn bộ thông tin di truyền của loài. Vì vậy, tính đa dạng loài hoàn toàn
bao trùm tính đa dạng di truyền và thường được coi trọng nhất khi đề cập đến tính
ĐDSH.

4


+ Đa dạng ở mức độ hệ sinh thái: Thể hiện bằng sự khác nhau của các kiểu quần
xã sinh vật tạo nên. Quần xã sinh vật được xác định bởi các loài sinh vật trong một
sinh cảnh nhất định cùng các mối quan hệ qua lại giữa các cá thể trong loài và giữa các
loài với nhau. Quần xã sinh vật cũng quan hệ với môi trường vật lý tạo thành một hệ
sinh thái. Hệ sinh thái là một cấu trúc và chức năng của sinh quyển bao gồm các quần
xã động, thực vật, các quần xã vi sinh vật, thổ nhưỡng (đất) và các yếu tố khí hậu. Các
thành phần này liên hệ với nhau thông qua các chu trình vật chất và năng lượng (chu
trình sinh địa hóa). Cao hơn nữa, định nghĩa này đã đề cập đến xã hội loài người đó là
đa dạng các loại hình văn hóa dân tộc. Đây là một quan điểm mới được đề cập đến
mang tính nhân đạo và sự công bằng xuất phát từ nguyên nhân đạo đức, đó chính là
câu trả lời cho một phần của câu hỏi vì sao phải bảo tồn ĐDSH.[4]
Như vậy có thể nói: ĐDSH là cơ sở đảm bảo khép kín chu trình sinh-địa-hóa, tạo

cân bằng sinh thái, bảo vệ môi trường. Cuộc sống của chúng ta liên quan mật thiết đến
nguồn tài nguyên mà trái đất cung cấp (nước, không khí, khoáng sản, thực vật, động
vật). ĐDSH cung cấp tài nguyên thiên nhiên. Nền văn minh của chúng ta ngày nay
đang lâm nguy do con người lạm dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên và làm rối loạn
các hệ sinh thái tự nhiên. ĐDSH là cơ sở cho nền văn minh nhân loại phát triển.
Nếu chúng ta duy trì được tính đa dạng sinh học thì sẽ bảo vệ và điều hòa được
lượng nước trên thế giới và chống được sự xói mòn, điều hòa không khí, tạo nguồn
thức ăn cho các sinh vật cho các sinh vật khác nhau, hạn chế được sự tăng nhiệt độ của
không khí và chống hạn hán, lũ lụt. Sự tăng dân số và tăng phát triển xã hội như việc
công nghiệp hóa, mở mang hệ thống giao thông hóa, đô thị hóa, đã và đang gây những
tác động to lớn lên môi trường.
ĐDSH cung cấp các giá trị thẩm mỹ, tín ngưỡng, giải trí,… cho con người. Mỗi
hệ sinh thái tự nhiên là cơ sở cho hình thành 1 nền văn hóa bản địa riêng. Hệ sinh thái
tự nhiên càng phân hóa và đặc thù thì hệ xã hội càng có bản sắc riêng. Khi ĐDSH suy
giảm, cơ sở cho sự hình thành và bảo tồn đa dạng văn hóa bị tổn thương, gây nguy cơ
giảm đa dạng văn hóa.
Tính đa dạng của sự sống trên trái đất đang bị suy giảm. Việc nghiên cứu và bảo
tồn tính đa dạng sinh học hiện nay là một vấn đề cấp bách trên toàn thế giới.
1.2. Một số công trình nghiên cứu đa dạng hệ thực vật trên thế giới

5


Trên thế giới, nghiên cứu về thực vật đã có từ rất lâu. Plinus (79-23 trước Công
nguyên), nhà bác học La Mã, trong tác phẩm “Lịch sử tự nhiên” đã mô tả đến gần
1000 loài cây và đặc biệt chú ý nhiều đến cây dùng làm thuốc và cây ăn quả. Ray
(1628- 1705) người Anh, trong tác phẩm “Lịch sử thực vật” đã mô tả tới 18.000 loài
thực vật. Linné (1707-1778) nhà bác học Thụy Điển, người đầu tiên khởi xướng ra
khái niệm loài và đặt tên loài bằng danh pháp lưỡng nôm, đã mô tả hơn 8.000 loài cây.
Antoine - Laurent de Jussieu (1748 - 1836), nhà bác học người Pháp, người đầu tiên

sắp xếp thực vật vào các họ và đã mô tả gần 100 họ.
Từ nửa sau thế kỷ XIX đến nay, nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật, những
nghiên cứu về thực vật nói chung đạt được những thành tựu đáng kể. Theo hướng
nghiên cứu về phân loại thực vật phải kể tới các tác giả như: Bessey (1845-1915);
Hutchinson (1884-1972); Takhtajan (1910-2009); Engler (1844-1930), R. K. Brummitt
(1992), chuyên gia của Bảo tàng thực vật hoàng gia Anh, trong cuốn “Vascular plant
families and genera” đã thống kê tiêu bản thực vật bậc cao có mạch trên thế giới vào
13.884 chi, 511 họ thuộc 6 ngành là Psilotophyta, Lycopodiophyta, Equisetophyta,
Polypodiophyta, Gymnospermae và Angiospermae. Trong đó Angiospermae có
13.477 chi, 454 họ và được chia ra 2 lớp là Dicotyledoneae bao gồm 10.715 chi, 357
họ và Monocotyledoneae bao gồm 2.762 chi, 97 họ. V. H. Heywood (1996 và 2007)
đã ghi nhận thực vật có hoa trên thế giới với ước tính có khoảng 250.000 loài.
Một số công trình tiêu biểu của một số nước lân cận với Việt Nam như Thực vật
chí Malaysia (1948-1972), Thực vật chí Thái Lan (1984-2011), Thực vật chí Ấn Độ
(1873-1890), Thực vật chí Hải Nam (1972-1977), Thực vật chí Vân Nam (1979-1997),
Thực vật chí Trung Quốc (1994-2009), Thực vật chí Hồng Kông (1993), Thực vật chí
Đài Loan (1989-1999),…
Nghiên cứu về phân loại dạng sống ở trên thế giới cũng có nhiều kiểu khác nhau.
Điển hình là cách phân loại, lập phổ dạng sống của Raunkiaer, 1934 (ghi theo Thái
Văn Trừng, 1999). Theo Raunkiaer dấu hiệu biểu thị để phân loại được chọn là vị trí
của chồi so với mặt đất trong thời gian bất lợi của năm. Hệ thống phân loại đó có thể
được trình bày tóm tắt như sau:
- Cây có chồi trên đất Ph (Phanérophytes)
+ Cây gỗ lớn chồi trên đất Meg (Mégaphanérophytes)
+ Cây gỗ vừa có chồi trên đất Mes (Mésophanérophytes)

6


+ Cây nhỏ có chồi trên đất Mi (Microphanérophytes)

+ Cây thấp có chồi trên đất Na (Nanophanérophytes)
+ Cây có chồi trên đất leo cuốn Lp (Lianes phanérophytes)
+ Cây có chồi trên đất sống nhờ và sống bám Ep (Epiphytes phanérophytes)
+ Cây có chồi trên đất thân thảo Hp (Phanérophytes herbacés)
+ Cây có chồi trên đất thân mọng nước Succ (Phanérophytes succulents)
- Cây có chồi sát đất Ch (Chaméphytes)
- Cây có chồi nửa ẩn H (Hémicryptophytes)
- Cây chồi ẩn Cr (Cryptophytes)
- Cây một năm Th (Thérophytes)
Đây là một cơ sở để so sánh các phổ dạng sống của các thảm thực vật giữa các
vùng khác nhau trên trái đất. Phổ dạng sống của các vùng được ký hiệu là SB.
Về nghiên cứu về yếu tố địa lý cấu thành hệ thực vật:
Các loài thực vật cấu thành nên một HTV nào đó không chỉ khác nhau về thành
phần phân loại mà còn khác nhau về sự phân bố địa lý, nguồn gốc địa lý và cả thời
gian xuất hiện trong HTV. Phân tích các yếu tố địa lý thực vật là một trong những nội
dung quan trọng khi nghiên cứu một hệ thực vật hay bất kỳ một khu hệ sinh vật nào để
hiểu bản chất cấu thành của nó làm cơ sở cho việc định hướng bảo tồn và dẫn giống
vật nuôi, cây trồng,… Phân tích các loài thành các nhóm căn cứ vào sự giống nhau ít
hay nhiều về khu phân bố của chúng. Tập hợp tất cả các loài của một HTV có khu
phân bố ít nhiều giống nhau tập hợp lại thành một yếu tố địa lý. Tập hợp tất cả các yếu
tố địa lý của hệ thực vật (tính tỷ lệ %) là phổ các yếu tố địa lý của HTV đó. Mặc dù
vậy, việc nghiên cứu về yếu tố địa lý cấu thành của hệ thực vật cũng rất phức tạp và
phải phụ thuộc vào khả năng của từng tác giả cũng như nguồn tài liệu cho phép. Việc
chia nhóm khu phân bố rộng hay hẹp khác nhau đều phải đảm bảo nguyên tắc chung là
mỗi yếu tố địa lý của hệ thực vật bao gồm tất cả các loài của HTV đó có khu phân bố
ít nhiều giống nhau. Các yếu tố địa lý thực vật này được chia ra làm 2 nhóm yếu tố chủ
đạo là yếu tố đặc hữu và yếu tố di cư, các loài thuộc yếu tố đặc hữu thể hiện ở sự khác
biệt giữa các hệ thực vật với nhau, còn các loài thuộc yếu tố di cư sẽ chỉ ra sự liên hệ
giữa các hệ thực vật đó. Một số tác giả tiêu biểu như Gagnepain (1926), E. Gail et al.
(1979), Maguran (1995) [6],...

1.3. Một số công trình nghiên cứu đa dạng hệ thực vật ở Việt Nam

7


Ngay từ thế kỷ 18, Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu về thực vật như
các công trình của Loureiro (1790), sang thế kỷ 19 có công trình của Pierre (1879 1907) và cho đến những năm đầu thế kỷ XX đã xuất hiện một công trình nổi tiếng, là
nền tảng cho việc đánh giá tính đa dạng thực vật Việt Nam, đó là bộ Thực vật chí đại
cương Đông Dương do Lecomte (1907 - 1952) chủ biên. Trong công trình này, các tác
giả người Pháp đã thu mẫu và định tên, lập khóa mô tả các loài thực vật có mạch trên
toàn bộ lãnh thổ Đông Dương, con số kiểm kê và được đưa ra 7004 loài thực vật bậc
cao có mạch. Tiếp theo phải kể đến bộ Thực vật chí Campuchia, Lào và Việt Nam do
Aubréville khởi xướng và chủ biên (1960 - 2001) cùng với nhiều tác giả khác. Đến nay
đã công bố 31 tập nhỏ gồm 75 họ cây có mạch nghĩa là chưa đầy 21% tổng số họ đã có
[5]. Tuy nhiên con số này còn ít xa so với số loài thực có ở 3 nước Đông Dương. Trên
cơ sở bộ thực vật chí Đông Dương, Thái Văn Trừng (1978, tái bản năm 2000) đã
thống kê hệ thực vật Việt Nam có 7004 loài, 1850 chi và 289 họ. Trong đó, ngành Hạt
kín có 3366 loài (90,9%), 1727 chi (93,4%) và 239 họ (82,7%). Ngành Dương xỉ và họ
hàng Dương xỉ có 599 loài (8,6%), 205 chi (5,57%) và 42 họ (14,5%). Ngành Hạt trần
39 loài (0,5%), 18 chi (0,9%) và 8 họ (2,8%) [6].
Gần đây, đáng chú ý nhất phải kể đến bộ Cây cỏ Việt Nam của Phạm Hoàng Hộ
(1991 - 1993) xuất bản tại Canada và đã được tái bản có bổ sung tại Việt Nam (1999 2000) [7], hay bộ sách Danh lục các loài thực vật ở Việt Nam (2001 - 2005). Đây là
những bộ sách đầy đủ nhất và dễ sử dụng nhất góp phần đáng kể cho nghiên cứu khoa
học thực vật ở Việt Nam [8, 9, 10].
Bên cạnh đó một số họ riêng biệt đã được công bố như họ Lan (Orchidaceae)
Đông Dương của Seidenfaden (1992), họ Lan (Orchidaceae) Việt Nam của Leonid V.
Averyanov (1994), họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) Việt Nam của Nguyễn Nghĩa Thìn
(1999), họ Na (Annonaceae) Việt Nam của Nguyễn Tiến Bân (2000), họ Bạc hà
(Lamiaceae) của Vũ Xuân Phương (2000), họ Đơn nem (Myrsinaceae) của Trần Thị
Kim Liên (2002), họ Cói (Cyperaceae) của Nguyễn Khắc Khôi (2002), họ Trúc đào

(Apocynaceae) của Trần Đình Lý (2007), họ Cúc (Asteraceae) của Lê Kim Biên
(2007),... Đây là những tài liệu quan trọng làm cơ sở cho việc đánh giá về đa dạng
phân loại thực vật Việt Nam.
Để phục vụ công tác khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên thực vật Viện
điều tra quy hoạch rừng đã công bố 7 tập cây gỗ rừng Việt Nam (1971 - 1988) giới

8


thiệu khá chi tiết cùng với hình vẽ minh họa, đến năm 1996 công trình này được dịch
ra tiếng Anh do Vũ Văn Dũng chủ biên. Trần Đình Lý và tập thể (1993) công bố 1900
cây có ích ở Việt Nam; Võ Văn Chi (1997) công bố từ điển cây thuốc Việt Nam; Viện
Dược liệu (2004) cho ra cuốn Cây thuốc và động vật làm thuốc, hay 20 tập viết về Tài
nguyên Thực vật Đông Nam Á (1991-2003) do các nhà khoa học các nước Đông Nam
Á công bố,...
Bên cạnh những công trình mang tính chất chung cho cả nước hay ít ra một nửa
đất nước, có nhiều công trình nghiên cứu khu hệ thực vật từng vùng dưới rạng danh
lục được công bố chính thức như hệ thực vật Tây Nguyên đã công bố 3754 loài thực
vật có mạch do Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (1984); Danh lục thực vật Phú Quốc của
Phạm Hoàng Hộ (1985) công bố 793 loài thực vật có mạch trong một diện tích 592
km2; Lê Trần Chấn và cộng sự (1990) về hệ thực vật Lâm Sơn, Lương Sơn (Hòa
Bình); Nguyễn Nghĩa Thìn và Nguyễn Thị Thời (1998) đã giới thiệu 2024 loài thực
vật bậc cao, 771 chi, 200 họ thuộc 6 ngành của vùng núi cao Sa Pa - Phan Si Pan [6],
hay một loạt các bài báo công bố về đa dạng thành phần loài ở các vườn quốc gia, các
khu bảo tồn thiên nhiên như vùng núi đá vôi Sơn La, vùng ven biển Nam Trung Bộ,
vườn Quốc gia Ba Bể, Cát Bà, Bến En, Phong Nha, Cát Tiên, Yok Đôn, Phong Nha Kẻ Bàng,... do nhiều tác giả công bố trong những năm gần đây 1999-2010. Ngoài
những công trình là các bài báo, một số tác giả đã công bố các kết quả nghiên cứu về
đa dạng thực vật dưới dạng sách chuyên khảo như Phùng Ngọc Lan, Nguyễn Nghĩa
Thìn và Nguyễn Bá Thụ đã công bố cuốn sách "Tính đa dạng thực vật Cúc Phương"
(1997), Nguyễn Nghĩa Thìn và Mai Văn Phô công bố cuốn "Đa dạng sinh học khu hệ

Nấm và Thực vật ở Vườn quốc gia Bạch Mã" (2003), Nguyễn Nghĩa Thìn và Nguyễn
Thanh Nhàn đã công bố cuốn “Đa dạng thực vật ở Vườn Quốc gia Pù Mát, Nghệ An”
(2004), Phân viện điều tra quy hoạch rừng công bố cuốn “Tài nguyên Động thực vật
rừng vườn quốc gia Côn Đảo” (2004), Nguyễn Nghĩa Thìn và Đặng Quyết Chiến với
“Đa dạng thực vật ở Khu BTTN Na Hang - Tuyên Quang” (2006), Nguyễn Nghĩa
Thìn và cộng sự với “Đa dạng sinh học VQG Hoàng Liên” (2008),...
Về đa dạng các đơn vị phân loại: Trên phạm vi cả nước Nguyễn Tiến Bân (1990)
đã thống kê và đi đến kết luận thực vật Hạt kín trong hệ thực vật Việt Nam hiện biết
8500 loài, 2050 chi trong đó lớp Hai lá mầm 1590 chi và trên 6300 loài, lớp Một lá
mầm 460 chi với 2200 loài [ghi theo 6]. Phan Kế Lộc (1998) đã tổng kết hệ thực vật

9


Việt Nam có 9628 loài cây hoang dại có mạch, 2010 chi, 291 họ, 733 loài cây trồng,
như vậy tổng số loài lên tới 10361 loài, 2256 chi, 305 họ chiếm 4%, 15% và 57% tổng
số các loài, chi và họ của thế giới. Ngành Hạt kín chiếm 92,47% tổng số loài, 92,48%
tổng số chi và 85,57% tổng số họ. Ngành Dương xỉ kém đa dạng hơn theo tỷ lệ 6,45%,
6,27%, 9,97% về loài, chi, họ. Ngành Thông đất đứng thứ 3 (0,58%) tiếp đến là ngành
Hạt trần (0,47%) hai ngành còn lại không đáng kể về họ, chi và loài [ghi theo 6].
Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) đã tổng hợp và chỉnh lý các tên theo hệ thống Brummitt
(1992) và chỉ ra hệ thực vật Việt Nam hiện biết 11.178 loài, 2582 chi, 395 họ thực vật
bậc cao và 30 họ có trên 100 loài với tổng số 5732 loài chiếm 51,3% tổng số loài của
hệ thực vật [3].
1.4. Một số công trình nghiên cứu đa dạng hệ thực vật tại Khu BTTN Bát Xát
Ở Khu BTTN Bát Xát, tỉnh Lào Cai cho đến nay, chỉ mới có một công trình
nghiên cứu hiện trạng tài nguyên sinh vật do các nhà nghiên cứu nhằm xây dựng quy
hoạch và thành lập Khu BTTN Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
Bước đầu ghi nhận được 940 thực vật bậc cao có mạch thuộc 550 chi và 156 họ
thuộc 6 ngành thực vật. Như vậy, trong tổng số 7 ngành thực vật được xác định phân bố

ở Việt Nam, thì khu đề xuất BTTN Bát Xát đã ghi nhận được 6 ngành, chiếm 85,71% về
số ngành, trong đó ngành có số lượng cá thể đóng vai trò chủ đạo trong cấu trúc hệ thống
thực vật Bát Xát thuộc về ngành Mộc lan - Magnoliophyta 851 loài chiếm 90,53% tổng
số loài ghi nhận được, kế tiếp là ngành Dương xỉ - Polypodiophyta 71 loài chiếm 7,55%,
ngành Thông đất – Lycopodiophyta 11 loài chiếm 1,17%, ngành Thông – Pilophyta 5
loài chiếm 0,53%, các ngành có 01 loài gồm ngành Cỏ tháp bút – Equisetophyta,
Khuyết lá thông - Psilotophyta. Hệ thực vật Bát Xát không chỉ đa dạng về thành phần
loài, mà thành phần họ thực vật cũng rất phong phú với 156 họ, đem so sánh với số
họ thực vật Việt Nam thì Bát Xát chiếm tới 41,27% (hệ thực vật Việt Nam có 378
họ). [3]
Bên cạnh giá trị đa dạng về thành phần loài, hiếm có khu hệ thực vật ở nơi khác
có được là sự xuất hiện quần thể trên 30 cá thể Thiết sam – Tsuga dumosa (D.Don)
Eichler với đường kính ngang ngực trên dưới 1 mét, ở độ cao từ 1800-1900m tại tiểu
khu 62 thuộc xã Dền Sáng. Ngoài ra, còn phát hiện các loài Đỗ quyên mộc hoa trắng Rhododendron arboreum Sm. ssp. delavayi, Đỗ quyên mộc hoa đỏ - Rhododendron

10


arboreum ssp. cinnamomeum với các cá thể có đường kính từ 30-60cm mọc phổ biến
trong kiểu rừng kín lá rộng thường xanh á nhiệt đới. [3]
Nhìn chung, các nghiên cứu về đa dạng thực vật và nguồn tài nguyên thực vật ở
Khu vực nghiên cứu còn chưa được tiến hành, đặc biệt là các nghiên cứu về đề xuất
giải pháp bảo tồn tính đa dạng thực vật. Xuất phát từ những lý do trên, việc triển khai
đề tài nhằm đánh giá đầy đủ, toàn diện và hệ thống tính đa dạng thực vật tại Khu
BTTN Bát Xát, và đề xuất các giải pháp bảo tồn chúng là hết sức cần thiết. Đề tài
nghiên cứu sẽ góp phần bổ sung và hoàn thiện thêm cho danh lục thực vật Khu BTTN
Bát Xát, cung cấp những thông tin về đa dạng thực vật ở khu vực, làm cơ sở cho công
tác quản lý, bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên thực vật có trong khu vực.
1.5. Tổng quan về khu vực nghiên cứu - Khu Bảo tồn thiên nhiên Bát Xát, tỉnh
Lào Cai

1.5.1. Đặc điểm tự nhiên [11]
a. Vị trí, địa hình tự nhiên
Khu BTTN Bát Xát có diện tích 18.637 ha, nằm về phía Tây Bắc của huyện Bát
Xát, tỉnh Lào Cai, thuộc phần đầu của dãy núi Hoàng Liên Sơn, trên địa giới hành
chính của 5 xã: Y Tý, Dền Sáng, Sàng Mao Sáo, Trung Lèng Hồ và Nậm Pung thuộc
huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Diện tích rừng là 15.285,05 ha, diện tích đất trống là
3.352 ha; bao gồm 20 tiểu khu: 65, 66, 69, 73, 81, 80, 88, 94, 100, 104, 106, 108, 113,
115, 117, 120, 121, 107, 118. Trong đó:
+ Diện tích đất rừng của xã Y Tý: 2.631 ha.
+ Diện tích đất rừng của xã Dền Sáng: 1.120,26 ha.
+ Diện tích đất rừng của xã Sàng Ma Sáo: 3.201 ha.
+ Diện tích đất rừng của xã Trung Lèng Hồ: 11.138,74 ha.
+ Diện tích đất rừng của xã Nậm Pung: 546 ha.
- Có tọa độ địa lý:
+ Từ 22 o 23' đến 22 o 37' vĩ độ Bắc
+ Từ 103 o 31' đến 103 o 43' kinh độ Đông.
- Phía Đông giáp phần đất còn lại của xã Trung Lèng Hồ, Sàng Ma Sáo, Dền
Sáng, Nậm Pung và xã Mường Hum (thuộc huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai).
- Phía Tây giáp xã Sín Súi Hồ (huyện Phong Thổ, Lai Châu), xã Hầu Thầu, Tả
Lèng (huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu) và Trung Quốc.

11


- Phía Nam giáp xã Bình Lư (huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu).
- Phía Bắc giáp phần đất còn lại của xã Y Tý (huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai)

Hình 1.1. Bản đồ hiện trạng rừng Khu BTTN Bát Xát, tỉnh Lào Cai

12



b. Địa hình địa mạo
Địa hình Khu BTTN Bát Xát tương đối phức tạp, được kiến tạo bởi nhiều dải núi
cao, chia cắt mạnh, độ dốc lớn (trung bình từ 20-250), có hướng thấp dần về phía
Đông Nam. Điểm cao nhất có độ cao 3.059 m thuộc xã Trung Lèng Hồ, trên ranh giới
giữa hai tỉnh Lào Cai và Lai Châu, điểm thấp nhất có độ cao 700 m, độ cao trung bình
từ 1.200-1.800 m. Trong KBT có 03 kiểu địa hình chính, như sau:
- Kiểu địa hình núi cao (N1): Có diện tích 15.207,8 ha (chiếm 81,6% tổng diện
tích khu KBT), phân bố ở độ cao trên 1.700 m, và về phía Tây nam của địa hình bị
chia cắt mạnh, có nhiều đỉnh cao với sườn dốc đứng. Đây là khu vực có diện tích rừng
tự nhiên khá tập trung, có hệ động thực vật phong phú, đa dạng, đặc trưng cho vùng có
hệ sinh thái á nhiệt đới núi cao của miền Bắc Việt Nam.
- Kiểu địa hình núi cao trung bình (N2): Có diện tích 2.646,4 ha (chiếm 14,2%
tổng diện tích tự nhiên KBT), phân bố ở độ cao từ 700m-1.700m và tập trung ở phía
trung tâm KBT. Kiểu này được hình thành trên đá biến chất, chịu tác dụng xâm thực
mạnh, mức độ chia cắt khá phức tạp, độ dốc trung bình trên 300.
- Kiểu địa hình thung lũng (T1) và máng trũng (T2): Có diện tích 782,8 ha (chiếm
4,2% tổng diện tích tự nhiên KBT). Đó là những lòng thung lũng hẹp, phân bố rải rác
trong KBT, độ cao cũng như độ dốc giảm dần theo chiều nước chảy của các suối, có
nhiều bãi bồi khá bằng phẳng và màu mỡ.
c. Khí hậu, thủy văn
Khu BTTN Bát Xát nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nhưng do ảnh
hưởng của địa hình vùng núi cao, nên khí hậu của khu vực mang tính chất của khí hậu
tiểu vùng cận nhiệt đới và ôn đới ẩm. Mùa nóng từ tháng 5 đến tháng 10, mùa lạnh từ
tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Các đặc trưng cơ bản về khí hậu của khu vực cụ thể
như sau:
- Chế độ nhiệt: Nhiệt độ trung bình hàng năm là 15,4 oC, vào các tháng mùa hè
nhiệt độ trung bình từ 18÷200C, vào các tháng mùa đông từ 10÷120C. Nhiệt độ tối cao
330C (vào tháng 4, ở các vùng thấp); nhiệt độ tối thấp tuyệt đối từ 1÷20C. Nhiệt độ

thấp từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau, trên các đỉnh núi cao nhiều khi nhiệt độ xuống
dưới 00C và có tuyết rơi. Tổng tích ôn trong năm từ 7.500÷7.8000C.

13


- Chế độ mưa, ẩm: Lượng mưa bình quân năm là 2.819mm, cao nhất 3.838 mm
và phân bố không đều qua các tháng; số ngày mưa trung bình năm 199,4 ngày và diễn
biến không đều giữa các mùa. Mùa hè mưa nhiều chiếm tới 80÷85% tổng lượng mưa
cả năm, mùa đông lạnh có mưa nhỏ. Độ ẩm không khí tương đối bình quân hàng năm
từ 82÷87%, tháng thấp nhất 74%, cao nhất trong năm 95%.
- Chế độ nắng: Tổng số giờ nắng trung bình năm 1.344 giờ, năm cao nhất lên đến
1.600 giờ. Số ngày nắng không đều giữa các tháng, mùa hè số giờ nắng nhiều, tháng 4
hàng năm nắng nhất khoảng từ 180÷200 giờ, tháng 10 là tháng nắng ít nhất khoảng từ
30÷40 giờ. Lượng bốc hơi nước trung bình năm là 865,5mm.
- Chế độ gió: Khu vực nghiên cứu có hai hướng gió chính và được phân bố theo
mùa, mùa hè có gió Tây và Tây Bắc, mùa đông có gió Bắc và Đông Bắc, tốc độ gió
trung bình khoảng 1,1m/s.
- Sương mù, sương muối: Sương mù thường xuất hiện phổ biến trong năm, đặc
biệt vào mùa đông một số nơi có mức độ rất dày. Bình quân trong năm có khoảng 160
ngày có sương mù; trong năm bình quân có khoảng 6 ngày có sương muối, nhưng đôi
khi có đợt kéo dài từ 3 đến 5 ngày, cao nhất tới 11 ngày.
- Tuyết, mưa đá: Tần suất xuất hiện mưa tuyết từ 2÷4 lần/năm, những ngày rét
đậm trong mùa đông, nhiệt độ xuống thấp trên các đỉnh cao > 2.500m thường có tuyết
phủ, đôi khi tuyết phủ xuống tới độ cao 1500m. Vào tháng 4, 5 thường có mưa đá,
bình quân trong năm từ 2÷4 lần/năm có mưa đá, đường kính hạt đá trung bình 1,0 cm
và gây nhiều thiệt hại cho rau, màu, hoa cảnh.
Các suối chính trong khu vực như: Lũng Pô, Sim San bắt nguồn từ phía Nam dãy
núi Nhìu Cồ San; suối Sín Chải bắt nguồn từ dãy núi Phan Cán Sử, Mò Phú Chải; suối
Lủng Pặc là nhánh nhỏ của suối Lũng Pô bắt nguồn từ dãy núi Ma Cheo Va; suối Tùng

Sáng chảy trong địa phận xã khoảng 6,5 km theo hướng Đông Bắc; suối Dền Sáng bắt
nguồn từ dãy núi giáp ranh giữa hai xã (Dền Sáng, Y Tý) chảy theo hướng Tây Bắc –
Đông Nam; suối Nhìu Cồ San bắt nguồn từ địa phận xã Sàng Ma Sáo chảy qua địa
phận xã Dền Sáng với chiều dài 1,5 km và đổ ra suối Dền Sáng; suối Nậm Giàng là
nhánh của suối Dền Sáng bắt nguồn từ dẫy núi Lử Thẩn.
1.5.2. Điều kiện kinh tế, xã hội [11]
a. Dân tộc

14


Sinh sống trong Khu BTTN Bát Xát, tỉnh Lào Cai có 08 dân tộc anh em, trong đó
dân tộc H’Mông chiếm khoảng 45,08%, tập trung chủ yếu ở xã Sàng Ma sáo, Trung
Lèng Hồ; người Dao chiếm 33,67%, sống chủ yếu ở xã Dền Sáng; người Hà Nhì
chiếm 18,54%, sống chủ yếu ở xã Y Tý và xã Nậm Pung; người Kinh 2,67%.
Các dân tộc đã có quá trình định cư lâu đời, có giao lưu cả về kinh tế, văn hóa và
hôn nhân... nhưng vẫn bảo tồn những nét đặc trưng riêng về văn hóa như: Phong tục
canh tác, tôn giáo tín ngưỡng, ngôn ngữ, trang phục, sinh hoạt văn hóa dân gian,...
Những nét văn hóa riêng mang đậm bản sắc dân tộc như: Nhà trình tường gồm 4 mái
của người Hà Nhì, lễ hội "xuống đồng" của người Hà Nhì, tục “bắt vợ”, “cưới hỏi” và
“buộc chỉ cổ tay cô dâu” của người H’Mông, lễ hội"gầu tào" của người H’Mông,... đã
tạo ra các hoạt động văn hóa phong phú, đa dạng giàu bản sắc văn hoá dân tộc. Đó là
những giá trị văn hoá phi vật thể quý giá cần phải gìn giữ và phát triển, là nguồn tài
nguyên nhân văn có thể khai thác phục vụ cho phát triển du lịch sinh thái nhân văn
đang được du khách ưa chuộng.
b. Dân số và lao động
- Dân số và phân bố dân cư
Trên địa bàn vùng dự án xác lập Khu BTTN Bát Xát có 2.729 hộ, với 15.029
nhân khẩu và phân bố trên 44 thôn bản; bình quân từ 56 người/hộ. Mật độ dân số
trung bình là 44,48 người/km2, nhưng phân bố không đồng đều giữa các xã. Tại các xã

có ít diện tích đồi và núi đá thì mật độ dân số rất cao (xã Y Tý 54,62 người/km2) và
ngược lại các xã có nhiều đồi núi thì mật độ dân số giảm nhiều (xã Trung Lèng Hồ
15,14 người/km2). Tỷ lệ tăng dân số trung bình năm 2012 trong khu vực 05 xã là
1,82%, bao gồm cả tăng dân số tự nhiên và tăng dân số cơ học.
- Lao động và cơ cấu lao động
Theo thống kê số người trong độ tuổi lao động trong 05 xã là 8.112 người, chiếm
tỷ lệ 55,1% tổng dân số, trong đó lao động nữ chiếm 50,82%, lao động nam chiếm
49,18%. Đây là tỉ lệ tương đối cao so với một số vùng khác, nguyên nhân do cơ cấu
dân số lứa tuổi trẻ chiếm tỉ lệ cao (trên 69% dân số là lứa tuổi dưới 35).
Về cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế: Phần lớn lao động trong ngành nông
- lâm nghiệp chiếm 97,71%, còn lại lao động tham gia vào các ngành kinh tế khác
chiếm 2,29% so với tổng số lao động xã hội; số người trong độ tuổi đang lao động

15


×