Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Ảnh hưởng của biến động tỷ giá hối đoái tới hoạt động xuất nhập khẩu ở việt nam trong thời gian qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 99 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Tên đề tài:
ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỘNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI HOẠT
ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA

Sinh viên thực hiện

: Nguyễn Văn Tuệ

Lớp

: Nhật 3 K 37C
Giáo viên hướng dẫn : Thạc sỹ Phạm Thu

Hương


HÀ NỘI, 12/2002

MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu--------------------------------------------------------------------------- 4
Chương I: Lý luận chung về tỷ giá hối đoái----------------------------------- 6
I: Tỷ giá hối đoái-------------------------------------------------------------------- 6
1. Khái niệm------------------------------------------------------------------------ 6
2. Phương pháp yết tỷ giá-------------------------------------------------------- 7
3. Phân loại tỷ giá hối đoái------------------------------------------------------- 8
4. Sự hình thành và phát triển của hệ thống tỷ giá hối đoái trên thế giới- 9


II. Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu------14
1. Nhập khẩu, xuất khẩu và tỷ giá hối đoái------------------------------------14
1.1.Sự hình thành đường cung tiền tệ---------------------------------------14
1.2.Sự hình thành đường cầu tiền tệ-----------------------------------------15
2. Các nhân tố ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái----------------------------------17
2.1.Sự ổn định trong tốc độ tăng trưởng kinh tế---------------------------17
2.2.Trạng thái cán cân thanh toán quốc tế----------------------------------18
2.3 Mức chênh lệch lạm phát------------------------------------------------20
2.4.Sự thay đổi lãi suất trong nước------------------------------------------25
2.5. Đầu tư nước ngoài, dịch vụ, chuyển tiền------------------------------26
-----------------------------------------------------------------------------------2.6. Kiểm soát của chính phủ-------------------------------------------------27
2.7. Một số nhân tố khác------------------------------------------------------29
3. Ảnh hưởng của biến động tỷ giá tới hoạt động xuất nhập khẩu---------30
3.1 Khi tỷ giá biến động tăng, đồng bản tệ giảm giá----------------------30
3.2 Khi tỷ giá biến động giảm, đồng bản tệ lên giá-----------------------32
Chương II: Tỷ giá hối đoái với hoạt động xuất nhập khẩu của việt nam

2


trong thời gian qua-----------------------------------------------------------------34
I. Tổng quan về xuất nhập khẩu của việt nam từ 1989 tới nay-----------34
II.Tác động của biến động tỷ giá tới hoạt động xuất nhập khẩu trong
thời gian vừa qua--------------------------------------------------------------------39
1.Giai đoạn trước 1989-----------------------------------------------------------39
2.Giai đoạn 1989- 1992----------------------------------------------------------44
3.Giai đoạn1993- 1996-----------------------------------------------------------50
4.Giai đoạn 1997-1999-----------------------------------------------------------55
5.Giai đoạn 2000 đến nay--------------------------------------------------------57


III. Các quan điểm về tỷ giá từ góc độ tác động đến hoạt động xuất
nhập khẩu----------------------------------------------------------------------------61
1.Thực tế kinh tế Việt Nam hạn chế sự phát huy vái trò của chính sách tỷ
giá trong hoạt động xuất nhập khẩu--------------------------------------------61
2.Các quan điểm về tỷ giá--------------------------------------------------------63
Chương III: Xu hướng và các giải pháp nhằ nâng cao vai trò của tỷ
giá hối đoái trong hoạt động xuất nhập khẩu---------------------------------68
I Xu hướng biến động của tỷ giá USD/VND trong thời gian tới---------68
II.Những giải pháp nhằm nâng cao vai trò của tỷ giá hối đoái trong hoạt
động xuất nhập khẩu ở việt nam------------------------------------------------70
1.Những giải pháp mang tính vĩ mô-------------------------------------------71
2.Những giảp pháp đối với những doanh nghiệp kinh doanh XNK-------74
III. Một số kiến nghị----------------------------------------------------------------85
1. Kiến nghị đối với ngân hàng nhà nước và các cơ quan quản lý vĩ mô- 85
2. Kiến nghị đối với những doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu- - -89
Kết luận---------------------------------------------------------------------------------------------90
Tài liệu tham khảo------------------------------------------------------------------92

3


LỜI NÓI ĐẦU
Lịch sử phát triển và vai trò của tỷ giá hối đoái gắn liền với qúa trình lớn
mạnh không ngừng của nền kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế. Cũng
giống như vai trò của giá cả trong nền kinh tế thị trường, tỷ giá hối đoái có tác
động quan trọng tới những biến đổi của nền kinh tế thế giới nói chung và nền
kinh tế của mỗi quốc gia nói riêng. Nó có thể thay đổi vị thế và lợi ích của các
nước trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Tỷ giá hối đoái trực tiếp tác động đến sự thăng bằng trong cán cân thanh
toán quốc tế của một quốc gia, mà trước hết là những thay đổi trong cán cân

tài khoản vãng lai. Người ta thường nhận thấy rằng cán cân thương mại (Nội
dung chủ yếu của cán cân tài khoản vãng lai) của một nước có thể xấu đi hay
tốt lên khi có những biến động của tỷ giá hối đoái, nếu tỷ giá hối đoái tăng
(đồng nội tệ mất giá) thì sẽ khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu như
vậy cán cân thanh toán quốc tế của một nước sẽ được cải thiện và ngược lại
nếu tỷ giá hối đoái giảm (đồng nội tệ lên giá) thì sẽ hạn chế xuất khẩu và
khuyến khích nhập khẩu làm cho cán cân thanh toán trở nên xấu đi.
Trong điều kiện giới hạn về thời gian cũng như nhận thức, với bản khoá
luận tốt nghiệp này em muốn phác họa bức tranh chung về tình hình tỷ giá hối
đoái và hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong từng giai đoạn phát
triển. Và qua việc phân tích mối quan hệ mật thiết giữa hai nhân tố này muốn
phần nào thể hiện vai trò của chính sách tỷ giá trong việc nâng cao hiệu quả
của hoạt động xuất nhập khẩu ở nước ta. Từ đó mạnh dạn đề ra những điểm
còn yếu trong chính sách tỷ giá của Việt Nam hiện nay cần phải khắc phục và
một số giải pháp, kiến nghị nhằm giải quyết vấn đề còn tồn tại đó cho phù

4


hợp với nhịp độ phát triển và đổi mới kinh tế chính trị trong tương lai của đất
nước cũng như trong khu vực và trên thế giới.
Tuy nhiên vấn đề tỷ giá hối đoái và tác động của nó tới nền kinh tế nói
chung và tới hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng ở Việt Nam hiện nay còn là
một vấn đề phức tạp và cần được nghiên cứu kỹ càng bởi vậy bản khoá luận
tốt nghiệp này chỉ đề cập được một khía cạnh nào đó của vấn đề và không thể
không tránh khỏi những điểm khiếm khuyết. Em rất mong nhận được những ý
kiến đóng góp quý báu của các thầy cô giáo và bè bạn.
Hoàn thành bản khoá luận tốt nghiệp này xin cho phép em được bày tỏ
lòng biết ơn chân thành tới cô giáo Phạm Thu Hương đã tận tình chỉ bảo
hướng dẫn em trong suốt quá trình làm bản khoá luận này.

Đồng thời em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo của trường Đại học
Ngoại Thương, những người đã cung cấp cho em những kiến thức quý báu
trong suốt khoá học vừa qua.
Hà Nội, tháng 11/ 2002
Nguyễn Văn Tuệ

5


6


CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
Một điều hiển nhiên là, nếu tỷ giá hối đoái không biến động, mà luôn là
một giá trị cố định, thì chẳng ai cần phải bận tâm nghiên cứu. Hơn nữa, nếu tỷ
giá không thay đổi, thì các ngân hàng, các công ty và cá nhân không cần phải
tốn kém nhiều thời gian quý báu vào việc xử lý các giao dịch, quản trị rủi ro
ngoại hối, các chính phủ cũng chẳng cần phải quan tâm tới vấn đề này. Tiếc
thay, tỷ giá hối đoái lại là một trong nhưng nhân tố hay biến động nhất, và
trong nhiều giai đoạn sự biến động của nó là vô lối và khủng khiếp. Chúng ta
có thể nêu ví dụ đối với những đồng tiền được biết đến rộng rãi và được sử
dụng nhiều nhất trên thế giới là USD và JPY, như sau: vào tháng 12/1978, 1
USD đổi được 195 JPY, đã tăng 36% vào tháng 12/1982 để 1 USD đổi được
265 JPY, và sau đó lại giảm 53% vào tháng 12/1987 để 1 USD đổi được 124
JPY; chỉ tính từ giữa năm 1990 đến đầu năm 1991, tỷ giá của USD đang từ
160 JPY đã giảm xuống còn 135 JPY.v.v.
Trong phạm vi một bản khoá luận tốt nghiệp, chương này chúng ta tập
trung nghiên cứu những vấn đề liên quan tới tỷ giá hối đoái như tỷ giá hối
đoái là cái gì? lịch sử hình thành và phát triển của nó ra sao? Những nhân tố

nào tác động đến sự thay đổi của tỷ giá hối đoái và khi tỷ giá hối đoái biến
động thì nó tác động tới hoạt động xuất nhập khẩu của một quốc gia như thế
nào?
I. TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
1.Khái niệm.
Cho đến nay, mặc dù nền kinh tế thế giới đã được quốc tế hoá mạnh mẽ,
vấn đề mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại đã trở thành quy luật tất yếu trong
qúa trình phát triển kinh tế của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, nhưng hầu
hết các quốc gia hay nhóm các quốc gia vẫn sử dụng đồng tiền riêng của
mình. Vì vậy, để giải quyết và thực hiện các mối quan hệ kinh tế, mà trước hết
là quan hệ mua bán trao đổi hàng hoá- dịch vụ và đầu tư giữa các nước hay

7


các nhóm nước với nhau, đồng tiền của các quốc gia vẫn phải được chuyển
hoá lẫn cho nhau. Mối tương quan theo đó mà đồng tiền các nước được
chuyển đổi cho nhau theo một tỷ lệ nhất định nào đó để thực hiện các thanh
toán phục vụ cho việc giao dịch, buôn bán, trao đổi và chuyển vốn quốc tế thì
được gọi là tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này được đo lường
bằng những đơn vị tiền tệ khác.
Ví dụ: Vào ngày 17/7/2002 tỷ giá bán ra của các ngoại tệ - Đồng tại ngân
hàng ngoại thương Việt Nam là 1 EUR =15.596 VND, 1 USD = 15.303VND.
2.Phương pháp yết giá.
Theo tập quán kinh doanh tiền tệ của ngân hàng, tỷ giá hối đoái thường
được yết giá như sau:
USD/DEM = 1,4125/35
USD/VND = 15.303/503
Trong đó USD đứng trước gọi là tiền yết giá và là một đơn vị ngoại tệ.

Các đồng DEM, VND đứng sau gọi là tiền định giá và là một số đơn vị ngoại
và thường thay đổi phụ thuộc vào thời giá của đồng tiền yết giá. Tỷ giá đứng
trước 15.303 là tỷ giá mua đô là và trả bằng VND, và được gọi là tỷ giá mua
vào của ngân hàng (BID RATE). Tỷ giá đứng sau 15.503 là tỷ giá bán đô la và
thu VND, gọi là tỷ giá bán ra của ngân hàng (OFER RATE). Trên thực tế có
nhiều các yết tỷ giá nhưng chủ yếu là hai phương pháp: yết tỷ giá trực tiếp và
yết tỷ giá gián tiếp.
2.1. Phương pháp yết giá trực tiếp.
Là phương pháp yết tỷ giá sao cho: giá cả một đơn vị ngoại tệ, đóng vai trò

hàng hoá được yết giá một cách trực tiếp thông qua đồng bản tệ.
Ví dụ: USD/VND = 15.303, tức là 1 USD bằng 15.303 VND
2.2. Phương pháp yết giá gián tiếp.

8


Là phương pháp yết giá đồng bản tệ bằng khối lượng ngoại tệ, sao cho giá
cả của một đơn vị ngoại tệ không được bộc lộ ra bên ngoài, chúng ta không
thể biết ngay được giá cả của một đơn vị ngoại tệ.
Ví dụ : Tại Luân đôn, tỷ giá được công bố như sau:
GBP/DEM = 1,4275/25
GBP/FRF = 4,8595/15.
Như vậy với cách yết tỉ giá này, người ta chưa biết trực tiếp giá một ngoại
tệ như DEM, FRF là bao nhiêu, mà chỉ biết giá ngoại tệ DEM thể hiện trên thị
trường London là 1,427 DEM bằng 1 GBP, tức là mới chỉ thể hiện gián tiếp
mà thôi.
Muốn tìm 1 DEM, ta phải làm phép chia:
1 DEM = 1/ 1,4225 = 0,7029 GBP
1 DEM = 1/1,475 = 0,7005 GBP

Do đó, DEM/GBP = 0,7005/29.
2.3 Yết giá trên thực tế.
Tuy nhiên trong thực tế cho đến nay chưa có quy định bắt buộc nào quy
định một đồng tiền cụ thể của một nước đó phải đóng vai trò là đồng tiền yết
giá. Ngày nay, với vai trò nổi bật của nền kinh tế Mỹ, thì trên thị trường ngoại
tệ liên ngân hàng hầu hết các tỷ giá giao dịch đều được yết với USD và trong
đó USD thường đóng vai trò là đồng tiền yết giá. Mặt khác, nếu xét trên thị
trường ngoại hối quốc tế, chỉ có hai đồng tiền quốc tế là hoàn toàn được yết
giá trực tiếp đó là SDR và EURO, và trong một chừng mực nhất định thì đồng
USD cũng được coi là đồng tiền yết giá trực tiếp. Còn từ góc độ thị trường
ngoại hối quốc gia thì các nước Mỹ Anh, Ireland, New Zealand và Úc là dùng
phương pháp yết tỷ giá gián tiếp: còn các quốc gia khác đều dùng cách yết tỷ
giá ngoại tệ trực tiếp.
Ngoài hai cách yết giá chủ yếu trên chúng ta còn có thể gặp một số cách
yết giá khác chẳng hạn như yết giá kiểu Bắc Mỹ, kiểu châu Âu, quy tắc số 1,
yết giá theo phương pháp rổ tiền tệ, nhưng do giới hạn trong phạm vi bản

9


khoá luận tốt nghiệp tôi xin phép không trình bày ở đây, sẽ đề cập đến trong
một dịp khác.
3. Phân loại tỷ giá hối đoái.
Trên thực tế phát triển của nền kinh tế thị trường hiện nay cho thấy cùng
một lúc có sự tồn tại đồng thời của nhiều tỷ giá khác nhau.
- Dựa trên tiêu thức là đối tượng quản lý có tỷ giá chính thức (là tỷ giá
được Ngân hàng Trung ương (NHTW) chính thức công bố lấy làm căn cứ cho
các hoạt động giao dịch, kinh doanh, thống kê, kế toán.) và tỷ giá thị trường
(tỷ giá được hình thành dựa trên các giao dịch thực tế trên thị các trường như:
thị trường hối đoái liên ngân hàng, thị trường hối đoái tự do, thị trường tài

sản..)
- Dựa trên kỹ thuật giao dịch, về cơ bản, có hai loại tỷ giá: Tỷ giá
mua/bán ngay (việc trao đổi - mua /bán kéo theo việc thanh toán ngay trên các
khoản tiền) và tỷ giá mua/bán kỳ hạn (việc trao đổi - mua/bán không đi cùng
với việc thanh toán ngay các khoản tiền mà chúng được thanh toán vào một
ngày tương lai xác định nào đó)
- Nghiên cứu về sự vận động và tác động của tỷ giá, tỷ giá được thông
qua các khái niệm: tỷ giá danh nghĩa (được biểu hiện cụ thể ở tỷ giá giữa các
đồng tiền với nhau, đồng tiền này bằng bao nhiêu đồng tiền kia) và tỷ giá thực
(là giá trị tính bằng cùng một đồng tiền của hàng hoá xuất khẩu so với hàng
hoá nhập khẩu) phản ánh sức mua thực tế của mỗi đồng tiền hoặc tỷ giá hữu
hiện thực là tỷ giá thực có ảnh hưởng của trọng số ngoại thương.
- Căn cứ vào phương pháp chuyển ngoại hối có tỷ giá điện hối (là tỷ giá
chuyển ngoại hối bằng điện tín. Đây chính là tỷ giá được niêm yết tại các
ngân hàng) và tỷ giá thư hối (là tỷ giá chuyển ngoại tệ bằng thư)
- Tỷ giá xuất khẩu (được tính bằng tỷ số giữa bán buôn xí nghiệp cộng
thuế xuất khẩu tính bằng nội tệ và giá bán hàng xuất khẩu theo điều kiện
F.O.B tính bằng nội tệ) và tỷ giá nhập khẩu (là tỷ giá được tính bằng tỷ số

10


giữa giá bán hàng nhập khẩu tại cảng bằng nội tệ và giá cả nhập khẩu theo
điều kiện CIF).
4. Sự hình thành và phát triển của hệ thống tỷ giá hối đoái trên thế giới
Tỷ giá hối đoái đã có một lịch sử phát triển lâu dài. Có thể nói, quá trình
hình thành và phát triển của tỷ giá hối đoái gắn liền với lịch sử phát triển của
nền kinh tế và thương mại thế giới. Cho đến nay, có thể chia lịch sử phát triển
của tỷ giá hối đoái thành 3 loại chế độ tỷ giá khác nhau: chế độ tỷ giá hối đoái
cố định "bản vị vàng", chế độ tỷ giá cố định "bản vị hối đoái đồng Đô

la"(còn gọi là chế độ tỷ giá Bretton Woods), chế độ tỷ giá "thả nổi" hay còn
gọi là chế độ tỷ giá linh hoạt.
4.1 Chế độ bản vị vàng 1875 - 1944.
Trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất, thương mại và thanh toán quốc tế
được thực hiện dựa trên chế độ tỷ giá hối đoái "bản vị vàng". Chế độ tỷ giá
hối đoái "bản vị vàng" có 3 đặc điểm nổi bật:
- Một là, chính phủ mỗi nước cố định giá vàng tính bằng đồng tiền trong
nước của họ.
- Hai là chính phủ mỗi nước duy trì khả năng chuyển đổi đồng tiền trong
nước ra vàng.
- Ba là, các chính phủ cố tuân theo quy tắc gắn liền việc phát hành đồng
tiền với lượng dự trữ vàng nhà nước nắm giữ. Những đặc điểm này của chế
độ tỷ giá hối đoái "bản vị vàng" tạo nên chế độ tỷ giá hối đoái danh nghĩa cố
định.
Ví dụ: vào thời gian đó, 1 Đô la tiền giấy của Mỹ có thể quay trở lại
Kho bạc Mỹ và được đổi ra gần bằng 1/20 lạng vàng. Cũng như vậy, Kho bạc
Anh sẽ đổi 1/4 lạng vàng cho 1 Bảng Anh. Từ đó tỷ giá giữa Bảng Anh và Đô
la Mỹ được ấn định ở mức 5 Đô la bằng 1 Bảng Anh. Chế độ tỷ giá hối đoái
"bản vị vàng" có những ưu điểm nổi bật là thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ
của thương mại thế giới vì nó không chịu sự cản trở được gây ra bởi yếu tố rủi
ro hối đoái. Chế độ tỷ giá hối đoái "bản vị vàng" cũng góp phần tạo ra một

11


môi trường giá cẩ ổn định để thu hút đầu tư nước ngoài và thúc đẩy nền kinh
tế phát triển. Nhưng việc gắn chặt các đồng tiền vào vàng đã làm cho chế độ
tỷ giá hối đoái "bản vị vàng" ngày càng trở nên không phù hợp với sự phát
triển của nền kinh tế thế giới. Khối lượng vàng thế giới sản xuất ra ngày càng
không đủ để đo lường khối lượng hàng hoá- dịch vụ mà các nước sản xuất ra.

Dần dần đồng tiền của các nước không còn được đảm bảo bằng vàng trên
thực tế. Nhưng điều quan trọng hơn đã dẫn đến yêu cầu phải thay đổi chế độ
tỷ giá hối đoái "bản vị vàng" là vì chế độ tỷ giá này không còn phản ánh được
mối quan hệ kinh tế thay đổi mạnh mẽ giữa các nước.
4.2. Chế độ tỷ giá Bretton Woods 1945-1972.
Chế độ tỷ giá hối đoái "bản vị vàng" đã thực sự làm thương tổn đến nền
kinh tế nhiều nước và góp phần gây ra những giai đoạn suy thoái lâu dài, sâu
sắc vào những năm đầu của thế kỷ 20, như cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 1933 có tính chất hệ thống của các nước Tư bản chủ nghĩa. Trên thực tế thì
sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, chế độ tỷ giá hối đoái "bản vị vàng"
đã thực sự sụp đổ, đẩy hệ thống thanh toán quốc tế rơi vào giai đoạn khủng
hoảng cho đến kết thúc cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai Trước khi kết
thúc chiến tranh thế giới lần thứ hai, hội nghị 44 nước họp tại Bretton Woods,
bang New Hampshise của Mỹ, để thiết lập một hệ thống tiền tệ thế giới mới
nhằm thúc đẩy sự phát triển của thương mại quốc tế. Chế độ tỷ giá hối đoái
mới "bản vị hối đoái vàng" đã cố gắng đổi mới việc đo lường giá trị đồng tiền
của các nước trong quan hệ kinh tế quốc tế bằng cách gắn nó vào đồng Đô la
Mỹ với phạm vi dao động cho phép 1%, thay thế cho vàng. Quy ước dự trữ
ngoại tệ của các nước có thể đổi thành vàng thông qua tỷ giá với đồng Đô la
Mỹ, trên cơ sở giá 1 Ounce vàng = 35 USD. Hệ thống tỷ giá hối đoái Bretton
Woods đã tồn tại suốt một thời gian dài cho đến đầu những năm 70. Về cơ bản
cũng giống như chế độ "bản vị vàng", chế độ tỷ giá hối đoái Bretton Woods là
chế độ tỷ giá cố định, trong đó tỷ giá hối đoái danh nghĩa được duy trì không
thay đổi trong dài hạn. Bằng cơ chế can thiệp của ngân hàng trung ương và

12


các thể chế tài chính vào thị trường ngoại hối, thông qua việc thay đổi quỹ dự
trữ ngoại tệ để duy trì tỷ giá cố định. Khi tỷ giá thay đổi có xu hướng làm
giảm giá đồng tiền một nước thì Ngân hàng Trung ương nước đó sẽ tung dự

trữ ngoại tệ của mình ra để giảm bớt sức ép cung tiền trên thị trường ngoại tệ,
ngăn chặn sự thay đổi tỷ giá hối đoái nhằm duy trì sự ổn định trong giá trị
danh nghĩa của đồng nội tệ và ngược lại.Trong trường hợp ngân hàng trung
ương không còn khả năng để can thiệp, các thể chế tài chính quốc tế cụ thể là
Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) sẽ cho vay ngoại tệ để các nước giữ ổn định tỷ giá
và nếu vẫn không giữ được thì IMF sẽ buộc đồng tiền các nước này phải phá
giá. Không những thế, chế độ tỷ giá hối đoái Bretton Woods trong khi biến
đồng Đô la Mỹ thành đồng tiền dự trữ và thanh toán quốc tế, đã cột chặt nền
kinh tế và thương mại thế giới vào những thăng trầm của nền kinh tế Mỹ. Vì
vậy, ngoài những nhược điểm chung của chế độ tỷ giá cố định như: không
phản ánh được những thay đổi trong sức mua thực tế của các nước, do đó làm
sai lệch lợi thế và ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế quốc tế thực tễ của mỗi nước;
làm tê liệt khả năng sử dụng chính sách tiền tệ để can thiệp vào nền kinh tế
của các chính phủ; chế độ tỷ giá hối đoái Bretton Woods còn có nhược điểm
riêng là gây ra những thiệt hại rất lớn đối với các nước chậm phát triển (IMF
có thể buộc các nước chậm phát triển phá giá đồng tiền của mình nhưng lại
không thể buộc các nước phát triển tăng giá nhanh đồng tiền của họ) và chịu
sự chi phối rất mạnh của nền kinh tế Mỹ.
Chính vì vậy, khi nền kinh tế Mỹ rơi vào tình trạng suy thoái nghiêm
trọng đầu những năm 70, đồng USD đã phải phá giá liên tiếp 2 lần vào năm
1971 và 1972 (tháng 12/ 1971 đồng USD phá giá lần 1), từ 1USD = 0,888671
gram vàng giảm xuống còn 1USD = 0,818513 gram vàng, tương đương 8,6%;
tháng 2/1972 đồng USD phá giá lần thứ 2, giảm xuống 1 USD = 0,736662
gram vàng, tương đương 9,9%). Kết hợp với sự sa lầy của Mỹ trong cuộc
chiến tranh với Việt Nam, vào thời gian này hệ thống tỷ giá hối đoái Bretton
Woods chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa. Ngày 15/08/1971 chính phủ Mỹ đơn

13



phương tuyên bố "thả nổi" đồng USD, mặc nhiên vô hiệu hoá thoả thuận
Bretton Woods và giải thoát đồng USD khỏi sự ràng buộc với vàng trong
công thức 35 USD = 1 Ounce vàng.
4.3.Chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt từ 1973 đến nay.
Và đến ngày 15/07/1976, hội nghị các nước thành viên quỹ tiền tệ thế giới
hợp tại Jamaica, đã chính thức xác nhận cuộc "ly hôn" giữa các đồng tiền
quốc gia với vàng, xóa bỏ vĩnh viễn thoả thuận Bretton Woods về tỷ giá hối
đoái cố định và chuyển sang chế độ tỷ giá “thả nổi”.
Cơ sở cơ bản được dùng làm căn cứ xác định tỷ giá thả nổi là quan hệ cân
bằng cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Nó cũng chính là lý lẽ căn
bản của các nhà kinh tế tán thành phát triển kinh tế dựa vào cạnh tranh tự do.
Chế độ tỷ giá này cho phép xác định một tỷ giá danh nghĩa gần với sức mua
thực tế của đồng tiền các nước. Nó phản ánh tương đối sát thực những biến
đổi kinh tế của mỗi nước và sự thay đổi tương quan kinh tế giữa các nước với
nhau. Chính sách sách tỷ giá này cũng là cơ sở để thực hiện mong muốn của
những nước có khả năng theo đuổi chính sách tài chính - tiền tệ độc lập, tách
rời khỏi sự ràng buộc một cách chặt chẽ với đồng USD như trong chế độ tỷ
giá hối đoái Bretton Woods. Nhưng trong khi phản ánh được sự thay đổi trong
sức mua thực tế của các đồng tiền, có khả năng thích ứng với những biến
động của nền kinh tế và tạo khả năng thực thi chính sách tiền tệ chủ động của
chính phủ thì tỷ giá hối đoái thả nổi lại gây ra những biến động tỷ giá hết sức
bất thường, làm cho sự lên giá- xuống giá của các đồng tiền không sao dự
đoán được (làm tăng tính rủi ro của tỷ giá hối đoái). Điều này làm tăng thêm
những yếu tố gây mất ổn định trong các nền kinh tế, cản trở khả năng kiểm
soát quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế của các chính phủ.
Vì vậy trên thực tế không có sự tồn tại một chế độ tỷ giá hoàn toàn thả nổi
mà thường chỉ tồn tại chể độ tỷ giá phối hợp giữa "thả nổi" và "cố định". Đó
là chế độ tỷ giá hối đoái "thả nổi có quản lý" hay còn gọi là chế độ tỷ giá linh
hoạt- chế độ tỷ giá mà nhiều nước hiện nay đang theo đuổi. Đây là, một chế


14


độ tỷ giá trung gian giữa tỷ giá cố định với tỷ giá thả nổi, trong đó tỷ giá hối
đoái cần có khả năng phản ánh được những biến động thường xuyên và đột
ngột của các nhân tố ngắn hạn để duy trì được khả năng ổn định trong dài
hạn. Một tỷ giá hối đoái như thế đòi hỏi phải được điều chỉnh để duy trì ổn
định xung quanh một vùng mục tiêu nhất định. Vùng mục tiêu này được xác
định thay đổi ở những mức khác nhau, tuỳ thuộc vào điều kiện và trạng thái
của nền kinh tế trong những thời kỳ khác nhau.Việc áp dụng chế độ tỷ giá thả
nổi có quản lý hiện nay ở các nước không chỉ khác nhau về vùng mục tiêu,
mà còn khác nhau về sự lựa chọn các cực và cơ sở xác định tỷ giá. Khi các
nước sử dụng một hệ thống các công cụ để tác động vào thị trường ngoại hối
nhằm đạt được mục tiêu về tỷ giá hối đoái, chính là quá trình điều hành chính
sách tỷ giá hối đoái của mỗi quốc gia trong giai đoạn hiện nay.
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ HOẠT ĐỘNG XUẤT
NHẬP KHẨU
1. Nhập khẩu, xuất khẩu và tỷ giá hối đoái
1.1. Sự hình thành đường cung tiền tệ.
Cung ngoại tệ của một nước phụ thuộc vào nhu cầu từ phía nước ngoài về
hàng hoá, dịch vụ và các tài sản của nước sở tại. Chẳng hạn, khi một người
nước ngoài đi du lịch tại một nước nào đó, để chi tiêu và sinh hoạt, người đó
không thể sử dụng ngoại tệ trong việc thanh toán trên thị trường nước sở tại.
Anh ta cần phải bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối để đổi lấy một lượng
nội tệ tương ứng của nước này để thanh toán cho những nhu cầu về hàng hoá
và dịch vụ của mình. Hành vi này đã thực hiện việc cung ứng ngoại tệ cho
nước sở tại. Tương tự như vậy hành vi mua tài sản (ví dụ hàng hoá, cổ phiếu,
trái khoán...) của một nước nào đó của của các thương nhân nước ngoài là
những hành vi cung ngoại tệ trên thị trường ngoại hối của nước sở tại. Ngoài
ra mức cung ngoại tệ tiềm tàng của một nước còn bị ảnh hưởng bởi lượng tiền

gửi của những người từ nước ngoài cho người thân của họ ở nước đó dưới

15


nhiều hình thức khác nhau. Chúng ta có thể mô hình hoá những nhân tố cơ
bản tạo nguồn cung ngoại tệ của một nước bằng một hàm toán học:
S$ = ƒ(cầu của người nước ngoài về hàng hoá, dịch vụ và tài sản của một
nước,..), như vậy cung ngoại tệ của một nước bằng tổng số ngoại tệ do xuất
khẩu hàng hoá và dịch vụ của nước mình và các nguồn thu ngoại tệ
khác...Các nhân tố trong mô hình này có tương quan thuận với khả năng cung
ngoại tệ của một nước. Khi một trong các nhân tố trong mô hình trên tăng lên
(Các nhân tố khác không thay đổi), cung ngoại tệ của một nước sẽ tăng lên và
ngược lại.
Nhưng mức độ tham gia của mỗi nhân tố vào cơ cấu cung ngoại tệ của
mỗi nước thì rất khác nhau, tuỳ thuộc vào cơ cấu kinh tế đối ngoại của mỗi
nước trong từng giai đoạn và độ co giãn của các nhân tố đó với tỷ giá hối
đoái.
Mức cung ngoại tệ vào một thời điểm nhất định luôn được xác định tương
ứng với một mức giá cụ thể. Khi tỷ giá thay đổi mức cung ngoại tệ trên thị
trường ngoại hối cũng thay đổi theo. Hướng thay đổi của cung ngoại tệ trên
thị trường ngoại hối thường tương quan thuận với tỷ giá hối đoái (với điều
kiện là các hàng hoá xuất khẩu phải có co giãn với tỷ giá hối đoái. Xem xét
mối quan hệ giữa cung ngoại tệ và tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối,
chúng ta có thể xác định được đường cung ngoại tệ có hình dạng dốc lên như
đồ thị ở hình1.
Đường cung dốc lên thể hiện, ứng với một mức tỷ giá cao hơn là một mức
cung ngoại tệ trên thị trường ngoại hối cao hơn và ngược lại, một sự suy giảm
trong tỷ giá hối đoái là một mức cung ngoại tệ thấp hơn.
Hình 1: Đồ thị đường cung ngoại tệ.


16


E (USD/VND)

Trong đó:
E (USD/VND) là tỷ giá hối đoái
VND: là đồng Vn đại diện cho đồng nội tệ
USD: là đồng đô la Mỹ đại diện cho ngoại tệ
S$ : Đường cung ngoại tệ
Q$ : Lượng ngoại tệ

S$
E1
E2
Q1

Q2

Q$

1.2.Sự hình thành đường cầu tiền tệ.
Cầu tiền tệ một nước phụ thuộc vào nhu cầu của dân chúng (chính phủ,
các hãng và các cá nhân.) nước đó về hàng hoá, dịch vụ và tài sản nước ngoài.
Ví dụ, khi người Việt Nam muốn mua hàng hoá của nước ngoài, họ cần có
một lượng ngoại tệ để chi trả cho số hàng hoá đó. Do vậy, họ mang tiền đồng
đến thị trường ngoại hối để đổi ra số ngoại tệ tương ứng. Chúng ta có thể mô
hình hoá quan hệ giữa các nhân tố xác định cầu ngoại tệ với cầu tệ bằng một
hàm đại số tương tự như đối với cung ngoại tệ:

D$ = ƒ( cầu của dân chúng một nước về hàng hoá, dịch vụ và tài sản của nước
ngoài,..). Như vậy cầu về ngoại tệ của một nước sẽ bằng tổng nhu cầu ngoại tệ
để nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ và những nhu cầu về ngoại tệ khác...
Các nhân tố trong hàm cầu ngoại tệ có tương quan thuận với lượng cầu
ngoại tệ. Sự gia tăng của bất cứ nhân tố nào trong hàm cầu ngoại tệ cũng làm
cho lượng cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối gia tăng và ngược lại. Giống
như mức cung ngoại tệ, mức cầu ngoại tệ cũng luôn được xác định ở một mức
tỷ giá cụ thể vào một thời điểm xác định. Mối quan hệ giữa lượng cầu ngoại
tệ và tỷ giá hối đoái là đường cầu ngoại tệ. Trong mối quan hệ này, khi tỷ giá
hối đoái tăng lên, giá hàng hoá nhập khẩu trên thị trường nội địa trở nên
tương đối đắt hơn, do đó nhu cầu về hàng hoá nhập khẩu của nước có đồng
nội tệ sẽ giảm xuống, mức cầu ngoại tệ cũng giảm theo. Ngược lại với một
mức tỷ giá thấp hơn, giá của hàng hoá nhập khẩu sẽ trở lên tương đối rẻ hơn
làm cho nhu cầu nhập khẩu hàng hoá của nước ngoài có xu hướng tăng lên,
kéo theo mức cầu ngoại tệ tăng theo. Như vậy, giữa mức cầu ngoại tệ và tỷ
giá hối đoái có quan hệ nghịch, đường cầu có hình dạng dốc xuống.

17


Hình 2: Đồ thị đường cầu ngoại tệ
E (USD/VND)

Trong đó:
E (USD/VND) là tỷ giá hối đoái
VND: là đồng Vn đại diện cho đồng nội tệ
USD: là đồng đô la Mỹ đại diện cho ngoại tệ
D$ : Đường cầu ngoại tệ

E1

D$

E2

Q$ : Lượng ngoại tệ

Q1

Q$

Q2
$

D

Ứng với một mức tỷ giá hối đoái cụ thể trên thị trường ngoại hối là những
mức cung cầu ngoại tệ khác nhau. Trong khi tương quan giữa tỷ giá với cung
ngoại vận động cùng hướng với nhau thì tương quan giữa tỷ giá với cầu ngoại
tệ lại vận động ngược chiều nhau. Nhưng chúng sẽ tương tác với nhau để xác
định được một tỷ giá mà cả cung và cầu ngoại tệ cùng chấp nhận. Giao điểm
giữa đường cung và đường cầu ngoại tệ chỉ ra mức tỷ giá hối đoái cân bằng.
Tại đó, mức cung ngoại tệ bằng với mức cầu ngoại tệ A(E * . Q*). Đây là kết
quả tác động qua lại giữa hai nhân tố, quan hệ cung và quan hệ cầu về ngoại
tệ trên thị trường ngoại hối.
Hình 3: Đồ thị cung- cầu ngoại tệ và tỷ giá cân bằng
Trong đó:
Q2 Q3: Mức cung ngoại tệ
Q1 Q4 : Mức dư cầu ngoại tệ

E(USD/VND)

E1

E*

A

S$
D$

E2

2. Các nhân tố ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái.Q Q Q* Q Q
1
2
3
4
Lượng ngoại tệ
2.1.Sự ổn định trong tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Ngày nay khoa học kinh tế đã chỉ rõ, đối với mỗi quốc gia, sự ổn định sức
mua đối nội của đồng tiền có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp
đến sức mua đối ngoại của nó. Tuy nhiên sự ổn định này chỉ có thể là kết quả
của hàng loạt những mối liên hệ tương tác lẫn nhau giữa các nhân tố nội tại
của nền kinh tế, trong đó nổi lên hàng đầu và có tính chất quyết định vẫn là
tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Trong điều kiện hiện nay, nền kinh tế đất nước đạt được tốc độ tăng
trưởng cao khi và chỉ khi nó thực sự được hướng ngoại, mà đã nói đến nền
18


kinh tế hướng ngoại tức là nói đến việc mở rộng và đa dạng hoá các hình thức

hoạt động ngoại thương, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch
vụ, tạo nguồn thu ngoại tệ cho ngân sách, đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường
xuyên và liên tục cho đầu tư phát triển kinh tế.
Trong bối cảnh tình hình chính trị - kinh tế thế giới đầy biến động phức
tạp như hiện nay, theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, mạnh và ổn
định luôn là trọng tâm chính yếu trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia,
đặc biệt là với những quốc gia đang phát triển thường có mức tích luỹ thấp,
song nhu cầu đầu tư lại cao, do vậy để tăng trưởng kinh tế nhất thiết phải dựa
vào nguồn vốn vay nước ngoài. Về cơ bản, phần vốn thuần tuý chuyển từ bên
ngoài vào cho phép một nước duy trì khoản thiếu hụt trong tài khoản vãng lai.
Số thiếu hụt đó cho thấy, tổng chi tiêu cao hơn tổng thu nhập. Điều này có ảnh
hưởng lớn tới cán cân thanh toán (sẽ nghiên cứu ở mục sau), tới cung cầu
ngoại tệ và tỷ giá hối đoái.
Giả sử trong điều kiện nền kinh tế phát triển bình thường, đường cung S
và đường cầu D1 về ngoại tệ giao nhau tại điểm A, xác định mức tỷ giá hối
đoái là E1. Tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế khiến cho nhu cầu vốn đầu
tư tăng vọt, đẩy đường cầu ngoại tệ dịch chuyển sang phải, trong khi đó cung
ngoại tệ chưa đủ để đáp ứng kịp thời do đó đẩy tỷ giá lên mức E2. Ngoài
phạm vi ảnh hướng có tính hướng ngoại nói trên, tăng trưởng kinh tế còn tạo
ra một loạt những tác động bên trong đối với tỷ giá hối đoái, có thể kể đến
như: tình hình thu chi ngân sách Nhà nước, thu nhập và lòng tin của công
chúng vào đồng tiền quốc gia.
Hình 4 : Ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế tới tỷ giá hối đoái.

19


Tỷ giá(USD/VND)
S
B


E2
E1

A

D2
D1

Q1

Q2

Lượng ngoại tệ

Với trường hợp ngân sách Nhà nước rơi vào tình trạng bội chi ở quy mô
lớn, buộc chính phủ đứng trước một sự lựa chọn: hoặc phải phát hành tiền,
hoặc phải huy động vốn và dự trữ ngoại tệ trong nước và vay nợ nước ngoài
để bù đắp thâm hụt ngân sách. Tuy nhiên biện pháp nào cũng dẫn tới làm thay
đổi khối lượng tiền mặt trong lưu thông, lượng cung cầu ngoại tệ khiến cho tỷ
giá biến động mạnh. Quá trình mất giá của USD gắn liền với tình trạng bội
chi ngân sách và thâm hụt nghiêm trọng cán cân thanh toán của nước Mỹ
trong thời gian qua là một minh chứng cụ thể cho vấn đề này.
Hiển nhiên, nếu nền kinh tế luôn duy trì tốc độ tăng trưởng càng cao bao
nhiêu thì mức thu nhập và lòng tin của công chúng vào đồng tiền quốc gia sẽ
càng tăng bấy nhiêu. Đây chính là hai yếu tố đồng hành tác động vào tỷ giá
hối đoái. Cùng với sự gia tăng của hai nhân tố này, xu hướng sử dụng đồng
bản tệ cũng tăng nhanh và nhu cầu tích trữ ngoại tệ không còn nữa. Điều này
hỗ trợ cho giá trị đồng tiền quốc gia tăng ổn định trong nước và có sức mạnh
hơn nữa trên thị trường quốc tế.

2.2. Trạng thái cán cân thanh toán quốc tế.
Để thực hiện tốc độ tăng trưởng kinh tế đúng như dự kiến, mỗi quốc gia
cần hết sức coi trọng việc xác lập, theo dõi và phân tích chiều hướng phát
triển của cán cân thanh toán quốc tế. Trong thời đại ngày nay, cán cân thanh
toán quốc tế giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống cán cân của các nước. Tình
trạng của nó ảnh hưởng quyết định đến sự biến động của tỷ giá hối đoái, đến
trạng thái ngoại hối, và cuối cùng ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế của một
nước.
20


Cán cân thanh toán là những ghi chép về các giao dịch mà dân cư và
chính phủ một nước thực hiện với thế giới bên ngoài trong một khoảng thời
gian nhất định, thường là một năm. Trong đó ghi chép mọi khoản thu (có) chi (nợ) ngoại tệ của một nước trong quan hệ kinh tế với các nước khác trên
thế giới. Một sự tăng lên trong tài sản có của cán cân thanh toán được ghi với
dấu (+) biểu hiện nguồn thu ngoại tệ của một nước tăng lên. Ngược lại, một
sự tăng lên trong tài sản nợ của một nước cho nước ngoài và làm giảm lượng
ngoại tệ của nước đó.
Cán cân thanh toán bao gồm các khoản mục chủ yếu có liên quan trực
tiếp đến những thay đổi của tỷ giá hối đoái. Đó là: tài khoản vãng lai, tài
khoản vốn và tài khoản dự trữ chính thức. Phương pháp bút toán kép của cán
cân thanh toán, làm cho cán cân thanh toán tại bất cứ thời điểm nào cũng luôn
thăng bằng, không hàm ý xảy ra sự cân bằng với từng khoản mục của nó.
2.2.1. Tác động của tài khoản vãng lai tới tỷ giá hối đoái
Tài khoản vãng lai ghi chép các hoạt động mua bán hàng hoá - dịch vụ,
thu nhập từ đầu tư và các khoản chuyển giao có liên quan đến tiền tệ của một
nước với các nước khác. Trong đó, cán cân thương mại thể hiện những biến
động trong xuất nhập khẩu của một nước là nội dung quan trọng nhất của tài
khoản vãng lai. Những thay đổi của cán cân thương mại có tác động trực tiếp
và quan trọng đến tỷ giá hối đoái. Vì vậy mọi yếu tố có khả năng tác động

làm thay đổi tình hình xuất nhập khẩu đêu là những nhân tố cơ bản tác động
tới tỷ giá hối đoái.
Cách tiếp cận xác đinh tỷ giá đã cho chúng ta thấy những nhân tố tác
động làm thay đổi cung cầu ngoại tệ có liên quan trực tiếp đến sự thay đổi của
cán cân thương mại chính là: mức giá cả tương đối, chính sách bảo hộ, sở
thích của người tiêu dùng về hàng hoá nội so với hàng ngoại và năng suất lao
động của một nước. Mọi sự biến động của các nhân tố này, tương tác lẫn nhau
làm thay đổi cầu về xuất nhập khẩu (sẽ nghiên cứu ở phần sau). Những thay
đổi về cầu xuất nhập khẩu, nếu làm cho cán cân thương mại dịch chuyển về

21


phía thặng dư, nước có điều kiện tăng dự trữ ngoại tệ, sẽ có tác động làm
giảm tỷ giá hối đoái và tăng giá đồng nội tệ. Ngược lại, nếu những thay đổi về
cầu xuât nhập khẩu làm tăng sự thâm hụt của cán cân thương mại sẽ có tác
động làm tăng tỷ giá hối đoái và giảm giá trị đồng nội tệ.
2.2.2. Tác động của tài khoản vốn đến tỷ giá hối đoái
Tài khoản vốn ghi chép các giao dịch có liên quan đến việc mua bán tài
sản giữa nền kinh tế một nước với nước ngoài, bao gồm sự di chuyển của các
nguồn vốn vay và các nguồn vốn đầu tư trực tiếp. Mọi nguồn vốn chảy vào
một nước sẽ làm tăng tài sản ngoại tệ của nước đó và bất cứ lượng vốn nào từ
nước đó chảy ra nước ngoài cũng làm suy giảm tài sản ngoại tệ của nước đó.
Các nhân tố làm thay đổi luồng di chuyển của dòng vốn, do đó làm thay đổi
cán cân tài khoản vốn có tác động làm thay đổi quan hệ cung cầu trên thị
trường tài sản. Quan hệ cung cầu tài sản đến lượt nó sẽ là thay đổi tỷ giá hối
đoái và giá trị của các đồng tiền. Các nhân tố cơ bản có tác động làm thay đổi
sự di chuyển của dòng vốn được phản ánh trong công thức xác định điều kiện
cân bằng mở trên thị trường tài sản.
Không giống như tài khoản vãng lai có tác động trực tiếp đến những thay

đổi của tỷ giá hối đoái, tài khoản vốn có cơ chế tác động phức tạp hơn và phải
thông qua cơ chế tác động của lý thuyết lượng cầu tài sản với các nhân tố rất
phức tạp (thu nhập, tỷ suât lợi tức, rủi ro, tính lỏng). Cụ thể, bất kỳ nhân tố
nào có tác động làm thay đổi tỷ suất lợi tức của các tài sản theo hướng làm
tăng giá trị của tài sản nội tệ cao hơn tài sản nước ngoài thì đều có tác động là
giảm tỷ giá hối đoái và ngược lại, mọi nhân tố tác động làm tăng tỷ suất lợi
tức của tài sản ngoại tệ cao hơn tài sản nội tệ thì có tác động làm tăng tỷ giá
hối đoái.
2.3. Mức chênh lệch lạm phát.
2.3.1 Sự hình thành đường cung xuất khẩu và đường cầu nhập khẩu.
Rõ ràng, điều kiên thương mại, liên quan đến giá cả xuất khẩu và nhập khẩu

22


khẩu, chỉ ảnh hưởng lên tỷ giá khi hàng hoá xuất khẩu và nhập khẩu là khác
nhau. Bên cạnh điều kiện thương mại thì lạm phát cũng là nhân tố có ảnh
hưởng trực tiếp tới năng lực cạnh tranh của hàng hoá của một nước với hàng
hoá cùng loại hoặc tương tự của nước khác. Để giải thích ảnh hưởng của lạm
phát, chúng ta vẽ mô tả đường cầu nhập khẩu và đường cung xuất khẩu của
một nước.
* Sự hình thành đường cầu nhập khẩu.
Ứng với mỗi mức giá nhất định, thì số lượng hàng hoá phải nhập khẩu là
phần phụ trội của nhu cầu tiêu dùng so với khả năng sản xuất hàng hoá đó của
một nước, nhu cầu nhập khẩu hàng hoá của một nước được biểu diễn bằng
khoảng cách giữa đường cầu về hàng hoá đó và đường cung hàng hoá đó bởi
những nhà sản xuất trong nước.
Tại mức giá P1 thì cầu về hàng hoá A là Q4 nhưng các nhà sản xuất trong
nước chỉ đáp ứng được ở mức Q1 như vậy nhu cầu nhập khẩu là Q1Q4, còn
tại mức giá P2 thì cầu về hàng hoá A là Q3 nhưng sản xuất ở trong nước chỉ

đáp ứng ở mức Q2, như vậy nhu cầu nhập khẩu hàng hoá A tại mức giá P2 là
Q2Q3, (xem hình 5a). Từ đó ta có đường cầu nhập khẩu như hình 5.b.
Hình 5a: Cung cầu hàng hoá A
Trong đó:
DA: Đường cầu hàng hoá A

Giá cả hàng hoá
A

Hình5b cầu nhập khẩu hàng hoá A
S

Giá cả hàng hoá
A

A

SA Đường cung hàng hoá A P2

P2
P1

P1

D

A

Q1 Q2 Q Q3 Q4


Q2 Q3

Q1 Q4

* Sự hình thành đường cung xuất khẩu.
Ứng với mỗi mức giá nhất định, thì số lượng xuất khẩu một hàng hoá là
phần phụ trội của mức sản xuất và nhu cầu tiêu dùng hàng hoá đó của một
nước. Số lượng hàng hoá được xuất khẩu được thể hiện bằng khoảng cách
giữa đường cung và đường cầu hàng hoá đó. Tại mức giá P1 thì cung hàng

23


hoá B ở mức Q4 nhưng vì do giá quá cao nên nhu cầu tiêu thụ hàng hoá này
chỉ dừng lại ở mức Q1 như vậy khoảng cách giữa Q1 và Q4 là phần dôi ra để
xuất khẩu. Khi giả giảm xuống mức P2 thì cung hàng hoá B lại nhỏ hơn cầu
về hàng hoá B do vậy đẩy mức giá tới P.Tại mức giá này thì hàng hoá sản
xuất ra chỉ đủ để đáp ứng nhu cầu trong nước, khi đó khối lượng xuất khẩu
bằng không, (Xem hình 6.a). Từ đó ta có thể hình thành đường cung xuất
khẩu như trên Hình 6.b.
Hình 6a: Cung cầu hàng hoá A

Trong đó:
DA: Đường cầu hàng hoá A
SA Đường cung hàng hoá A

Hình6b cầu nhập khẩu hàng hoá A

Giá cả hàng hoá
A


Giá cả hàng hoá
A

A

S

SA

P1
P1
P2

P2

D
Q1 Q2 Q Q3 Q4

A

Q2 Q3

Q1 Q4

* Lạm phát và cung cầu hàng hoá.
Giả thiết rằng Việt Nam có tỷ lệ lạm phát là 25% năm. Nếu toàn bộ giá
cả hàng hoá và tiền lương cũng tăng 25%, thì đường cầu hàng hoá A và hàng
hóa B của Việt nam cũng tăng 25% so với thời điểm đầu năm. Do giá hàng
hoá và tiền lương cùng tăng 25%, cho nên thu nhập thực tế không thay đổi,

nghĩa là khối lượng hàng hoá của xã hội không thay đổi so với trước và sau
khi có lạm phát xảy ra. Điều này khiến đường cầu về hàng hoá A và đường
cầu hàng hoá B dịch chuyển lên phía trên với tỷ lệ 25%. Trong khi đó thì
đường cung hàng hoá A và đường cung hàng hoá B cũng dịch chuyển lên phía
trên với cùng tỷ lệ 25%.

24


Hình 7: Lạm phát và cung cầu hàng hoá.
a)
Trong đó:
DA1: Đường cầu hàng hoá A trước

b)
Giá cả hàng hoá
A

Giá cả hàng hoá
A

SA 2

A1

S
lạm phát
DA2 : Đường cầu hàng hoá A trước P2
P2
lạmA1phát

S Đường cung hàng hoá A trước
P1
P1
A2
lạm phát
D
SA2 Đường cung hàng hoá A sau
DA1
lạm$1phát
D
Q
Đường cầu nhập khẩu hàng
hoá$2A trước lạm phát
Lượng hàng hoá A hàng năm
D
Đường cầu nhập khẩu hàng
hoá A sau lạm phát

c)
Trong đó:
DB1 : Đường cầu hàng hoá B trước

D$2
D$1
Q1

Q2

Lượng cầu hàng hoá A


d)
Giá cả hàng hoá
A

SB 2

Giá cả hàng hoá
A
B1

S$2

S$1

S
lạm phát
DB2 : Đường cầu hàng hoá B trước P2
lạmB1phát
P2
S Đường cung hàng hoá B trước
P1
lạm phát
DB2 PS
B2
B1
S
Đường cung hàng hoá B sau
D
1
lạm

$1 phát
S
Q1
Q2
Q
Đường cung xuất khẩu hàng
Lượng
hàng
hoá
B
hàng
năm
Lượng
hàng
hoá
Bxuất
khẩu hàng năm
hoá
B
trước
lạm
phát
S$2
Đường cung xuấtkhẩu hàng
hoá B sau lạm phát

2.3.2. Tác động của lạm phát tới tỷ giá hối đoái.
Chúng ta sử dụng hình 7 để biểu diễn ảnh hưởng của lạm phát đến đường
cung và đường cầu tiền tệ và qua đó ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái. Ảnh hưởng
của lạm phát sẽ khác nhau trong trường hợp lạm phát chỉ xuất hiện ở nước

nhập khẩu hay còn xuất hiện ở cả nước xuất khẩu nữa. Bây giờ chúng ta sẽ
xem xét từng trường hợp cụ thể.

25


×