Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Phân tích và đánh giá hiệu quả kinh tế tài chính dự án đầu tư nhà máy điện có tính đến rủi ro

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 119 trang )

B Ộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
-----------♫----------

TRỊNH KIM OANH

PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH TẾ
TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ NHÀ MÁY ĐIỆN
CÓ TÍNH ĐẾN RỦI RO
(ÁP DỤNG VỚI DỰ ÁN NHÀ MÁY NHIỆT ĐIỆN CẨM PHẢ)

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

HÀ NỘI - 2004


B GIO DC V O TO
TRNG I HC BCH KHOA H NI
---------------------

trịnh kim oanh

Phân tích và đánh giá hiệu quả kinh tế
tàI chính dự án đầu tư nhà máy điện
có tính đến rủi ro
(áp dụng với dự án nhà máy nhiệt đIện cẩm phả)

Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh
Luận văn thạc sỹ kinh tế

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Minh Duệ



Hà nội - 2004


MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu
................................................................................................

1

Chương 1: Cơ sở lý thuyết và các phân tích kinh tế dự án đầu tư
.......

4

1.1 Khái niệm chung về đầu tư và dự án đầu tư

4

.........................................
1.2 Các loại phân tích kinh tế dự án đầu tư

14

................................................
1.3 Phân tích rủi ro dự án đầu tư

21


................................................................
Chương 2: Đặc điểm các dự án đầu tư nhà máy điện
...........................

28

2.1 Tổng quan về đầu tư trong ngành điện

28

.................................................
2.2 Đặc điểm các dự án đầu tư nhà máy điện ............................................ 39
2.3 Giới thiệu về dự án Nhà máy nhiệt điện Cẩm Phả

43

..............................
Chương 3: Phân tích hiệu quả kinh tế tài chính dự án đầu tư có tính
đến rủi ro. Áp dụng cho dự án Nhà máy Nhiệt điện Cẩm Phả
............

59

3.1 Cơ sở lý thuyết phân tích hiệu quả kinh tế tài chính dự án đầu tư

59

.......



3.2 Phân tích kinh tế tài chính dự án Nhà máy nhiệt điện Cẩm Phả (chưa
tính đến rủi ro) ........................................................................................... 70
3.3 Phân tích kinh tế tài chính dự án Nhà máy nhiệt điện Cẩm Phả (có
tính đến rủi ro) ..........................................................................................................

82

Kết luận .................................................................................................... 100
Tài liệu tham khảo ..................................................................................... 103
Phụ lục


1

LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với xu thế kinh tế mở cửa và hội nhập của thế giới, hoạt động đầu tư
là hoạt động không thể thiếu nếu muốn một đất nước tiến kịp với sự phát triển
không ngừng của thế giới. Đầu tư luôn đi cùng với sự phát triển, đầu tư để tồn
tại trong môi trường cạnh tranh đầy khốc liệt mà một doanh nghiệp không thể
tự bứt mình ra khỏi dòng xoáy đó.
Ngành điện cũng không nằm ngoài quy luật, trong những năm gần đây
ngành điện nói riêng đã không đáp ứng đủ nhu cầu điện năng của xã hội. Với
dự báo nhu cầu điện ngày càng cao của xã hội cũng như cân bằng hệ thống
điện năng đến năm 2020 Nhà nước phải liên tục đầu tư mới, cải tạo và nâng
cấp hệ thống nguồn và lưới điện hàng năm khoảng 1-1.5 tỷ USD bằng các
loại hình đầu tư trong ngành điện (EVN) và ngoài ngành điện như IPP, BOT,
BT... trong đó có cả các loại hình công ty Cổ phần Nhà nước.
Nhưng với đặc thù của đầu tư trong ngành điện là chi phí đầu tư lớn, thời
gian đầu tư dài nên gặp nhiều rủi ro trong quá trình đầu tư. Do đó sự mở rộng
trong đầu tư xây dựng nguồn điện và lưới điện để tham gia thị trường điện

cạnh tranh bắt đầu từ ngày 1/7/2004. Tiếp theo là thị trường bán buôn điện
cạnh tranh và thị trường bán lẻ điện cạnh tranh được Chính phủ cho phép các
doanh nghiệp có khả năng đều có thể tham gia thị trường này. Dự án nhà máy
nhiệt điện Cẩm Phả của Công ty Cổ phần Nhà nước mà trong đó Tổng công
ty Than Việt Nam - chủ đầu tư dự án - chiếm 60% vốn chủ sở hữu là một dự
án điển hình đáp ứng và khắc phục được những khó khăn mà ngành điện gặp
phải trong đầu tư xây dựng nguồn điện.
Là một lĩnh vực đầu tư lớn cùng với sự góp vốn của nhiều ngành nên việc
phân tích đánh giá hiệu quả đầu tư của dự án là vô cùng cần thiết. Đây là mối
quan tâm không chỉ của Nhà Nước, của ngành điện mà còn đặc biệt quan tâm
từ phía các cổ đông của công ty cổ phần đầu tư dự án này.

Häc viªn: TrÞnh Kim Oanh CH 2002


2

Để đánh giá chính xác hiệu quả kinh tế tài chính của các dự án đầu tư trong
ngành điện là rất khó vì tính chất đặc thù trong đầu tư của ngành là vốn đầu tư
lớn thời gian đầu tư dài, các thông số đầu vào thường xuyên biến động đi
cùng với nó là độ rủi ro cao.
Xuất phát từ nhận thức về tầm quan trọng trong phân tích, đánh giá hiệu
quả kinh tế - tài chính dự án đầu tư ngành điện nên tôi đã chọn đề tài:
“Phân tích và đánh giá hiệu quả kinh tế – tài chính dự án đầu tư nhà máy
điện có tính đến rủi ro. Áp dụng với dự án nhà máy nhiệt điện Cẩm Phả”
làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
Bố cục luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết và các phân tích kinh tế dự án đầu tư
Chương 2: Đặc điểm các dự án đầu tư nhà máy điện.
Chương 3: Phân tích hiệu quả kinh tế tài chính dự án đầu tư có tính

đến rủi ro. Áp dụng với dự án nhà máy nhiệt điện Cẩm Phả
Mục đích của đề tài là hệ thống hoá những vấn đề liên quan đến đầu tư
và dự án đầu tư nói chung và trong ngành điện nói riêng từ đó trình bày các
phương pháp cụ thể để phân tích đầy đủ kinh tế tài chính một dự án đầu tư
trong ngành điện với các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế như: NPV, B/C,
IRR, Thv. Kết hợp giữa lý thuyết nghiên cứu và thực tế dự án nhà máy nhiệt
điện Cẩm Phả để chạy chương trình phân tích hiệu quả kinh tế tài chính dự án
đầu tư có tính đến yếu tố rủi ro, phần mềm Crystal Ball. Đây cũng là kết quả
mà luận văn đạt được.
Với kết quả nghiên cứu, luận văn có một ý nghĩa khoa học và thực tiễn
là cơ sở, là các bước hướng dẫn cụ thể, chi tiết để có thể ứng dụng phân tích
hiệu quả kinh tế dự án đầu tư không chỉ riêng cho ngành điện mà có thể cho
các ngành khác khi phân tích có tính đến độ rủi ro. Bởi đây là một chương

Häc viªn: TrÞnh Kim Oanh CH 2002


3

trình mới hy vọng sẽ được phổ dụng đến những đối tượng khi nghiên cứu để
lập dự án và thẩm định các dự án đầu tư trong điều kiện kinh doanh đầy biến
động.
Đạt được kết quả của luận văn này đó là sự hướng dẫn tận tình của
PGS. TS Nguyễn Minh Duệ, sự giúp đỡ của TS Nguyễn Thành Sơn - Giám
đốc Công ty tư vấn Điện Than và các đồng nghiệp đã giúp tôi hoàn thành bản
luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Häc viªn: TrÞnh Kim Oanh CH 2002



4

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC PHÂN TÍCH KINH TẾ DỰ ÁN ĐẦU TƯ
1.1 KHÁI NIỆM CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ.

1.1.1 Khái niệm về đầu tư
Đầu tư là một trong những hoạt động tất yếu khách quan không thể
thiếu trong quá trình sản xuất kinh doanh của xã hội phát triển hiện nay.
Trong kinh doanh, đầu tư đóng một vai trò hết sức quan trọng. Có thể nói
không có một công ty, doanh nghiệp nào lại không có những dự án đầu tư hấp
dẫn, một cơ hội kinh doanh đầy triển vọng trong suốt quá trình kinh doanh.
Với nhịp độ phát triển khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại như hiện nay thì
các dự án đầu tư ngày càng nhiều và hiệu quả đầu tư đạt ngày càng cao. Vậy
để đạt được hiệu quả đầu tư ta phải hiểu sâu sắc những vấn đề liên quan đến
đầu tư và dự án đầu tư. Hiện nay có nhiều cách hiểu về đầu tư và dự án đầu tư
theo mục tiêu của việc tiếp cận. Có thể hiểu đầu tư như sau:
Đầu tư là hoạt động sử dụng các tài nguyên trong một thời gian tương đối
dài nhằm thu lợi nhuận và lợi ích kinh tế xã hội.
Nếu đầu tư vào nhà xưởng, máy móc, vật tư thì được gọi là đầu tư cho các
đối tượng vật chất. Hoặc để mua cổ phiếu, trái phiếu hoặc cho vay lấy lãi gọi
là đầu tư tài chính. Ở đây những tài sản đầu tư này có thể sinh lợi dần hoặc
thoả mãn dần một nhu cầu nhất định nào đó cho người bỏ vốn cũng như toàn
xã hội ở một thời gian nhất định trong tương lai (thường gọi là tuổi thọ của dự
án). Hoặc cũng có một vài cách hiểu nữa về đầu tư như sau: Đầu tư đó là sử
dụng vốn nhằm tạo nên các dự trữ và tiềm năng về tài sản để sinh lợi dần
theo thời gian trong tương lai. Ở đây hiểu nghĩa của danh từ "dự trữ" như
sau: Ví dụ, một nhà máy công nghiệp được xây dựng lên không phải là để sử
dụng hết ngay một lúc mà phải khai thác và vận hành nó trong nhiều năm,


Häc viªn: TrÞnh Kim Oanh CH 2002


5

phần chưa sử dụng hết của nó có thể coi như một dự trữ hay một tiềm năng.
Hay hiểu Đầu tư là sử dụng các khoản tiền đã tích được của xã hội, của các
cơ sở sản xuất kinh doanh và dịch vụ, tiền tiết kiệm của dân cư vào việc tái
sản xuất của xã hội nhằm tạo ra các tiềm lực lớn hơn về mọi mặt của đời sống
kinh tế xã hội.
- Tài nguyên: Vốn, vật tư, lao động, tài nguyên thiên nhiên. (Trong một thời
gian tương đối dài thì tài nguyên là cái hữu hạn, quí giá phải sử dụng có hiệu
quả).
- Thời gian xây dựng tương đối dài: xây dựng một nhà máy, cầu cống,
đường xá... cần một khoảng thời gian từ 2 năm trở lên. Có dự án thực hiện
trong thời gian nhiều năm, tuỳ thuộc vào qui mô của dự án. Thời gian thực
hiện khai thác dự án người ta còn gọi là tuổi thọ của dự án.
- Tuổi thọ của dự án: Tính từ khi dự án đi vào khai thác đến khi kết thúc dự
án; Các dự án khác nhau thì có tuổi thọ khác nhau; Khi một trong ba tuổi thọ
dưới đây hết thì dự án cũng kết thúc.
Tuổi thọ về mặt kỹ thuật
Tuổi thọ về mặt công nghệ
Tuổi thọ về mặt sản phẩm
* Tuổi thọ về mặt kỹ thuật: Tính từ khi bắt đầu sử dụng cho đến khi hiệu suất
của nó nhỏ hơn hiệu suất cho phép.
* Tuổi thọ về mặt công nghệ: Sự bắt đầu đưa công nghệ vào sử dụng cho đến
khi có một công nghệ khác mang tính phổ biến đưa vào sử dụng với những
tính năng vượt trội và việc vẫn sử dụng công nghệ cũ với những chi phí cao
hơn.

* Tuổi thọ về mặt sản phẩm: Tính từ khi ra đời sản phẩm cho đến khi thị
trường không chấp nhận.
- Thu được lợi nhuận, lợi ích xã hội:

Häc viªn: TrÞnh Kim Oanh CH 2002


6

Về lợi nhuận (trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh): Mục tiêu là cực tiểu chi
phí và cực đại lợi nhuận. Có thể nói cực đại lợi nhuận là mục tiêu quan trọng
và phổ biến nhất đối với các nhà kinh doanh. Tuy nhiên khi sử dụng mục tiêu
này đòi hỏi phải đảm bảo tính chắc chắn của các chỉ tiêu lợi nhuận thu được
theo dự kiến của dự án đầu tư qua các năm. Yêu cầu này trong thực tế gặp rất
nhiều khó khăn khi thực hiện vì tình hình thị trường luôn luôn biến động và
việc dự báo chính xác lợi nhuận cho hàng chục năm sau là rất khó.
Ngoài ra đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh còn có những mục tiêu quan
trọng khác như: Cực đại khối lượng hàng hoá bán ra trên thị trường (nếu lợi
nhuận cho một đơn vị sản phẩm có thể thấp nhưng khối lượng bán ra thị
trường nhiều thì tổng lợi nhuận sẽ lớn); Duy trì sự tồn tại và an toàn của
doanh nghiệp (trong trường hợp này các nhà kinh doanh chủ trương đạt được
một mức độ thoả mãn nào đó của doanh nghiệp về lợi nhuận, nhưng đảm bảo
được sự tồn tại lâu dài và an toàn cho doanh nghiệp còn hơn là chạy theo lợi
nhuận cực đại nhưng có nhiều nguy cơ rủi ro và phá sản. Quan điểm này
chúng ta có thể vận dụng để phân tích và quyết định một dự án đầu tư); Đầu
tư để nâng cao chất lượng sản phẩm và uy tín đối với khách hàng và khả năng
cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường nhiều hơn, nhất là trong xu thế hội nhập
kinh tế khu vực và thế giới; Đầu tư theo chiều sâu để đổi mới công nghệ, đón
đầu nhu cầu mới sẽ xuất hiện trên thị trường, tăng khả năng độc quyền doanh
nghiệp; Đầu tư để liên doanh với nước ngoài, tranh thủ công nghệ mới, mở

rộng thị trường xuất khẩu; Đầu tư để cải thiện điều kiện lao động của doanh
nghiệp, đảm bảo yêu cầu bảo vệ môi trường theo yêu cầu của doanh nghiệp.
Về lợi ích kinh kế xã hội (đối với chủ đầu tư là Nhà nước): Mục tiêu là
đầu tư cơ sở hạ tầng công cộng dài hạn, mục tiêu văn hoá, xã hội dài hạn. Ví
dụ, đầu tư xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng văn hoá và xã hội, các công
trình thuộc lĩnh vực giáo dục và đào tạo, ytế, thể thao, nghệ thuật... Đảm bảo

Häc viªn: TrÞnh Kim Oanh CH 2002


7

sự phát triển kinh tế, kỹ thuật chung dài hạn của đất nước, ví dụ đầu tư cho
các công trình phục vụ nghiên cứu khoa học và công nghệ có tính chiến lược,
các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật và kinh tế quan trọng, các công trình
công nghiệp trọng điểm có tác dụng đòn bẩy đối với nền kinh tế quốc dân.
Đảm bảo yêu cầu về quốc phòng và an ninh tổ quốc, bảo đảm các yêu cầu về
bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên của đất nước. Đảm bảo vị trí kinh tế của
đất nước trên trường Quốc tế, đầu tư vào các lĩnh vực vốn lớn mà các doanh
nghiệp tư nhân không có khả năng đáp ứng nhu cầu của vốn, độ rủi ro cao mà
các lĩnh vực này không thể thiếu đối với sự phát triển chung của đất nước và
rất cần thiết cho đời sống con người.
1.1.2 Phân loại đầu tư
1.1.2.1 Phân loại theo mục đích và tính chất đầu tư
- Đầu tư mới: Chủ đầu tư bỏ vốn ra để xây dựng mới hoàn toàn nhằm mục
tiêu sản xuất kinh doanh, dịch vụ để thu lợi nhuận.
- Đầu tư mở rộng: Chủ đầu tư bỏ vốn mở rộng sản xuất, qui mô của doanh
nghiệp. Đầu tư để đẩy mạnh tiêu thụ những sản phẩm hiện có trong những thị
trường đang được kiểm soát, dự án đầu tư nhằm thâm nhập thị trường mới,
tạo sản phẩm mới, hay dự án cải tạo thị trường hiện có (sử dụng vốn từ quỹ

đầu tư phát triển).
- Đầu tư thay thế: Chủ đầu tư lấy vốn để thay thế những thiết bị cũ, hư hỏng
(Nguồn từ quỹ khấu hao).
1.1.2.2 Phân loại theo cấp quản lý và sử dụng vốn.
- Theo cấp quản lý thì có các loại dự án đầu tư thuộc nhóm A, B, C phân loại
này được quy định rất cụ thể trong Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 08-71999 và sửa đổi tại Nghị định số 07/2003/NĐ- CP ngày 30-01-2003 của
Chính phủ. Quy định về mức vốn đầu tư và các cấp quyết định đầu tư.

Häc viªn: TrÞnh Kim Oanh CH 2002


8

- Theo tính chất sử dụng vốn có đầu tư trực tiếp : Đầu tư mà người sử dụng
vốn và người bỏ vốn ra là chủ thể; Đầu tư gián tiếp: Đầu tư mà người sử dụng
khác với người bỏ vốn ra đầu tư.
1.1.2.3 Phân loại đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
- Đầu tư trong nước: Chủ đầu tư là người ở nước sở tại.
- Đầu tư của nước ngoài: Chủ đầu tư là người nước ngoài.
- Đầu tư liên doanh giữa trong và ngoài nước: Nhà nước phân loại đầu tư và
phân loại cho việc quản lý: BOT; BTO...
1.1.3 Các giai đoạn đầu tư
Các giai đoạn hoạt động đầu tư là cả quá trình từ khâu chuẩn bị đầu tư đến
thực hiện đầu tư và kết thúc đầu tư.
MÔ HÌNH CÁC GIAI ĐOẠN ĐẦU TƯ

Chuẩn bị đầu tư

Chuẩn bị thực hiện đầu


Thực hiện đầu tư

Khai thác sử dụng
1.1.3.1 Giai đoạn chuẩn bị đầu tư.
Nội dung công việc của giai đoạn chuẩn bị đầu tư:
- Nghiên cứu về sự cần thiết phải đầu tư và quy mô đầu tư.

Häc viªn: TrÞnh Kim Oanh CH 2002


9

- Tiến hành tiếp xúc, thăm dò thị trường trong nước và ngoài nước để xác
định nhu cầu tiêu thụ, khả năng cạnh tranh của sản phẩm, tìm nguồn cung ứng
thiết bị, vật tư cho sản xuất, xem xét khả năng về nguồn vốn đầu tư và lựa
chọn hình thức đầu tư.
- Tiến hành điều tra, khảo sát và chọn địa điểm.
- Lập dự án, thẩm định và quyết định đầu tư.

1.1.3.2 Giai đoạn chuẩn bị thực hiện đầu tư
Nội dung công việc của giai đoạn chuẩn bị thực hiện đầu tư:
- Khảo sát, thiết kế, lập dự toán và thẩm tra các hồ sơ.
- Đặt mua thiết bị, vật tư, kỹ thuật, công nghệ.

- Tổ chức đấu thầu, giao nhận thầu (tuỳ vào mức độ quan trọng của dự án Thường đấu thầu cho những dự án thuộc nhóm A).
- Giải phóng, bàn giao mặt bằng, địa điểm.
- Chuẩn bị xây lắp.

1.1.3.3 Giai đoạn thực hiện đầu tư.
Nội dung công việc của giai đoạn thực hiện đầu tư:

- Thi công các công trình chính, phụ.
- Lắp đặt thiết bị chính, phụ.
- Chạy thử và nghiệm thu, quyết toán vốn đầu tư.
- Bàn giao đưa vào khai thác, bảo hành.
- Đào tạo cán bộ công nhân viên thực hiện dự án.

1.1.3.4 Giai đoạn khai thác
Nội dung công việc của giai đoạn khai thác sử dụng.
- Thực hiện việc kết thúc xây dựng công trình
- Vận hành công trình và hướng dẫn sử dụng công trình.
- Bảo hành công trình.

Häc viªn: TrÞnh Kim Oanh CH 2002


10

1.1.4 Khái niệm dự án đầu tư
Ở mỗi một thời kỳ, các công ty thường có những cơ hội đầu tư, mỗi
một cơ hội đầu tư như vậy được gọi là một dự án đầu tư hay đơn giản là một
dự án. Trong đó chức năng đầu tư là chức năng ra các quyết định về các dự án
đầu tư (lựa chọn hay loại bỏ). Muốn vậy công ty phải có những “phát hiện”
cơ hội đầu tư, ước lượng những tổn thất và những lợi ích của các hiệu quả đầu
tư không đánh giá được bằng tiền, phân tích và lựa chọn dự án theo một tiêu
chuẩn nào đó phù hợp với mục tiêu của từng công ty. Vậy dự án đầu tư là gì?.
Ở Việt nam, khái niệm về dự án được quy định rất cụ thể và chi tiết trong văn
bản pháp quy của Chính phủ. Trong Nghị định 52/1999/NĐ - CP đã chỉ rõ:
Dự án đầu tư là tập hợp các tài liệu thuyết trình những dự định trong
tương lai với việc sử dụng nguồn tài nguyên một cách khoa học, có hệ
thống. Trên cơ sở đó, nhằm sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên để

thu được những lợi ích mong muốn.
Mục tiêu của dự án là mục tiêu tài chính của các nhà đầu tư bỏ vốn vào
đầu tư dự án và mục tiêu kinh tế xã hội chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Đặc trưng của dự án đầu tư là có mục đích, mục tiêu rõ ràng; Có chu kỳ
phát triển riêng và thời gian tồn tại hữu hạn; Liên quan đến nhiều bên và có sự
tương tác phức tạp giữa các bộ phận quản lý chức năng với quản lý dự án;
Sản phẩm của dự án mang tính đơn chiếc, độc đáo (hiện đại, cải tiến và mới
lạ); Dự án thường trong trạng thái bất định và độ rủi ro cao vì vậy phải xem
xét tính toán và lập dự án tốt là kim chỉ nam, là cơ sở vững chắc, tiền đề cho
việc thực hiện các công cuộc đầu tư đạt hiệu quả kinh tế xã hội mong muốn.
1.1.5 Các loại nghiên cứu dự án đầu tư.
@ Nghiên cứu tiền khả thi (PFS: Pre- Feasibility Studies)
@ Nghiên cứu khả thi (FS: Feasibility Studies)

Häc viªn: TrÞnh Kim Oanh CH 2002


11

1.1.5.1 Nghiên cứu tiền khả thi
Sau khi có cơ hội đầu tư chúng ta sẽ tiến hành nghiên cứu tiền khả thi, bước
nghiên cứu này chỉ lập đối với các dự án có tổng vốn đầu tư lớn - Nhóm A,
hoặc những dự án có tính chất quan trọng, phức tạp về mặt kỹ thuật, thời gian
thu hồi vốn lâu, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bất định. Đây là bước sàng
lọc, lựa chọn các cơ hội đầu tư hoặc để khẳng định lại cơ hội đầu tư đã được
lựa chọn có đảm bảo tính khả thi hay không. Sở dĩ phải nghiên cứu tiền khả
thi trước khi nghiên cứu khả thi bởi vì việc nghiên cứu khả thi rất tốn kém về
công sức, tiền bạc cũng như trí tuệ và thời gian. Thậm chí có những dự án sau
khi nghiên cứu khả thi xong kết luận dự án không có hiệu quả phải loại bỏ thì
mọi chi phí bỏ ra để nghiên cứu là vô ích. Bên cạnh đó nghiên cứu tiền khả thi

còn giúp chúng ta tìm ra con đường tối ưu trong bước tiếp theo của quá trình
nghiên cứu khả thi dự án đầu tư. Đối với những dự án đầu tư nhỏ, không quá
phức tạp thì chúng ta có thể bỏ qua giai đoạn nghiên cứu tiền khả thi.
Nghiên cứu tiền khả thi bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
♦ Nghiên cứu về sự cần thiết phải đầu tư, các điều kiện thuận lợi và khó
khăn. Điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, lao động, thị trường tiêu thụ,
chính sách đầu tư của vùng lãnh thổ, ngành kinh doanh.
♦Dự kiến qui mô và lựa chọn hình thức đầu tư.
♦ Chọn khu vực, địa điểm và nghiên cứu nhu cầu, diện tích sử dụng, giảm
đến mức tối đa những ảnh hưởng về môi trường, xã hội và tái định cư (có
phân tích và đánh giá cụ thể).
♦ Phân tích sơ bộ công nghệ, kỹ thuật và xây dựng, các điều kiện cung cấp
vật tư, thiết bị, nguyên liệu, năng lượng, dịch vụ hạ tầng.
♦ Phân tích tài chính nhằm xác định sơ bộ tổng mức đầu tư và các nguồn vốn,
phương án huy động và khả năng hoàn vốn, trả nợ, trả lãi.

Häc viªn: TrÞnh Kim Oanh CH 2002


12

♦ Tính toán sơ bộ hiệu quả đầu tư trên quan điểm của chủ đầu tư, của xã hội
và của Nhà nước.
♦ Nghiên cứu lợi ích kinh tế xã hội của dự án: dự tính khối lượng đóng góp
vào GDP, nộp ngân sách Nhà nước thông qua thuế thu nhập doanh nghiệp, số
lượng ngoại tệ thu được từ dự án, tạo công ăn việc làm cho lao động địa
phương nơi đặt dự án. Đặc điểm của giai đoạn nghiên cứu này là mang tính sơ
bộ không chi tiết do vậy độ chính xác của dự án chưa cao, chưa tính đến mức
độ rủi ro của dự án.
1.1.5.2 Nghiên cứu khả thi

Đây là giai đoạn nghiên cứu cuối cùng để lựa chọn dự án tối ưu hay bác
bỏ đầu tư dự án. Trong nghiên cứu tiền khả thi thì chúng ta mới tính toán sơ
bộ còn đối với nghiên cứu khả thi thì ta phải chỉ rõ tính hiệu quả hay không
hiệu quả của dự án. Mọi xem xét dự án phải được đặt trong trạng thái luôn
luôn biến động tức là phải đặt các tình thế có thể xảy ra các rủi ro tác động
đến dự án và các biện pháp để tránh những rủi ro cũng như đảm bảo hiệu quả
của dự án.
Nghiên cứu khả thi bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
 Những căn cứ xác định sự cần thiết phải đầu tư.
 Lựa chọn hình thức đầu tư.
 Lập chương trình sản xuất và chương trình đáp ứng nhu cầu.
 Các phương án địa điểm cụ thể (trong đó có đề xuất giải pháp hạn chế tới
mức tối thiểu ảnh hưởng đến môi trường và xã hội).
 Phương án giải phóng mặt bằng.
 Phân tích lựa chọn kỹ thuật, công nghệ.
 Các phương án thiết kế và giải pháp xây dựng, thiết kế sơ bộ của các
phương án đề nghị lựa chọn, giải pháp quản lý và bảo vệ môi trường.

Häc viªn: TrÞnh Kim Oanh CH 2002


13

 Xác định rõ nguồn vốn, khả năng tài chính, tổng mức đầu tư và nhu cầu
vốn theo tiến độ. Phương án hoàn trả vốn đầu tư (đối với dự án yêu cầu thu
hồi vốn đầu tư).
 Phương án quản lý khai thác dự án, sử dụng lao động.
 Phân tích hiệu quả đầu tư.
 Các mốc thời gian chính thức thực hiện dự án: Mốc thời gian đấu thầu,
thời gian khởi công, thời hạn hoàn thành đưa công trình vào khai thác sử

dụng.
 Kiến nghị hình thức quản lý thực hiện dự án
 Xác định chủ đầu tư.
 Mối quan hệ của các cơ quan liên quan đến dự án.
Việc nghiên cứu khả thi dự án đầu tư là cơ sở cuối cùng của chủ đầu tư ra
quyết định đầu tư, là căn cứ để các cấp có thẩm quyền phê duyệt dự án, là tài
sản để huy động vốn từ các đối tác hay các tổ chức tín dụng.
1.2 CÁC LOẠI PHÂN TÍCH KINH TẾ DỰ ÁN ĐẦU TƯ

Để quyết định đầu tư một dự án đầu tư phải tiến hành phân tích theo
trình tự như sau:

Häc viªn: TrÞnh Kim Oanh CH 2002


14

SƠ ĐỒ 1.1: CÁC LOẠI PHÂN TÍCH KINH TẾ DỰ ÁN ĐẦU TƯ
ĐỀ XUẤT CÁC
PHƯƠNG ÁN KỸ THUẬT

Phân tích kinh tế – kỹ thuật
PHƯƠNG ÁN TỐI ƯU

Phân tích kinh tế - tài chính

Phân tích kinh tế – xã hội
DỰ ÁN KHẢ THI

QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TƯ


THỰC HIỆN ĐẦU TƯ

Häc viªn: TrÞnh Kim Oanh CH 2002


15

Nhìn vào sơ đồ ta thấy: Để phân tích một dự án đầu tư nhất thiết phải
phân tích ba vấn đề chính sau:
Phân tích kinh tế – Kỹ thuật dự án đầu tư
Phân tích kinh tế – Xã hội dự án đầu tư
Phân tích kinh tế – Tài chính dự án đầu tư
1.2.1 Phân tích kinh tế - kỹ thuật dự án đầu tư
Trong đầu tư nếu phân loại theo hình thức thì có đầu tư vào đối tượng
vật chất và đầu tư tài chính. Đầu tư đối tượng vật chất luôn gắn với một
phương án kỹ thuật như thiết bị và máy móc cho dây chuyền công nghệ, các
giải pháp xây dựng dự án đầu tư. Vì vậy, việc phân tích và đánh giá dự án về
mặt kinh tế kỹ thuật là rất cần thiết. Có rất nhiều phương pháp đánh giá các
phương án về mặt kinh tế kỹ thuật nhưng trong khuôn khổ của đề tài chỉ đề
cập đến những lợi ích đem lại từ việc phân tích kinh tế kỹ thuật dự án đầu tư.
Phân tích kinh tế kỹ thuật là tiền đề cho việc tiến hành phân tích kinh tế tài
chính các dự án đầu tư. Những dự án không khả thi về mặt kỹ thuật phải được
loại bỏ để tránh những tổn thất trong quá trình thực hiện đầu tư và vận hành
các kết quả đầu tư sau này. Chẳng hạn như việc nhập hàng loạt các dây
chuyền sản xuất mía đường của Trung Quốc đã gây thiệt hại rất lớn cho kinh
tế đất nước bởi sự lạc hậu của công nghệ, tương tự cũng như ngành mía
đường, đó là công nghệ sản xuất xi măng lò đứng gây rất nhiều lãng phí
không đạt hiệu quả.
Quyết định đúng đắn trong phân tích kinh tế kỹ thuật là tìm ra những

dự án khả thi về mặt kỹ thuật, điều này cho phép một mặt tiết kiệm được
nguồn lực, mặt khác làm tăng thêm nguồn lực. Ngược lại nếu chấp nhận dự án
không khả thi do nghiên cứu chưa kỹ hoặc do coi nhẹ yếu tố kỹ thuật, hoặc

Häc viªn: TrÞnh Kim Oanh CH 2002


16

bác bỏ dự án khả thi về mặt kỹ thuật do bảo thủ, do quá thận trọng thì hoặc là
gây tổn thất nguồn lực hoặc bỏ lỡ cơ hội tăng nguồn lực.
Phân tích kinh tế kỹ thuật là một công việc phức tạp, đòi hỏi phải có các
chuyên gia kỹ thuật chuyên sâu về từng khía cạnh kỹ thuật của từng dự án.
Chi phí nghiên cứu kinh tế kỹ thuật chiếm khoảng trên dưới 80% chi phí
nghiên cứu khả thi và từ 1%-5% tổng chi phí đầu tư của dự án. Trong mô hình
phân tích kinh tế kỹ thuật của các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghiệp
bao gồm tương đối đầy đủ các vấn đề kỹ thuật cơ bản như đặc tính sản phẩm
và kiểm tra chất lượng sản phẩm, phương pháp và kỹ thuật sản xuất, đặc tính
và công suất máy móc thiết bị, đặc tính và nhu cầu nguyên vật liệu, cơ sở hạ
tầng, địa điểm xây dựng nhà máy, vấn đề xử lý nước thải ... Có thể nói tùy
từng dự án cụ thể mà các vấn đề về kỹ thuật được chú trọng xem xét ở mức
độ khác nhau trong nghiên cứu. Dự án càng lớn các vấn đề kỹ thuật càng
phức tạp, cần phải xem xét xử lý nhiều thông tin.
Khi phân tích các vấn đề về kinh tế kỹ thuật dự án đầu tư điều quan
trọng nhất là ta phải quan tâm đến nguồn cung cấp công nghệ kỹ thuật,
phương thức cung cấp công nghệ (thuê, mua hay liên doanh liên kết với nhà
cung cấp công nghệ), quyền sở hữu công nghiệp, trình độ phổ dụng của công
nghệ và giá cả, ngoại tệ ... Bên cạnh đó yếu tố rủi ro có thể xảy ra trong quá
trình sử dụng công nghệ. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các nước
nghèo bởi giới hạn thị trường của các loại công nghệ hiện đại do đó người

mua công nghệ luôn ở thế bị động trong việc mua phụ kiện và mua nguyên
vật liệu đặc chủng...Đã có trường hợp phải ngừng sản xuất do sự phụ thuộc
vào một số người cung cấp nguyên vật liệu hay sự vận chuyển nguyên vật liệu
thì những nơi xa đến. Rất nhiều rủi ro từ công nghệ kỹ thuật sản xuất nên kinh
nghiệm rút ra là phải xem xét toàn diện các khía cạnh kinh tế kỹ thuật.
Nghiên cứu kỹ thị trường công nghệ, chủng loại, độ phổ dụng của công nghệ

Häc viªn: TrÞnh Kim Oanh CH 2002


17

và nhất là chọn loại công nghệ có nhiều nguồn cung cấp nhằm tạo sự cạnh
tranh trong cung cấp công nghệ, từ đó sẽ lựa chọn được công nghệ tối ưu và
mua được với giá cả hợp lý đồng thời tạo được thế chủ động trong các hoạt
động sau này.
1.2.2 Phân tích kinh tế – Tài chính dự án đầu tư
Phân tích kinh tế tài chính dự án đầu tư là một khâu quan trọng trong
xem xét tính khả thi của một dự án. Dự án có khả thi về mặt kinh tế, kết hợp
với sự phù hợp về môi trường sinh thái, khả thi về mặt kỹ thuật thì mới là dự
án tối ưu. Bởi vậy phân tích kinh tế tài chính dự án là xác định hiệu quả về tài
chính đối với doanh nghiệp, lợi nhuận mang lại cho chủ đầu tư. Nếu như phân
tích kinh tế xã hội thì đứng trên góc độ vĩ mô về lợi ích của toàn xã hội, của
Nhà nước thì phân tích về kinh tế tài chính đứng trên góc độ vi mô của chủ
đầu tư dự án xem xét về tính hiệu quả và lãi sinh ra từ dự án với mục tiêu tối
đa hoá lợi nhuận kết hợp với an toàn kinh doanh.
Việc tính toán tài chính được tiến hành theo những nội dung và trình tự như sau:
* Tổng vốn đầu tư ban đầu cho dự án.
* Cơ cấu nguồn vốn: Vốn tự có, vốn đi vay, vốn góp... khi có vốn vay thì
quan tâm đến lãi suất đi vay và thời gian vay như: dài hạn, trung hạn và ngắn

hạn.
* Khả năng đáp ứng vốn, điều này sẽ ảnh hưởng đến quy mô của dự án. Nếu
khả năng đáp ứng vốn lớn thì quy mô lớn và ngược lại.
* Tính toán các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của dự án đầu tư: NPV,
B/C, IRR, Thời gian hoàn vốn cùng với phân tích độ nhạy và rủi ro của dự án.
* So sánh và lựa chọn các phương án khác nhau để tìm một phương án tối ưu
nhất.
Để phân tích một cách cặn kẽ tài chính của một dự án đầu tư ta phải
hiểu về dòng tiền của dự án, về các cách quy đổi dòng tiền dự án, cách tính

Häc viªn: TrÞnh Kim Oanh CH 2002


18

các tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế của dự án đầu tư, tính khấu hao, trả
vốn và trả lãi cho các nguồn vốn vay, tính thuế thu nhập doanh nghiệp, xây
dựng được dòng tiền trước thuế (CFBT) và dòng tiền sau thuế (CFAT)...

Häc viªn: TrÞnh Kim Oanh CH 2002


19

1.2.3 Phân tích kinh tế – Xã hội dự án đầu tư
Nếu như phân tích kinh tế tài chính xem xét dự án theo giác độ lợi ích
trực tiếp của chủ đầu tư thì trái lại phân tích kinh tế xã hội lại đánh giá dự án
xuất phát từ lợi ích của toàn bộ nền kinh tế quốc dân và toàn xã hội. Việc
phân tích kinh tế xã hội là rất cần thiết bởi vì:
Trong nền kinh tế thị trường việc đầu tư là do bản thân nhu cầu của

doanh nghiệp nhưng không được trái với những quy định của pháp luật và
phù hợp với đường lối phát triển kinh tế xã hội chung của đất nước, mà ở đó
lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích của đất nước được kết hợp chặt chẽ với
nhau. Do vậy yêu cầu là phải được thể hiện thông qua phần phân tích kinh tế
xã hội.
Phân tích kinh tế xã hội đối với nhà đầu tư đó là căn cứ chủ yếu để
thuyết phục Nhà nước xét duyệt cấp giấp phép đầu tư, các cơ quan có thẩm
quyền chấp nhận dự án, thuyết phục các ngân hàng cho vay vốn, thuyết phục
nhân dân địa phương đặt dự án ủng hộ chủ đầu tư thực hiện dự án.
Đối với các tổ chức viện trợ dự án, phân tích kinh tế xã hội cũng là một
căn cứ quan trọng để họ chấp thuận viện trợ, nhất là đối với các tổ chức viện
trợ nhân đạo, viện trợ cho các mục đích xã hội, viện trợ cho việc bảo vệ môi
trường.
Đối với các dự án phục vụ lợi ích công cộng do Nhà nước trực tiếp bỏ
vốn thì phần phân tích lợi ích kinh tế xã hội đóng vai trò chủ yếu trong dự án,
loại dự án này ở nước ta hiện nay đang phổ biến và chiếm một nguồn vốn khá
lớn. Chính vì vậy mà việc phân tích kinh tế xã hội của dự án luôn luôn giữ
một vai trò quan trọng.
Để thấy rõ đặc điểm của phân tích kinh tế tài chính và kinh tế xã hội ta
có một số so sánh sau:

Häc viªn: TrÞnh Kim Oanh CH 2002


20

Phân tích kinh tế tài chính xem xét dự án theo giác độ lợi ích trực tiếp
của chủ đầu tư thì trái lại phân tích kinh tế xã hội lại đánh giá dự án xuất phát
từ lợi ích của toàn bộ nền kinh tế quốc dân và toàn xã hội. Chủ đầu tư xuất
phát từ lợi ích trực tiếp của chính mình nhưng phải nằm trong phạm vi pháp

luật cho phép (như khuôn khổ của luật môi trường, luật đất đai, luật kinh
doanh, luật đầu tư, danh mục các sản phẩm bị cấm v.v...).
Lợi ích của quốc gia, xã hội và lợi ích của chủ đầu tư có mặt thống nhất
thể hiện ở chỗ các dự án đầu tư một mặt đem lại lợi nhuận cho chủ doanh
nghiệp, nhưng mặt khác cũng góp phần phát triển đất nước (thông qua nộp
thuế). Nhưng hai lợi ích trên có thể mâu thuẫn nhau, nhất là theo giác độ bảo
vệ môi trường.
Về quan điểm tính toán lợi ích cũng khác nhau: Phân tích kinh tế tài
chính đứng trên góc độ vi mô còn phân tích kinh tế xã hội đứng trên giác độ
vĩ mô để xem xét vấn đề. Phân tích tài chính lấy mục tiêu là tối đa hóa lợi
nhuận kết hợp với an toàn kinh doanh là chính, còn phân tích kinh tế xã hội
lấy mục tiêu tối đa hóa lợi ích kinh tế xã hội là xuất phát điểm để xem xét
vấn đề. Khi tính toán các chỉ tiêu tĩnh và các chỉ tiêu động như: NPV, IRR,
B/C và Thời gian hoàn vốn thì trong phân tính kinh tế xã hội người ta không
dùng giá tài chính (giá thị trường) mà dùng cái gọi là giá kinh tế hay giá tham
khảo (Rerence Price) hay là giá ẩn hoặc giá quy chiếu (Shadow Price). Bên
cạnh đó người ta dùng chi phí hay giá thời cơ, đó là giá trị của một cái gì đó
mà xã hội phải từ bỏ khi chấp nhận khi phải chấp nhận một quyết định nào đó
của dự án đầu tư. Còn trong phân tích tài chính người ta thường dùng giá thị
trường là chủ yếu. Điều này sẽ thể hiện khi tính toán tài chính trong dự án nhà
máy nhiệt điện Cẩm Phả với những mức giá thị trường cụ thể.
Một ví dụ thể hiện hai lợi ích trái ngược nhau giữa chủ đầu tư và xã
hội: Khi phân tích kinh tế tài chính thì thuế bị coi là một khoản chi phí đối với

Häc viªn: TrÞnh Kim Oanh CH 2002


21

chủ đầu tư, nhưng khi phân tích kinh tế xã hội nó được coi là một khoản thu

nhập đối với Nhà nước. Khoản trợ cấp của Nhà nước đối với dự án được coi
là một khoản thu nhập còn đối với phân tích kinh tế xã hội lại là một khoản
chi.

Häc viªn: TrÞnh Kim Oanh CH 2002


×