Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Tái cấu trúc tài chính tại công ty điesel sông công thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 119 trang )

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
-----------------

ĐÀM PHƯƠNG LAN

TÁI CẤU TRÚC TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY ĐIESEL
SÔNG CÔNG THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SỸ KỸ THUẬT
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN TRỌNG PHÚC

HÀ NỘI - 2004


T¸i cÊu tróc tµi chÝnh t¹i C«ng ty Diesel S«ng c«ng

Trang 1

Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài

T

rong điều kiện hiện nay, các doanh nghiệp hoạt động trong một
môi trường luôn luôn biến động, từ đó xuất hiện những cơ hội
có thể đem lại lợi nhuận cũng như rủi ro cho doanh nghiệp.

Trong xu thế tất yếu của hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế thì muốn tồn tại


và phát triển các doanh nghiệp không những phải đủ sức mạnh cạnh tranh
ngay trên thị trường trong nước mà phải đủ lực cạnh tranh quốc tế. Muốn vậy
các doanh nghiệp phải chấp nhận luật chơi chủ yếu dựa vào quy luật của nền
kinh tế thị trường. Quá trình hội nhập là tất yếu đối với tất cả các nước muốn
phát triển kinh tế trong thời đại toàn cầu hoá ngày nay. Trong cùng một sân
chơi, một môi trường kinh doanh, các doanh nghiệp phải biết khẳng định
mình bằng cách luôn tự làm mới mình, biết phân tích nhận rõ các đối thủ thực
và đối thủ tiềm ẩn để cạnh tranh trên các phương diện, bởi trong môi trường
đó luật pháp được đặt ra cho các doanh nghiệp áp dụng là như nhau, các
doanh nghiệp cần phải tôn trọng luật pháp, tôn trọng các hiệp ước, các thoả
thuận đã ký, đồng thời cũng phải tôn trọng các đối thủ cạnh tranh. Trong nền
kinh tế thị trường, cạnh tranh là động lực bên trong thúc đẩy sự phát triển nền
kinh tế nói chung và doanh nghiệp nói riêng. Trong những điều kiện đó, các
nhà quản trị phải nhận thức được rằng nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp là công việc vừa bức xúc, vừa lâu dài, là nhiệm vụ trọng tâm
trong chỉ đạo, điều hành của ban quản trị và sự nỗ lực, phấn đấu của chính
bản thân doanh nghiệp. Để thực hiện được điều đó thì công tác làm đổi mới
các hoạt động của doanh nghiệp mà đi đầu là công tác tái cấu trúc tài chính

Häc viªn: ĐÀM PHƯƠNG LAN Líp Cao häc QTKD (Th¸i nguyªn).


T¸i cÊu tróc tµi chÝnh t¹i C«ng ty Diesel S«ng c«ng

Trang 2

luôn là bước đi đầu tiên trong công tác hoạch định đối với các doanh nghiệp
thành công trên thị trường. Cấu trúc tài chính của doanh nghiệp là một chiến
lược và chiến thuật tài chính, điều quan trọng là các nhà quản trị sử dụng các
chiến thuật này như thế nào để hoạt động của doanh nghiệp đạt hiệu quả nhất,

đó là một vấn đề cấp thiết.
Xuất phát từ ý tưởng trên, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu “Tái
cấu trúc tài chính tại Công ty Diesel Sông công Thái nguyên"
2. Phạm vi nghiên cứu
Tái cấu trúc tài chính là một trong những công việc quan trọng trong
khâu hoạch định tài chính phục vụ công tác quản lý tài chính trong doanh
nghiệp. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là thông qua nghiên cứu môi trường
kinh doanh và môi trường pháp lý, qua phân tích tình hình thực tế của Công
ty Diesel Sông Công và qua nghiên cứu thị trường Việt nam để tiến hành tái
cấu trúc tài chính tại Công ty Diezen Sông công Thái Nguyên nhằm phù hợp
với nhịp độ phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia và khu vực.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài tập trung vào các vấn đề chủ yếu sau:
 Nghiên cứu cơ sở lý luận của công tác tái cấu trúc tài chính trong
doanh nghiệp nói chung.
 Vận dụng để tái cấu trúc tài chính ở các doanh nghiệp và ứng dụng
tại Công ty Diezel Sông Công Thái nguyên.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Các tài liệu nghiên cứu
- Nhóm các tài liệu nghiên cứu liên quan đến phương pháp nghiên cứu
khoa học
- Nhóm các tài liệu về tài chính doanh nghiệp và quản trị tài chính
doanh nghiệp.

Häc viªn: ĐÀM PHƯƠNG LAN Líp Cao häc QTKD (Th¸i nguyªn).


T¸i cÊu tróc tµi chÝnh t¹i C«ng ty Diesel S«ng c«ng

Trang 3


- Nhóm các tài liệu về kế toán tài chính và kế toán quản trị.
- Nhóm các tài liệu về các văn bản pháp luật: các luật thuế, luật doanh
nghiệp, chế độ kế toán tài chính trong hệ thống các văn bản pháp luật của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp quan sát: thông qua trao đổi với các chuyên viên tài
chính của Công ty Diesel Sông Công để nắm bắt được cơ chế tài chính,
phương pháp dự báo các chỉ tiêu tài chính và quá trình tái cấu trúc tài chính
mà Công ty đã áp dụng.
- Phương pháp điều tra: theo mục tiêu nghiên cứu của đề tài tiến hành
điều tra, thu thập số liệu liên quan đến tình hình tài chính và công tác tái cấu
trúc tài chính của Công ty.
- Phương pháp phân tích hệ thống: dựa trên 2 công cụ cơ bản là quy
nạp và diễn dịch
- Phương pháp mô hình: dự báo tài chính, kiểm tra.
- Phương pháp thống kê phân tích
5. Nội dung cơ bản của đề tài:
Tên đề tài " Tái cấu trúc tài chính tại Công ty Diesel Sông công Thái
nguyên"
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu làm 3 phần:
Phần 1: Cơ sở lý luận về tài chính và tái cấu trúc tài chính doanh nghiệp.
Phần 2: Phân tích thực trạng tình hình tài chính của Công ty Diesel Sông
Công Thái nguyên.
Phần 3: Vận dụng tái cấu trúc tài chính tại Công ty Diesel Sông Công Thái
nguyên

Häc viªn: ĐÀM PHƯƠNG LAN Líp Cao häc QTKD (Th¸i nguyªn).



T¸i cÊu tróc tµi chÝnh t¹i C«ng ty Diesel S«ng c«ng

Trang 4

Phần 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI CHÍNH VÀ
TÁI CẤU TRÚC TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

1.1. Doanh nghiệp và vấn đề tái cấu trúc tài chính doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp
Hiện nay trên phương diện lý thuyết đã có khá nhiều định nghĩa thế nào
là một doanh nghiệp, mỗi định nghĩa đều mang trong nó một nội dung nhất
định với một giá trị nhất định. Điều ấy cũng là đương nhiên, vì rằng mỗi một
định nghĩa được xét trên một hoặc một số tiêu thức khác nhau và đứng trên
nhiều quan điểm khác nhau khi tiếp cận doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, có con dấu, có
tài sản, có quyền và nghĩa vụ dân sự hoạt động kinh tế theo chế độ hạch toán
độc lập, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh tế trong phạm vi vốn
đầu tư do doanh nghiệp quản lý và chịu sự quản lý của nhà nước thông qua
luật pháp và chính sách thuế .
Doanh nghiệp là một đơn vị tổ chức sản xuất mà tại đó người ta kết hợp
các yếu tố sản xuất (có sự quan tâm giá cả của các yếu tố) khác nhau do các
nhân viên của công ty thực hiện nhằm bán ra trên thị trường những sản phẩm
hàng hóa hay dịch vụ để nhận được khoản tiền chênh lệch giữa giá bán sản
phẩm với giá thành của sản phẩm ấy. (M.Francois Peroux).

Häc viªn: ĐÀM PHƯƠNG LAN Líp Cao häc QTKD (Th¸i nguyªn).



T¸i cÊu tróc tµi chÝnh t¹i C«ng ty Diesel S«ng c«ng

Trang 5

Doanh nghiệp là một cộng đồng người sản xuất ra những của cải. Nó
sinh ra, phát triển, có những thất bại, có những thành công, có lúc vượt qua
những thời kỳ nguy kịch và ngược lại có lúc phải ngừng sản xuất, đôi khi tiêu
vong do gặp phải những khó khăn không vượt qua được (kinh tế doanh
nghiệp - D.Larua.A Caillat )
Doanh nghiệp bao gồm một tập hợp các bộ phận được tổ chức, có tác
động qua lại và theo đuổi cùng một mục tiêu. Các bộ phận tập hợp trong
doanh nghiệp bao gồm 4 phân hệ sau: sản xuất, thương mại, tổ chức và nhân
sự.
Ngoài ra có thể liệt kê hàng loạt những định nghĩa khác nữa, nhưng dù
xem xét doanh nghiệp dưới những góc nhìn khác nhau, song giữa các định
nghĩa về doanh nghiệp đều có những điểm chung nhất, nếu tổng hợp chúng lại
với một tầm nhìn bao quát trên phương diện tổ chức quản lý là xuyên suốt từ
khâu hình thành tổ chức, phát triển đến các mối quan hệ với môi trường, các
chức năng và nội dung hoạt động của doanh nghiệp.
Từ cách nhìn nhận như trên có thể phát biểu về định nghĩa doanh
nghiệp như sau: "Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế có tư cách pháp nhân, quy
tụ các phương tiên về tài chính, vật chất và con người nhằm thực hiện các
hoạt động sản xuất, cung ứng, tiêu thụ sản phẩm hoặc dịch vụ, trên cơ sở tối
đa hóa lợi ích của người tiêu dùng, thông qua đó tối đa hóa lợi nhuận của
chủ sở hữu, đồng thời kết hợp một cách hợp lý các mục tiêu xã hội".
1.1.2 Lý thuyết cạnh tranh - Cơ sở tái cấu trúc tài chính trong doanh
nghiệp
Trước xu thế toàn cầu hoá trong kinh doanh đang từng ngày, từng giờ
tạo nên những áp lực cạnh tranh hết sức gay gắt, tạo ra nhiều áp lực đối với
các doanh nghiệp trên các lĩnh vực như chất lượng sản phẩm, chiến lược cạnh

tranh, tiềm lực tài chính... đòi hỏi các doanh nghiệp phải liên tục đổi mới và

Häc viªn: ĐÀM PHƯƠNG LAN Líp Cao häc QTKD (Th¸i nguyªn).


T¸i cÊu tróc tµi chÝnh t¹i C«ng ty Diesel S«ng c«ng

Trang 6

không ngừng cải tiến nhằm nâng cao hiệu năng quản trị, nâng cao vị thế cạnh
tranh để có thể tồn tại và phát triển bền vững. Quá trình hội nhập đã đặt các
doanh nghiệp vào một môi trường chung mà trong đó, quy luật thị trường,
quy luật cạnh tranh, các hiệp ước, các thoả thuận giữa các doanh nghiệp được
đặt lên vị trí cao khi tham gia hoạt động. Trong môi trường đó không chỉ có
các đối thủ thực sự doanh nghiệp cần phải tìm hiểu mà còn có các đối thủ
tiềm ẩn có sức cạnh tranh lớn có thể quyết định tới sự tồn tại của mỗi doanh
nghiệp có liên quan.
Năm 1990, Giáo sư Michael Porter ở trường ĐH kinh doanh Harvard
cùng các cộng sự đã nghiên cứu sự vận động, phát triển và thành công của
hơn 100 ngành công nghiệp của 10 nước trên thế giới đã cho ra đời “Lý
thuyết kim cương” - lý thuyết mới về sức cạnh tranh của các doanh nghiệp
ngày nay. Ông cho rằng có bốn phẩm chất tổng quát tạo ra lợi thế cạnh tranh
của quốc gia trên thương trường quốc tế. Đó là:1. các yếu tố trời cho; 2. Sức
cầu nội địa; 3. Sự tồn tại hay thiếu vắng của các ngành công nghiệp có tính hỗ
trợ hay liên quan; 4. Chiến lược, cơ cấu cùng sức cạnh tranh nội địa của các
công ty. Bốn phẩm chất này được ví như bốn đỉnh cacbon tạo nên viên kim
cương của lý thuyết.
Thứ nhất là các yếu tố trời cho. Đây là yếu tố hiện hữu, có thật và đã
có trong hiện tại mỗi doanh nghiệp. Chúng được chia ra thành hai loại: căn
bản (basic) và tiên tiến (advanced) Yếu tố căn bản gồm có những yếu tố sản

xuất: tài nguyên, địa lý, nhân chủng học... Yếu tố tiên tiến gồm cơ sở hạ tầng
về viễn thông, tay nghề, các phương tiện nghiên cứu, kỹ năng, công nghệ. Các
yếu tố tiên tiến đóng vai trò quan trọng trong lợi thế cạnh tranh bởi chúng là
kết quả của sự đầu tư của chính quyền và dân chúng.
Thứ hai là sức cầu nội địa. Nó rất quan trọng để thúc đẩy lợi thế cạnh
tranh. Các doanh nghiệp thường nhạy bén với nhu cầu khách hàng ở sát mình.

Häc viªn: ĐÀM PHƯƠNG LAN Líp Cao häc QTKD (Th¸i nguyªn).


T¸i cÊu tróc tµi chÝnh t¹i C«ng ty Diesel S«ng c«ng

Trang 7

Nhu cầu nội địa sẽ thúc đẩy doanh nghiệp phải đáp ứng, phải cạnh tranh về
mặt chất lượng và đổi mới. Nhu cầu nội địa tạo nên sức mạnh cho sản phẩm,
các sản phẩm phải khẳng định được chính mình ngay tại thị trường nội địa,
phải tạo được niềm tin ngay trong giới tiêu dùng nội địa, khi đó phát triển ra
thị trường thế giới mới có sức cạnh tranh. Trong điều kiện hội nhập các sản
phẩm có sức tiêu thụ và mức độ tin tưởng cao ở ngay sân nhà, sẽ hội nhập và
đạt đỉnh cao dù ở bất cứ thị trường nào mà không sợ bị hoà tan với các sản
phẩm cùng loại. Các doanh nghiệp sẽ tạo được lợi thế cạnh tranh nếu người
tiêu dùng nội địa tỏ ra khó tính trong việc chọn hàng. Điện thoại di động của
Nokia hay của Ericsson đã tràn ngập thế giới là vì đòi hỏi không ngừng của
người tiêu thụ nội địa vùng Bắc Âu.
Thứ ba là sự tồn tại hay thiếu vắng của các ngành công nghiệp có
tính hỗ trợ hay liên quan. Yếu tố này sẽ giúp cho doanh nghiệp có lợi thế
cạnh tranh. Đây là hiệu ứng tiếp nối trong sản xuất (lịnage effect). Các lợi ích
thu được từ một sự đầu tư vào các yếu tố tiên tiến của một ngành nào đó mà
ngành này lại hỗ trợ hay có liên quan đến một ngành khác thì ngành sau này

sẽ được hưởng lợi từ ngành trước. Các doanh nghiệp nếu tận dụng được yếu
tố này sẽ luôn làm mới sản phẩm của mình bằng chính các sản phẩm hỗ trợ.
Thí dụ, sự dẫn đầu về công nghệ chất bán dẫn của mỹ vào những năm giữa
thập kỷ 1980 đã thúc đẩy việc sản xuất máy vi tính cá nhân cùng một loạt các
sản phẩm điện tử cao cấp. Hệ quả của việc này là các ngành công nghiệp
thành công trong một nước sẽ dính chùm vào nhau.
Thứ tư là chiến lược, cấu trúc và sự cạnh tranh nội địa của các
doanh nghiệp. Phẩm chất này ảnh hưởng nhiều đến lợi thế cạnh tranh của các
doanh nghiệp. Khi các Công ty bị buộc phải cạnh tranh để giành khách hàng
trong nước thì họ cũng bị thúc đẩy phải nâng cao chất lượng, giảm giá thành,
cải tiến quản lý... khi ấy họ sẽ có sức cạnh tranh với bên ngoài. Lý thuyết

Häc viªn: ĐÀM PHƯƠNG LAN Líp Cao häc QTKD (Th¸i nguyªn).


T¸i cÊu tróc tµi chÝnh t¹i C«ng ty Diesel S«ng c«ng

Trang 8

Marketing hiện đại cũng đã chỉ ra rằng để sản phẩm có sức cạnh tranh và
ngày càng nâng cao sức cạnh tranh thì người chủ cần phải biết tự làm lạc hậu
sản phẩm của mình khi người tiêu dùng thấy sản phẩm đó đã cũ. Đây chính là
một chiến lược marketing của các doanh nghiệp nổi tiếng trên thế giới. Hãng
Nokia là một điển hình. Phần Lan là xứ lạnh lẽo, đi lại khó khăn, nhu cầu về
điện thoại cao; do đó có nhiều hãng nhỏ cung cấp về dịch vụ này. Cũng do
điều kiện địa lý việc kéo dây đặt cột cho điện thoại tốn kém, và nhu cầu về
điện thoại không dây tăng cao. Nokia thoạt đầu là một tổ hợp sản xuất vỏ xe,
dụng vụ điện và họ bèn đi vào lĩnh vực này. Vì dân Phần lan quen dùng điện
thoại của hãng nào rẻ nhất, bất kể là của Motorola, Ericsson hay bất kể cả ai,
Nokia bị buộc phải cạnh trnah về giá thành và công nghệ. Kết quả là họ đã

thành công vượt trội. Đây chính là đỉnh cacbon thứ tư được sinh ra từ 3 đỉnh
cacbon kia đồng thời nó cũng là đỉnh làm nổi bật chúng.
Đến đây các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng mỗi quốc gia có ý tưởng
khác nhau về quản trị kinh doanh và điều này tác động ít nhiều vào việc tạo
nên lợi thế cạnh tranh.
Hoạt động của doanh nghiệp, phương pháp quản lý và chiến lược cạnh
tranh của doanh nghiệp chủ yếu dựa trên cấu trúc tài chính của doanh nghiệp.
Ngược lại các quyết định chủ yếu về tài chính có thể ảnh hưởng lớn đến kế
hoạch hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vấn đề tài chính liên quan đến
mọi hoạt động của doanh nghiệp vì các quyết dịnh quản lý hầu như được đưa
ra sau những cân nhắc kỹ càng về tài chính. Việc quản lý tài chính ở doanh
nghiệp được thực hiện với "3 nguyên tắc vàng":
• Không bao giờ để thiếu tiền (đảm bảo năng lực thanh toán)
• Đưa ra các quyết định đầu tư đúng (hiệu quả cao)
• Đưa ra các quyết định tài trợ hợp lý (chi phí sử dụng vốn thấp).

Häc viªn: ĐÀM PHƯƠNG LAN Líp Cao häc QTKD (Th¸i nguyªn).


T¸i cÊu tróc tµi chÝnh t¹i C«ng ty Diesel S«ng c«ng

Trang 9

Với 3 nguyên tắc này đòi hỏi nhà quản trị doanh nghiệp phải có khả
năng đưa ra được các quyết định phù hợp với mục đích và mục tiêu của doanh
nghiệp đồng thời phải có khả năng tổ chức thực hiện các mục tiêu đó.
Mặt khác hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường và kinh tế hội nhập luôn luôn biến động và phức tạp kéo
theo hàng loạt các vấn đề mà doanh nghiệp phải tính tới : nhu cầu thị trường,
khả năng của các đối thủ cạnh tranh, tình hình chính trị, xã hội trong nước và

của thế giới, nội lực của doanh nghiệp... Trong điều kiện ngày càng có nhiều
đối thủ cạnh tranh nhất là khi nền kinh tế đất nước hội nhập vào AFTA thì
tình cạnh tranh ngày càng quyết liệt hơn. Để doanh nghiệp có thể tồn tại và
phát triển được thì bản thân doanh nghiệp cần phải có những chính sách đầu
tư thích hợp và một hệ thống các giải pháp đồng bộ từ chính sách đầu tư thích
hợp; áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất để tăng năng suất
và chất lượng; sử dụng có hiệu quả đồng vốn... Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp
phải thường xuyên tái lập toàn bộ các mặt hoạt động của mình. Tài chính với
chức năng nhạy cảm nhất so với các yếu tố khác của quá trình sản xuất là một
điểm nút rất quan trọng cần phải tái cơ cấu một cách hợp lý để định hướng
cho các yếu tố sắp xếp lại sau.
Quá trình tái cấu trúc tài chính trong doanh nghiệp tuân theo
vòng tròn PDCA (chu trình W. Edwards Deming) - tái cấu trúc không ngừng
như sau :
Lập kế hoạch
(Plan)

Hành động
(Action)

Thực
hiện (Do)

Kiểm tra
(Check)

Häc viªn: ĐÀM PHƯƠNG LAN Líp Cao häc QTKD (Th¸i nguyªn).


T¸i cÊu tróc tµi chÝnh t¹i C«ng ty Diesel S«ng c«ng


Trang 10

P: Tiến hành phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp và sử dụng
nghiên cứu này trong việc hoạch định tài chính (lập kế hoạch).
D: Tiến hành hoạch định tài chính (tái cấu trúc tài chính).
C: Kiểm tra quá trình tái cấu trúc tài chính so sánh với kế hoạch đã đặt
ra (kiểm tra).
A: Thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh, phân tích điều chỉnh
những sai sót (hành động).
1.2. Tài chính và phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp.
1.2.1. Vai trò của tài chính hỗ trợ và nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập.
Tài chính doanh nghiệp được hiểu là mối quan hệ giá trị giữa các doanh
nghiệp với các chủ thể trong nền kinh tế. Về bản chất, tài chính doanh nghiệp
là mối quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị gắn liền với việc tạo lập, sử
dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh. Về hình
thức tài chính doanh nghiệp phản ánh sự vận động và chuyển hoá của các
nguồn lực tài chính trong quá trình phân phối để tạo lập hoặc sử dụng các quỹ
tiền tệ của Doanh nghiệp. Vai trò của tài chính trong doanh nghiệp được thể
hiện:
Thứ nhất, tài chính là cơ sở vật chất cần thiết trực tiếp tạo ra tiềm lực
tài chính để doanh nghiệp nâng can khả năng cạnh tranh của mình. Thông qua
quá trình động viên, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính, Nhà nước
có thể thay đổi chính sách động viên, phân phối nguồn lực tài chính trong
doanh nghiệp, từ đó tác động, điều chỉnh tiềm lực tài chính của doanh nghiệp,
góp phần kiềm chế hoặc kích thích năng lực cạnh tranh của từng doanh
nghiệp.

Häc viªn: ĐÀM PHƯƠNG LAN Líp Cao häc QTKD (Th¸i nguyªn).



T¸i cÊu tróc tµi chÝnh t¹i C«ng ty Diesel S«ng c«ng

Trang 11

Thứ hai, tài chính tác động làm thay đổi tiêu chí đánh giá khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp. Để nâng cao khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp
phải xác định được lợi thế vốn có của mình so với những đối thủ khác. Những
lợi thế đó được biểu hiện thông qua đánh giá các tiêu chí cạnh tranh của mỗi
doanh nghiệp. Tài chính, thông qua sự vận động của các luồng tiền tệ, có thể
làm thay đổi các tác nhân liên quan đến quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm,
từ đó làm thay đổi các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp.
Thứ ba, thông qua sử dụng các đòn bẩy kích thích, tài chính vừa tạo ra
động lực, vừa tạo ra áp lực thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh
tranh bằng cách gắn lợi ích kinh tế của từng chủ thể cạnh tranh với việc đạt
được các tiêu chí cạnh tranh. Đây là vai trò vốn có của tài chính, chiếm ưu thế
hơn các công cụ kinh tế khác.
Vai trò quan trọng của tài chính trong việc thúc đẩy và nâng cao năng
lực cạnh tranh là ở chỗ, tác động của công cụ này có ảnh hưởng sâu rộng đến
hầu hết các hoạt động kinh tế, xã hội, đến đầu tư và tiêu dùng, có thể trực tiếp
và gián tiếp ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của các chủ thể trong quá trình phát
triển cạnh tranh.
1.2.2. Phân tích cơ cấu tài chính doanh nghiệp
1.2.2.1. Phân tích chung về tình hình tài chính của doanh nghiệp
Kỹ năng phân tích tài chính đóng vai trò quan trọng đối với nhiều đối
tượng rộng rãi khác nhau, bao gồm các nhà đầu tư, những người cho vay và
các cơ quan quản lý nà nước. Nhưng không ở nơi nào có tầm quan trọng hơn
là ở tại các doanh nghiệp. Bất kể ngành nghề kinh doanh, quy mô doanh

nghiệp ra sao, các nhà quản trị doanh nghiệp đều cần trang bị kỹ năng này để
có thể chuẩn đoán chính xác hướng đi của doanh nghiệp và dự đoán được hệ
quả tài chính từ các hoạt động của mình.

Häc viªn: ĐÀM PHƯƠNG LAN Líp Cao häc QTKD (Th¸i nguyªn).


T¸i cÊu tróc tµi chÝnh t¹i C«ng ty Diesel S«ng c«ng

Trang 12

Mỗi nhà phân tích khác nhau, tuỳ theo mục đích, họ có thể phân tích
đánh giá trên một khía cạnh nào đó về bức tranh tài chính của doanh nghiệp
theo các phương pháp phân tích khác nhau. Một trong những phương pháp
được sử dụng phổ biến là đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh
nghiệp thông qua từng báo cáo tài chính, sau đó liên kết các chỉ tiêu trên các
báo cáo để đánh giá toàn diện về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Để đưa
ra một sự đánh giá trung thực, khách quan về thực trạng tài chính hay những
dự đoán tài chính cho tương lai đòi hỏi nhà phân tích không những phải nắm
vững về báo cáo tài chính, phương pháp phân tích, mà còn phải am hiểu về
đặc điểm của từng ngành, thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp.
Để thấy được một cách rõ hơn về thực trạng tài chính của doanh
nghiệp, ta cần đi sâu xem xét sự phân bổ về tỷ trọng của tài sản, nguồn vốn,
cũng như sự biến động từng khoản mục trong bảng cân đối kế toán để đánh
giá sự phân bổ tài sản, nguồn vốn có hợp lý hay không và xu hưởng biến động
của nó như thế nào. Việc đánh giá khái quát tình hình tài chính thường được
thực hiện thông qua việc so sánh các số liệu, chỉ tiêu tổng thể trên Bảng cân
đối kế toán và Báo cáo kết quả kinh doanh.
1.2.2.2. Phân tích các báo cáo tài chính
Các báo cáo tài chính trong doanh nghiệp bao gồm: bảng cân đối kế

toán, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết
minh báo cáo tài chính. Trong đó, bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả sản
xuất kinh doanh cung cấp những thông tin rất hữu ích cho việc đánh giá sức
mạnh tài chính, khả năng thanh khoản, rủi ro và lợi nhuận của doanh nghiệp.
Nhưng các báo cáo này không thể cho người xem xác định được các điểm
mạnh, điểm yếu của một doanh nghiệp mà phải thông qua việc tính toán các
chỉ số tài chính. Việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp được
thực hiện trên cơ sở phân tích tổng quát và phân tích chi tiết từng chỉ tiêu.

Häc viªn: ĐÀM PHƯƠNG LAN Líp Cao häc QTKD (Th¸i nguyªn).


T¸i cÊu tróc tµi chÝnh t¹i C«ng ty Diesel S«ng c«ng

Trang 13

Phương pháp phân tích chung tình hình tài sản và nguồn vốn của doanh
nghiệp là phương pháp so sánh mức tăng trưởng các chỉ tiêu tổng thể trên
bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả kinh doanh. Đầu tiên là so sánh tổng
tài sản cuối kỳ và đầu năm, sự so sánh này có thể cho thấy sự thay đổi về quy
mô hoạt động của doanh nghiệp cũng như khả năng huy động vốn của doanh
nghiệp. Tiếp theo là sự so sánh về doanh thu, chi phí, lợi nhuận các hoạt động
trên báo cáo kết quả kinh doanh, điều đó cho thấy quy mô hoạt động đồng
thời có thể đưa ra những nhận xét ban đầu về hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp. Tuy nhiên tài sản, nguồn vốn, doanh thu, lợi nhuận, chi phí tăng giảm
do rất nhiều nguyên nhân, do vậy cần phải đi sâu xem xét, phân tích mối quan
hệ và sự biến động của các khoản mục trong Bảng cân đối kế toán và báo cáo
kết quả kinh doanh, xem xét sự biến động của mỗi khoản mục và so sánh sự
thay đổi tỷ trọng mỗi khoản mục giữa các kỳ khác nhau. Khi so sánh mức độ
thay đổi mỗi khoản mục tài sản hoặc nguồn vốn bằng số chênh lệch tuyệt đối

cũng như số tỷ lệ, có thể thấy được về số lượng, qui mô của mỗi khoản mục
cũng như thấy được những khoản mục có sự thây đổi nổi bật. Sự thay đổi lớn
của mỗi khoản mục nào đó so với mức thay đổi chung của các khoản mục
khác luôn luôn phải được quan tâm xem xét kỹ trong quá trình phân tích. Các
tỷ trọng được xem xét:
+ Tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn
Tỷ trọng nguồn vốn
CSH/Tổng nguồn vốn

=

Nguồn vốn chủ sở hữu
X

100%

Tổng nguồn vốn

Sự tăng hay giảm tỷ trọng này phản ánh sự tăng hay giảm tính tự chủ
về tài chính của doanh nghiệp. Tỷ trọng nguồn vốn sở hữu càng thấp, sự phụ
thuộc về tài chính của doanh nghiệp vào các khách hàng và chủ nợ càng cao,
về nguyên tắc sự gia tăng tỷ trọng này so với lúc ban đầu hoạt động kinh
doanh là tốt. Tổng nguồn vốn chủ sở hữu cũng như tỷ trọng nguồn vốn chủ sở

Häc viªn: ĐÀM PHƯƠNG LAN Líp Cao häc QTKD (Th¸i nguyªn).


T¸i cÊu tróc tµi chÝnh t¹i C«ng ty Diesel S«ng c«ng

Trang 14


hữu phụ thuộc vào lượng vốn góp nhờ liên doanh liên kết và phụ thuộc vào
kết quả kinh doanh cũng như chính sách phân chia lợi nhuận của doanh
nghiệp..
+ Tỷ suất đầu tư tài sản cố định: tỷ suất này phản ánh tình hình trang
thiết bị cơ sở vật chất kỹ thuật, trang bị tài sản cố định hiện tại của doanh
nghiệp, cho thấy tỷ trọng tài sản cố định đơn vị đang sử dụng so với toàn bộ
tài sản. Tỷ suất này tăng cho thấy năng lực sản xuất và xu hướng phát triển
lâu dài của doanh nghiệp.
+ Tỷ suất tự tài trợ tài sản cố định: tỷ suất này cho thấy tỷ lệ về vốn chủ
sở hữu dùng để trang bị cho tài sản cố định. Doanh nghiệp có khả năng về tài
chính vững vàng và lành mạnh thì tỷ suất này thường > 1. Sẽ mạo hiểm khi
doanh nghiệp phải đi vay ngắn hạn để mua sắm tài sản cố định, vì tài sản cố
định thể hiện năng lực kinh doanh lâu dài nên không thể thu hồi nhanh chóng
được.
Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả kinh doanh cung cấp các
thông tin hữu ích cho việc đánh giá sức mạnh tài chính, khả năng thanh
khoản, rủi ro và lợi nhuận của doanh nghiệp. Nhưng thật không dễ dàng để có
thể xác định một cách chính xác những điểm mạnh, điểm yếu của doanh
nghiệp mà chỉ bằng cách xem xét các báo cáo này. Thông qua phân tích các
chỉ sổ tài chính, ta có thể đánh giá khá chính xác tình hình tài chính của doanh
nghiệp, đồng thời các chỉ số tài chính còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc so
sánh tình hình và kết quả hoạt động của doanh nghiệp qua nhiều giai đoạn và
so sánh với các doanh nghiệp khác trong ngành hoặc so sánh với giá trị trung
bình ngành.

 Tỷ số phản ánh khả năng thanh toán
Để biết được tình hình tài chính của doanh nghiệp có lành mạnh hay
không, từ đó dự đoán khả năng tồn tại, phất triển, cần xem xét đến khả năng


Häc viªn: ĐÀM PHƯƠNG LAN Líp Cao häc QTKD (Th¸i nguyªn).


T¸i cÊu tróc tµi chÝnh t¹i C«ng ty Diesel S«ng c«ng

Trang 15

thanh toán của doanh nghiệp. Nếu mất khả năng thanh toán, doanh nghiệp sẽ
đi dần đến bờ vực của sự phá sản, phải tự giải thể vì vỡ nợ. Khả năng thanh
toán là khả năng chi trả các khoản nợ bằng tiền vốn của doanh nghiệp. Bởi
vậy để có khả năng thanh toán kịp thời các khoản nợ, doanh nghiệp phải duy
trì một mức luân chuyển vốn hợp lý để đáp ứng kịp thời các khoản nợ ngắn
hạn, duy trì các loại hàng tồn kho để đảm bảo quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh thuận lợi. Ta có thể sử dụng một số hệ số khả năng thanh toán để
đánh giá sau:
1 Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn (The Current Ratio - Rc)
Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn thể hiện mức độ đảm bảo của tài sản lưu
động đối với nợ ngắn hạn. Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn là tỷ lệ giữa tài sản
lưu động với các khoản nợ ngắn hạn, nợ ngắn hạn là các khoản nợ mà doanh
nghiệp có nghĩa vụ phải trả trong khoảng một thời gian ngắn (thường là dưới
một năm).
Rc =

Tài sản lưu động
Nợ ngắn hạn

Ngoài việc căn cứ vào hệ số Rc để đánh giá khả năng thanh toán của
doanh nghiệp là tốt hay xấu, ta cũng cần xét đến các yếu tố sau:
+ Bản chất kinh doanh của doanh nghiệp
+ Cơ cấu tài sản lưu động

+ Hệ số vòng quay của một số tài sản lưu động
Tài sản lưu động của doanh nghiệp phụ thuộc vào bản chất kinh doanh,
do đó khi nghiên cứu tính hợp lý của hệ số thanh toán ta cũng cần nghiên cứu
ngành kinh doanh của doanh nghiệp đó. Khi giá trị của tỷ số này giảm cho
thấy khả năng trả nợ của doanh nghiệp giảm và mức độ rủi ro khánh tận tài
chính đã gia tăng, khi giá trị của tỷ số này cao cho thấy doanh nghiệp có khả
năng thanh khoản cao. Tuy nhiên khi giá trị của tỷ số này quá cao thì chứng tỏ

Häc viªn: ĐÀM PHƯƠNG LAN Líp Cao häc QTKD (Th¸i nguyªn).


T¸i cÊu tróc tµi chÝnh t¹i C«ng ty Diesel S«ng c«ng

Trang 16

việc quản trị tài sản của doanh nghiệp không hiệu quả bởi có quá nhiều tiền
mặt nhàn rỗi, hay nợ phải thu hoặc hàng hoá tồn kho... Mặt khác khi Rc < 1
chứng tỏ doanh nghiệp đã sử dụng nợ ngắn hạn để tài trợ cho các loại tài sản
cố định. Chiến lược tài trợ này đặt doanh nghiệp trước nguy cơ phá sản bởi
không có sự phù hợp về thời gian đáo hạn giữa nợ ngắn hạn và tài sản cố
định. Trong nhiều trường hợp tỷ số này khôna gphản ánh chính xác khả năng
thanh khoản, bởi nếu hàng hoá tồn kho là những loại hàng hoá khó bán thì
doanh nghiệp rất khó biến chúng thành tiền để trả nợ. Bởi vậy, ta cần quan
tầm tới tỷ số thanh toán nhanh.
2 Hệ số thanh toán nhanh (The Quick Ratio - Rq)
Hệ số thanh toán nhanh cho biết khả năng thanh khoản thực sự của
doanh nghiệp thể hiện ở khả năng chuyển đổi các loại tài sản lưu động thành
tiền để đáp ứng những yêu cầu thanh toán cần thiết.
Tài sản lưu động - Hàng tồn kho
Rq =

Tổng nợ ngắn hạn
Do các loại tồn kho có khả năng thanh khoản thấp bởi việc biến chúng
thành tiền có thể mất khá nhiều thời gian nên không được tính vào tỷ số này.
Giá trị tỷ số này càng cao thì mức độ rủi ro khánh tận của doanh nghiệp càng
thấp, song hiệu quả quản trị tài chính của doanh nghiệp cũng càng thấp. Bởi
những tài sản này không tạo ra lợi nhuận, hay có thể sinh lời thấp cho doanh
nghiệp.
3 Tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt
Tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt so sánh mối quan hệ giữa vốn bằng tiền
và các khoản nợ ngắn hạn.
Tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt =

Vốn bằng tiền
Tổng nợ ngắn

Häc viªn: ĐÀM PHƯƠNG LAN Líp Cao häc QTKD (Th¸i nguyªn).


T¸i cÊu tróc tµi chÝnh t¹i C«ng ty Diesel S«ng c«ng

Trang 17

Vốn bằng tiền trong chỉ tiêu này có thể bao gồm các khoản đầu tư chứng
khoán ngắn hạn nếu sự chuyển hoá các khoản đầu tư chứng khoán trở thành
tiền một cách dễ dàng, thuận lợi và nhanh chóng.
Tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt là một tiêu chuẩn khắt khe hơn tỷ lệ
thanh toán nhanh, nó đòi hỏi cần phải sẵn có tiền để thanh toán.
4 Hệ số thanh toán lãi vay
Chi phí lãi vay là một khoản chi tương đối ổn định và có thể tính toán
trước. Khoản tiền mà doanh nghiệp dùng để chi trả lãi vay là thu nhập trước

thuế và lãi vay.

Lợi nhuận trước lãi vay và thuế

Hệ số chi trả lãi vay =

Chi phí lãi vay

Tỷ số này dùng để đánh giá khả năng đảm bảo chi trả lãi nợ vay đối với
các khoản nợ dài hạn và mức độ an toàn có thể có của ngươì cung cấp tín
dụng. Ngoài ra người ta còn quan tâm tới khả năng chi trả nợ vay (gốc và lãi):
Lợi nhuận trước lãi vay và thuế
Hệ số chi trả nợ gốc và lãi vay
Nợ gốc
Chi phí lãi vay
+
1 - Thuế suất
5 Tỷ lệ tự tài trợ và tỷ lệ nợ

Tỷ lệ tự tài trợ thể hiện mối quan hệ so sánh giữa nguồn vốn chủ sở
hữu với tổng nguồn vốn doanh nghiệp đang sử dụng. Tỷ lệ nợ so sánh giữa nợ
phải trả và nguồn vốn đang sử dụng:

Nguồn vốn chủ sở hữu

Tỷ lệ tự tài trợ =

Tổng nguồn vốn

Nợ phải trả


Tỷ lệ nợ =

Tổng nguồn vốn

Tỷ lệ tự tài trợ + Tỷ lệ nợ = 1

Häc viªn: ĐÀM PHƯƠNG LAN Líp Cao häc QTKD (Th¸i nguyªn).


T¸i cÊu tróc tµi chÝnh t¹i C«ng ty Diesel S«ng c«ng

Trang 18

Cả hai tỷ lệ này đều cho thấy khả năng tự chủ về tài chính của doanh
nghiệp. Khi tỷ lệ tự tài trợ càng cao (nghĩa là tỷ lệ nợ càng thấp) cho thấy mức
độ tự chủ về tài chính của doanh nghiệp càng cao, ít bị ràng buộc bởi các chủ
nợ, hầu hết tài sản của doanh nghiệp được đầu tư bằng nguồn vốn chủ sở hữu.

 Các chỉ tiêu phản ánh tình hình luân chuyển vốn
6 Tỷ số vòng quay hàng tồn kho (Inventory RI)
Tỷ số vòng quay hàng tồn kho đo lường mối quan hệ giữa doanh số bán
và mức tồn kho của các loại thành phẩm, nguyên vật liệu.
Độ lớn của tỷ số này phụ thuộc vào các yếu tố như: ngành kinh doanh,
mức tiêu thụ sản phẩm, tính mùa vụ, thời điểm nghiên cứu...
RI =

Giá vốn hàng bán

Hàng tồn kho bình

quân
Giá trị của tỷ số này càng cao càng cho thấy doanh nghiệp hoạt động
đang có hiệu quả trong chừng mực có liên quan đến hàng dự trữ. Ngược lại
giá trị của tỷ số thấp chứng tỏ rằng giá trị của các loại hàng tồn kho quá cao
so với doanh số bán và số ngaỳ hàng nằm trong kho càng cao, khi đó hiệu quả
quản trị ngân quỹ lưu động của doanh nghiệp càng thấp bởi ngân quỹ lưu
động bị tồn đọng trong hàng hoá quá lâu.
7 Tỷ số vòng quay vốn lưu động
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động, được tính bằng
quan hệ so sánh giữa doanh thu thuần và vốn lưu động bình quân trong kỳ
Vòng quay vốn lưu động =

Doanh thu thuần
Vốn lưu động bình quân

8 Tỷ số vòng quay vốn cố định
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định, được tính bằng
quan hệ so sánh giữa doanh thu thuần và vốn cố định bình quân trong kỳ
Vòng quay vốn cố định =

Doanh thu thuần
Vốn cố định bình quân

Häc viªn: ĐÀM PHƯƠNG LAN Líp Cao häc QTKD (Th¸i nguyªn).


T¸i cÊu tróc tµi chÝnh t¹i C«ng ty Diesel S«ng c«ng

Trang 19


9 Tỷ số vòng quay toàn bộ tài sản
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sử dụng toàn bộ tài sản, tiền vốn hiện
có của doanh nghiệp, được tính bằng quan hệ so sánh giữa doanh thu thuần và
tổng số tài sản

Doanh thu thuần

Vòng quay toàn bộ tài sản =

Tổng tài sản

10 Tỷ số vòng quay vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu, được tính bằng
quan hệ so sánh giữa doanh thu thuần và vốn chủ sở hữu
Doanhthu
thuthuần
thuần
Doanh
Vốn chủ sở hữu

Vòng quay vốn chủ sở hữu =

 Các chỉ tiêu phản ánh tình hình công nợ
11 Tỷ lệ các khoản phải thu so với các khoản phải trả
Tỷ lệ các khoản phải thu so
với các khoản phải trả

=

Tổng nợ phải thu

Tổng nợ phải trả

(%)

12 Vòng luân chuyển các khoản phải thu
Vòng quay các
khoản phải thu

=

Doanh thu thuần
Các khoản phải thu bình quân

Vòng luân chuyển các khoản phải thu phản ánh tốc độ biến đổi các
khoản phải thu thành tiền mặt của doanh nghiệp. Trong đó doanh thu thuần
bao gồm doanh thu thuần bán hàng, thu nhập hoạt động tài chính và thu nhập
khác. Các khoản phải thu bình quân được tính bằng bình quân các khoản phải
thu đầu kỳ và cuối kỳ. Vòng quay các khoản phải thu cao chứng tỏ tốc độ thu
hồi các khoản phải thu nhanh, điều này nhìn chung là tốt vì doanh nghiệp

Häc viªn: ĐÀM PHƯƠNG LAN Líp Cao häc QTKD (Th¸i nguyªn).


T¸i cÊu tróc tµi chÝnh t¹i C«ng ty Diesel S«ng c«ng

Trang 20

không phải đầu tư nhiều vào các khoản phải thu. Tuy nhiên, nếu vòng luân
chuyển quá cao thì đồng nghĩa với kỳ thanh toán ngắn, do đó có thể ảnh
hưởng tới khối lượng sản phẩm tiêu thụ.

13 Kỳ thu tiền bình quân (Average Collection Period - ACP)
Kỳ thu tiền bình quân là số ngày bình quân mà 1 VND hàng hoá bán ra
được thu hồi. Kỳ thu tiền bình quân được xác định:
ACP =

Khoản phải thu
Doanh thu bán chịu bình quân
ngày

Kỳ thu tiền bình quân nhằm đánh giá việc quản lý của doanh nghiệp đối với
các khoản phải thu do bán chịu. Số ngày trong kỳ thu tiền bình quân thấp
chứng tỏ doanh nghiệp không bị đọng vốn trong khâu thanh toán, không gặp
phải những khoản nợ “khó đòi”. Ngược lại nếu tỷ số này cao, doanh nghiệp
cần phải tiến hành phân tích chính sách bán hàng để tìm ra nguyên nhân tồn
động nợ. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp doanh nghiệp muốn chiếm lĩnh
thị phần thông qua bán hàng trả chậm, trả góp hay tài trợ cho các chi nhánh
đại lý nên dẫn tới số ngày thu tiền bình quân cao.

 Các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời
14 Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu (Net profit Margin on Sales)
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ sinh lợi của một đồng doanh thu thuần,
nó được xác định bằng quan hệ so sánh giữa lợi nhuận sau thuế với doanh thu
thuần:

Tỷ suất lợi nhuận
trên doanh thu

=

Lợi nhuận sau thuế

Doanh thu thuần

Sự biến động của tỷ số này phản ánh sự biến động về hiệu quả hay ảnh
hưởng của chiến lược tiêu thụ, nâng cao chất lượng sản phẩm.
15 Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (Net Return on assets Ratio - Rr)

Häc viªn: ĐÀM PHƯƠNG LAN Líp Cao häc QTKD (Th¸i nguyªn).


T¸i cÊu tróc tµi chÝnh t¹i C«ng ty Diesel S«ng c«ng

Trang 21

Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản đo lường khả năng sinh lợi của một
đồng vốn đầu tư vào doanh nghiệp, được xác định:
Tỷ suất lợi nhuận
trên tổng tài sản

Lợi nhuận sau thuế

=

Tổng tài sản

16 Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE)
Chỉ tiêu này phản ánh mức sinh lời của vốn chủ sở hữu, được xác định
bằng quan hệ so sánh giữa lợi nhuậu sau thuế và vốn của chủ sở hữu:
Tỷ suất lợi nhuận
trên vốn CSH


Lợi nhuận sau thuế

=

Vốn chủ sở hữu

Suất sinh lời của vốn chủ sở hữu là một chỉ tiêu phổ biến nhất dùng để
đo lường tình hình tài chính của các doanh nghiệp. Có thể nói sự nghiệp của
phần lớn các nhà đầu tư và các nhà quản lý cao cấp thăng trầm theo sự lên
xuống của ROE ở doanh nghiệp họ bởi hiệu quả của đồng vốn các chủ sở hữu
được thể hiện ngay trong ROE. Công việc của các nhà quản trị là phân tích và
điều khiển các chỉ tiêu này sao cho đạt được hiệu quả nhất. Cũng bởi các chỉ
tiêu tài chính có mối quan hệ tương tác qua lại lẫn nhau, một yếu tố không thể
xoay chuyển được tình hình kinh doanh, do vậy các yếu tố ảnh hưởng tới tính
hiệu quả của đồng vốn cũng cần được các nhà quản trị quan tâm.
Sơ đồ phân tích tài chính
Suất sinh lời vốn chủ sở hữu ROE

Suất sinh lời của tài sản ROA

x

Đòn cân tài chính (TS/Vốn CSH)

Lợi nhuận biên (LNr / Dthu)

x

Vòng quay tổng tài sản


Häc viªn: ĐÀM PHƯƠNG LAN Líp Cao häc QTKD (Th¸i nguyªn).


T¸i cÊu tróc tµi chÝnh t¹i C«ng ty Diesel S«ng c«ng

ROE =

Trang 22

TS
LN r DTT
x
x
DTT TS VCSH

Sự biến động về mức sinh lời của vốn chủ sở hữu được phân tích dựa
trên sự biến động của ba nhân tố: lợi nhuận biên, vòng quay tài sản và đòn
cân tài chính.
1. 3. Tái cấu trúc tài chính là sự phù hợp các mục tiêu cụ thể
1.3.1. Một số khái niệm
1.3.1.1. Cơ cấu tài chính
Cơ cấu tài chính là cách thức mà Doanh nghiệp cung cấp tài chính cho
các tài sản của mình. Như vậy cơ cấu tài chính là toàn bộ tài sản của Doanh
nghiệp xét về góc độ nguồn hình thành tài sản.
1.3.1.2. Cơ cấu vốn
Cơ cấu vốn là các khoản tài trợ thường xuyên được thể hiện chủ yếu
bởi các khoản nợ dài hạn, cổ phần ưu đãi, cổ phần đại chúng nhưng không kể
các khoản tín dụng ngắn hạn. Như vậy cơ cấu vốn của một Doanh nghiệp chỉ
là một phần cơ cấu tài chính của Doanh nghiệp đó.
1.3.1.3. Hoạch định tài chính

Hoạch định tài chính là việc dự kiến chi tiết các chỉ tiêu tài chính trong
hệ thống quá trình sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp cần thực hiện trong
tương lai, từ đó xác lập nguồn vốn đảm bảo cho các chỉ tiêu tài chính được
thực hiện nhằm cung cấp thông tin phù hợp cho các nhà quản trị doanh nghiệp
trong việc điều hành và quản lý kinh doanh để đưa ra được những quyết định
đúng đắn nhất cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp có hiệu
quả cao và đạt được mục tiêu đã xây dựng.
Thực chất hoạch định tài chính là lập các kế hoạch tài chính, là xây
dựng các mục tiêu cần đạt được trong kỳ kế hoạch và xác định các bước thực
hiện để đạt được mục tiêu.

Häc viªn: ĐÀM PHƯƠNG LAN Líp Cao häc QTKD (Th¸i nguyªn).


T¸i cÊu tróc tµi chÝnh t¹i C«ng ty Diesel S«ng c«ng

Trang 23

1.3.2. Nhu cầu hoạch định tài chính
Mục đích của các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp trong điều hành
và quản lý kinh doanh là sử dụng thông tin kinh tế để đề ra quyết định đúng
đắn, kịp thời và có hiệu quả cho hoạt động của doanh nghiệp. Trong hệ thống
thông tin kinh tế đó thf những thông tin liên quan đến hoạch định tài chính
như: dự báo doanh thu, dự báo chi phí, dự báo kết quả hoạt động kinh doanh,
dự báo bảng cân đối kế toán… là những thông tin thực sự cần thiết cho các
quyết định của nhà quản trị.
Thời kỳ quản lý kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung thì hầu như
các chỉ tiêu kế hoạch về doanh thu, chi phí, lợi nhuận… đều được hoạch định
tổng thể và được giao từ trên xuống cho doanh nghiệp. Kết quả là làm giảm
tính linh hoạt, năng động và tính tích cực trong cạnh tranh. Chuyển sang kinh

doanh theo cơ chế thị trường, các doanh nghiệp phải đối mặt với thị trường
đòi hỏi cần phải chủ động, linh hoạt và tích cực hơn trong cạnh tranh, lấy thị
trường làm điểm xuất phát để tìm hiểu, lập kế hoạch mục tiêu kinh doanh cho
phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp để đạt được mục tiêu đề ra. Hoạt
động của doanh nghiệp nếu không có chiến lược, không có sách lược sẽ
không vững chắc lâu dài. Như vậy có thể thấy rằng, trong điều kiện nền kih tế
thị trường các doanh nghiệp muốn kinh doanh lâu dài, hoạt động ổn định và
vững chắc cần phải có chiến lược hoạch định tổng thể và hạch định cho từng
thời kỳ.
1.3.3. Sự cần thiết phải tái cấu trúc toàn diện các mặt hoạt động cho phù
hợp với các động thái kinh tế mới của nền kinh tế xã hội.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế
thị trường và kinh tế hôịi nhập luôn luôn biến động phức tạp kéo theo hàng
loạt các vấn đề mà doanh nghiệp phảo tính tới như: nhu cầu thị trường, khả
năng của các dối thủ trong nước và ngoài nước, tình hình chính trị, xã hội trên

Häc viªn: ĐÀM PHƯƠNG LAN Líp Cao häc QTKD (Th¸i nguyªn).


T¸i cÊu tróc tµi chÝnh t¹i C«ng ty Diesel S«ng c«ng

Trang 24

thế giới, nội lực của doanh nghiệp như vốn, tài sản, lao động, uy tín… Trong
điều kiện ngày càng có nhiều đối thủ cạnh tranh, nhất là khi nền kinh tế đất
nước hội nhập vào AFTA thì tính cạnh tranh càng khốc liệt hơn. Để tồn tại và
phát triển, doanh nghiệp cần phải có nhiều chính sách đồng bộ từ chính sách
đầu tư thích hợp, áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất để
tăng năng suất và chất lượng, sử dụng có hiệu quả đồng vốn, tinh giảm bộ
máy quản lý, cải tiến phương pháp bán hàng… tất cả đều nhằm làm giảm giá

thành sản phẩm, nâng cao năng suất, chất lượng nhằm kích thích người mua
từ đó củng cố thị trường hiện có, mở rộng thị trường xuất khẩu, tăng năng lực
cạnh tranh…. đòi hỏi doanh nghiệp phải thường xuyên tái lập toàn bộ các mặt
hoạt động của mình.
Tái cấu trúc toàn bộ các mặt hoạt động trong doanh nghiệp bắt nguồn
từ tái cấu trúc tài chính , bởi mọi hoạt động của doanh nghiệp suy cho cùng
cũng là vì mục tiêu tài chính và xuất phát cũng từ tài chính.
Tái cấu trúc tài chính là việc thiết lập lại cơ cấu các chỉ tiêu tài chính
của doanh nghiệp nhằm đảm bảo cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp thực hiện trong tương lai gần, đồng thời xác lập nguồn vốn đảm
bảo cho các chỉ tiêu đó được thực hiện nhằm cung cấp thông tin cho các nhà
quản trị, điều hành doanh nghiệp đưa ra những quyết định kinh doanh đúng
đắn đem lại hiệu quả cao và đạt được mục tiêu trong kinh doanh.
Thực chất của tái cấu trúc tài chính là việc xây dựng các kế hoạch tài
chính dựa trên cơ sở phân tích cơ cấu tài chính hiện tại, xây dựng các mục
tiêu cần đạt được trong kỳ kế hoạch và các bước thực hiện để đạt được mục
tiêu đó.
Xuất phát từ nhu cầu liên tục cải thiện. Liên tục cải thiện là nền móng
cho sự thành công trên thương trường. Nhu cầu của khách hàng không đứng
yên mà liên tục thay đổi, mục đích của doanh nghiệp là đáp ứng được yêu cầu

Häc viªn: ĐÀM PHƯƠNG LAN Líp Cao häc QTKD (Th¸i nguyªn).


×