Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

ài tập học kỳ thương mại module 2 bình luận quy định của pháp luật việt nam hiện hành về thỏa thuận trọng tài thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.89 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC...............................................................................................................................1
NỘI DUNG..............................................................................................................................2
I. Khái niệm trọng tài thương mại và nguyên tắc thỏa thuận trọng tài..............................2

1. Khái niệm trọng tài thương mại..............................................................2
II. Bình luận các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thỏa thuận trọng tài
thương mại.........................................................................................................................4

1. Về khái niệm thỏa thuận trọng tài...........................................................4
2. Về nội dung của thỏa thuận trọng tài......................................................5
3. Về hình thức của thỏa thuận trọng tài.....................................................5
4. Phạm vi quy định thỏa thuận trọng tài vô hiệu.......................................7
5. Quy định về thỏa thuận trọng tài không hoặc không thể thực hiện được
.....................................................................................................................9
6. Quy định về nguyên tắc “thẩm quyền của thẩm quyền”.......................10
7. Quy định về luật điều chỉnh đối với thỏa thuận trọng tài......................10
8. Quyền khởi kiện ra trọng tài của người tiêu dùng................................11
III. Ý nghĩa của thỏa thuận trọng tài. Thực tiễn ký kết thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam
và một số giải pháp..........................................................................................................12

1. Ý nghĩa của thỏa thuận trọng tài...........................................................12
2. Thực tiễn ký kết thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam...............................12
3. Một số giải pháp....................................................................................13
KẾT LUẬN............................................................................................................................14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................15

MỞ ĐẦU

1



Trong điều kiện nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển hiện nay,
trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại có
nhiều ưu điểm và được các thương nhân sử dụng phổ biến. Trong đó, thỏa
thuận trọng tài là yếu tố cơ bản, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ hoạt động
trọng tài kể từ lúc khởi đầu trọng tài cho đến khi công nhận và thi hành phán
quyết trọng tài. Hiệu quả của hoạt động tố tụng trọng tài phụ thuộc một phần
không nhỏ vào thỏa thuận trọng tài. Việc nghiên cứu, bình luận các quy định
của pháp luật Việt Nam hiện hành về thỏa thuận trọng tài thương mại có ý
nghĩa quan trọng không chỉ về mặt lý luận mà còn về mặt thực tiễn.
NỘI DUNG
I. Khái niệm trọng tài thương mại và nguyên tắc thỏa thuận trọng tài
1. Khái niệm trọng tài thương mại
Theo khoản 1 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại 2010 (sau đây gọi tắt
là LTTTM 2010) thì: “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh
chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này”.
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh
trong hoạt động thương mại được các bên thỏa thuận và được tiến hành theo
trình tự, thủ tục tố tụng do Luật TTTM 2010 quy định.
Hoạt động thương mại được quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Thương
mại 2005: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao
gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Vậy hoạt động thương mại được
hiểu là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức
kinh doanh bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại
diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn;
kỹ thuật; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; …và các
hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật.
2. Nguyên tắc thỏa thuận trọng tài
2



a. Khái niệm thỏa thuận trọng tài
Thỏa thuận trọng tài có vai trò hết sức quan trọng trong việc giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài thương mại, bởi nếu không có thỏa thuận giữa các
bên tranh chấp thì trọng tài sẽ không có thẩm quyền giải quyết vụ việc. Do đó,
pháp luật Việt Nam và các nước đều dành cho thỏa thuận trọng tài một sự ưu
tiên nhất định, thể hiện ở việc dành cho thỏa thuận trọng tài một chương riêng
biệt trong các đạo luật quy định về trọng tài.
Khoản 2 Điều 3 Luật TTTM 2010 định nghĩa: “Thỏa thuận trọng tài là
thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài tranh
chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh”.
Quy định về thỏa thuận trọng tài của pháp luật nước ta khá phù hợp,
tương đồng với các văn bản pháp luật quốc tế.
b. Đặc điểm của thỏa thuận trọng tài
- Tính tự nguyện
Thỏa thuận là “đi tới sự cân nhắc, đồng ý sau khi thảo luận”. Vậy bản
chất của thỏa thuận là sự tự nguyện thống nhất ý chí của các bên về một vấn
đề nào đó.
Thỏa thuận trọng tài là kết quả của quá trình đàm phán, cân nhắc giữa
các bên. Một khi đã tự nguyện xác lập thỏa thuận trọng tài thì các bên phải
chịu sự ràng buộc của nó trong suốt quá trình giải quyết tranh chấp. Mặt khác,
tính tự nguyện cũng ảnh hưởng đến thiện chí của các bên khi thi hành quyết
định trọng tài. Một khi đã xác lập thỏa thuận trọng tài một cách tự nguyện,
các bên cần nghiêm chỉnh thi hành quyết định trọng tài, góp phần mang lại
hiệu quả cho quá trình giải quyết tranh chấp.
Đặc điểm này đã thể hiện ưu điểm của phương thức giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài. Trọng tài sẽ giải quyết nhanh chóng, hiệu quả, thuận tiện
cho các bên trong trường hợp tất cả các bên đều có thiện chí, trung thực và
hợp tác.

- Tính độc lập
3


Đây là đặc điểm cơ bản của thỏa thuận trọng tài. Tính độc lập của thỏa
thuận trọng tài ở đây được xét trong mối quan hệ với hợp đồng. Việc thay đổi,
gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, sự vô hiệu của hợp đồng không làm ảnh hưởng đến
hiệu lực của điều khoản trọng tài. Như vậy, dù thỏa thuận trọng tài dưới dạng
là một điều khoản trong hợp đồng hay là một thỏa thuận trọng tài riêng biệt
đều tồn tại độc lập với hợp đồng.
II. Bình luận các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thỏa
thuận trọng tài thương mại
1. Về khái niệm thỏa thuận trọng tài
Nhắc lại định nghĩa về thỏa thuận trọng tài được quy định tại Khoản 2
Điều 3 Luật TTTM 2010: Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về
việc giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh.
Quan hệ thương mại rất đa dạng và phong phú. Nhiều quan hệ có thể
xác định bằng hợp đồng cụ thể được ký kết giữa các bên. Tuy nhiên cũng có
nhiều tranh chấp không phát sinh từ quan hệ hợp đồng, ví dụ như tranh chấp
phát sinh do việc đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,… Từ quy định nói
trên có thể hiểu rằng, những tranh chấp phát sinh từ quan hệ thương mại được
giải quyết bằng trọng tài có thể là quan hệ phát sinh từ hợp đồng nhưng cũng
có thể quan hệ phát sinh ngoài hợp đồng. Tuy nhiên trong điều kiện các tổ
chức, cá nhân của Việt Nam còn hạn chế về hiểu biết pháp luật, việc quy định
như vậy thường chỉ được hiểu theo nghĩa là quan hệ phát sinh từ hợp đồng.
Điều này khiến cho thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài trên thực
tế bị thu hẹp, ngoài ra còn gây khó khăn cho việc công nhận và cho thi hành
phán quyết trọng tài.
Quy định của Luật TTTM 2010 như trên là chưa thực sự hợp lý và chưa
phù hợp với pháp luật trọng tài thế giới.

Ngoài ra, cũng cần phải nói thêm là Luật TTTM 2010 đã có định nghĩa
rõ ràng về các bên thỏa thuận trọng tài. Khoản 3 Điều 3 Luật TTTM 2010 quy
4


định: “Các bên tranh chấp là cá nhân, cơ quan, tổ chức Việt Nam hoặc nước
ngoài tham gia tố tụng trọng tài với tư cách là nguyên đơn, bị đơn”. Như vậy
phạm vi các bên tham gia thỏa thuận trọng tài ở Luật TTTM 2010 đã mở rộng
hơn và như vậy có thể giải quyết một số tranh chấp mà chủ thể ký thỏa thuận
trọng tài không phải là cá nhân, tổ chức kinh doanh. Quy định này đã phần
nào khắc phục hạn chế của Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 trước đây.
2. Về nội dung của thỏa thuận trọng tài
Nội dung của thỏa thuận trọng tài chính là việc xác định cách thức,
trình tự, thủ tục, thẩm quyền và trách nhiệm của các bên liên quan khi cần giải
quyết những tranh chấp, bất đồng phát sinh hay liên quan đến hợp đồng
chính. Việc xác lập nội dung các điều khoản trong thỏa thuận trọng tài đều
phụ thuộc vào sự tự nguyện của các bên mà không chịu sự can thiệp của pháp
luật. Tuy nhiên để tránh những rắc rối mà các bên có thể gặp phải và nhằm
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong quá trình giải quyết tranh
chấp, pháp luật có quy định một số điều khoản mang tính cơ bản trong một
thỏa thuận trọng tài như: phương thức trọng tài, tổ chức trọng tài, ngôn ngữ
trọng tài, luật áp dụng, địa điểm trọng tài, chi phí trọng tài, cam kết thi hành
quyết định trọng tài. Ngoài ra các bên có thể lựa chọn thỏa thuận thêm các
điều khoản khác nhằm tạo điều kiện cho việc giải quyết tranh chấp hiệu quả
nhất.
Một thỏa thuận trọng tài chỉ có giá trị pháp lý khi đáp ứng được những
yêu cầu của pháp luật về nội dung. Hầu hết pháp luật của các quốc gia trên thế
giới đều yêu cầu nội dung của thỏa thuận trọng tài phải rõ ràng, chính xác, có
thể dễ dàng xác định thẩm quyền của Hội đồng trọng tài cụ thể và quy tắc tố
tụng nhất định. Việc quy định về nội dung của thỏa thuận trọng tài của Luật

TTTM 2010 nhìn chung là phù hợp với pháp luật quốc tế.
3. Về hình thức của thỏa thuận trọng tài
Hình thức của thỏa thuận trọng tài là sự thể hiện ra bên ngoài sự thống
nhất ý chí của các bên tham gia quan hệ thương mại.
5


Có hai hình thức tồn tại của thỏa thuận trọng tài được ghi nhận tại
khoản 1 Điều 16 Luật TTTM 2010: Một là sự thỏa thuận được thể hiện thành
điều khoản trọng tài trong hợp đồng xác lập quan hệ thương mại giữa hai bên.
Điều khoản trọng tài chỉ mang tính dự liệu, chưa chắc chắn hoặc không bao
giờ xảy ra nên thường ngắn ngọn; Hai là các bên thỏa thuận dưới hình thức
thỏa thuận riêng, thường là việc thỏa thuận đưa các tranh chấp hiện thời ra
giải quyết theo phương thức trọng tài.
Ngoài ra, khoản 2 Điều 16 Luật TTTM 2010 cũng quy định về hình
thức thỏa thuận trọng tài:
“2. Thỏa thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Các
hình thức thỏa thuận sau đây cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản:
a) Thỏa thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram,
fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật;
b) Thỏa thuận được xác lập thông qua… ”.
Pháp luật Việt Nam cũng giống như hầu hết các quốc gia khác đều quy
định thỏa thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Bên cạnh đó,
khái niệm “văn bản” cũng được mở rộng gồm các dạng như telegram, fax,
telex, thư điện tử,…
Luật TTTM 2010 có điểm mới so với Pháp lệnh trọng tài thương mại
2003 trước đây là công nhận những thỏa thuận trọng tài dưới các hình thức
sau cũng được coi như là lập thành văn bản: Những thỏa thuận được xác lập
thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên; Thỏa thuận được luật
sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại bằng văn bản

theo yêu cầu của các bên; Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu một văn bản
có thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và
những tài liệu tương tự khác; Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà
trong đó thể hiện sự tồn tại của thỏa thuận do một bên đưa ra và bên kia
không phủ nhận.
6


Ví dụ: Tranh chấp về góp vốn, mua cổ phần giữa công ty và người đăng
ký kinh doanh, trong Điều lệ công ty có điều khoản quy định giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài là một trong số các phương thức giải quyết tranh chấp, khi
đó điều khoản này cũng có thể được coi là một thỏa thuận trọng tài.
Việc quy định rõ ràng hơn về hình thức của thỏa thuận trọng tài trong
Luật TTTM 2010 đã khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong Pháp lệnh
trọng tài thương mại 2003 trước đây.
4. Phạm vi quy định thỏa thuận trọng tài vô hiệu
Các mâu thuẫn phát sinh trong hoạt động thương mại không thể được
giải quyết bằng trọng tài nếu như thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Thỏa thuận
trọng tài trong hợp đồng vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp sau:
- Tranh chấp phát sinh không thuộc hoạt động thương mại: Pháp luật
tôn trọng sự tự do thỏa thuận giữa các bên về đưa tranh chấp trong quan hệ
thương mại ra giải quyết bằng trọng tài. Tuy nhiên, dù giữa các bên có tồn tại
thỏa thuận trọng tài xuất phát từ sự tự do thỏa thuận, nhưng tranh chấp giữa
họ không thuộc phạm vi hoạt động thương mại thì thỏa thuận trọng tài cũng
vô hiệu và dẫn đến hậu quả là trọng tài không có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp.
- Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật: Một trong những vấn đề ảnh hưởng tới hiệu lực của thỏa
thuận trọng tài là thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài
chỉ có hiệu lực pháp lý ràng buộc các bên khi người ký kết thỏa thuận trọng

tài có thẩm quyền ký kết. Khi thỏa thuận trọng tài được ký kết bởi người
không có thẩm quyền thì thỏa thuận đó không thể hiện được ý chí đích thực
của các bên. Do đó, thỏa thuận trọng tài sẽ không còn ý nghĩa.
Tranh chấp giữa cá nhân với nhau thì cá nhân đó chính là người có
thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài. Các cá nhân này có thể ủy quyền cho
người khác ký kết thỏa thuận trọng tài. Việc ủy quyền này phải tuân theo các
quy định của Bộ luật Dân sự 2005 về đại diện theo ủy quyền. Đối với tranh
7


chấp phát sinh giữa pháp nhân với pháp nhân thì người có thẩm quyền ký kết
thỏa thuận trọng tài là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền của
pháp nhân (khoản 3 Điều 86 Bộ luật Dân sự 2005). Luật Doanh nghiệp 2005
đã quy định người đại diện theo pháp luật của từng loại hình doanh nghiệp cụ
thể.
Như vậy, quy định về thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài trong Luật
TTTM 2010 không thay đổi so với quy định tại Pháp lệnh Trọng tài thương
mại năm 2003. Quy định này là hợp lý, phù hợp với quy định của pháp luật
liên quan, tạo ra sự thống nhất khi áp dụng.
- Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự
theo quy định của Bộ luật Dân sự: “Người xác lập thỏa thuận” ở đây cần được
hiểu theo nghĩa rộng, tức là cả cá nhân và pháp nhân bởi có những trường hợp
một bên ký kết thỏa thuận trọng tài là doanh nghiệp không còn tồn tại trên thực
tế và cũng không có tổ chức tiếp nhận quyền, nghĩa vụ, vì vậy mà thỏa thuận
trọng tài đã ký không còn tồn tại trên thực tế nữa.
Vậy nếu người xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi
dân sự theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005 thì thỏa thuận trọng tài đương
nhiên vô hiệu.
- Hình thức của thỏa thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại
Điều 16 Luật TTTM 2010: Pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều

quy định thỏa thuận trọng tài phải được thể hiện bằng văn bản. Các hình thức
khác của thỏa thuận trọng tài như lời nói hay hành vi đều dẫn tới hậu quả pháp
lý là thỏa thuận trọng tài vô hiệu.
- Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập
thỏa thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài đó là vô hiệu:
Thỏa thuận trọng tài là kết quả của sự thống nhất ý chí giữa các bên dựa trên
nguyên tắc tự do, bình đẳng. Sự thống nhất ý chí ấy không thể bị ràng buộc,
tác động hay áp đặt bởi pháp luật hay bất kỳ cá nhân, tổ chức, cơ quan nào.
Chính vì vậy sự lừa dối, đe dọa một trong các bên tham gia ký kết thỏa thuận
8


trọng tài là những hành động đi ngược với nguyên tắc tự do thỏa thuận và hệ
quả tất yếu sẽ dẫn tới thỏa thuận trọng tài vô hiệu.
- Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật: là thỏa thuận vi
phạm quy định tại Điều 128 Bộ luật Dân sự 2005. Theo đó, điều cấm của pháp
luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những
hành vi nhất định.
5. Quy định về thỏa thuận trọng tài không hoặc không thể thực hiện
được
Ở Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 trước đây, vấn đề thỏa thuận
trọng tài không thể thực hiện được không được đề cập tới. Trong thực tế có
nhiều điều khoản trọng tài có hiệu lực theo quy định của pháp luật (đó có thể là
phạm vi tranh chấp thuộc thẩm quyền của Trọng tài; người ký Thỏa thuận
trọng tài có đủ thẩm quyền, đủ năng lực hành vi,…) nhưng vẫn không thể giải
quyết được bằng trọng tài. Ví dụ: một điều khoản trọng tài thỏa thuận sẽ giải
quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam và Tòa án trọng tài
quốc tế ICC. Rõ ràng điều khoản trên không vô hiệu nhưng cũng không thể
thực hiện được bởi có sự mâu thuẫn. Nếu đưa ra Tòa án thì tòa án sẽ từ chối
giải quyết. Như vậy, Pháp lệnh mới chỉ giải quyết được vấn đề thỏa thuận

trọng tài vô hiệu, chưa giải quyết được trường hợp thỏa thuận trọng tài không
thể thực hiện được, dẫn tới việc tranh chấp phát sinh sẽ không có cơ quan nào
giải quyết.
Tuy nhiên đến Luật Trọng tài thương mại 2010 đã giải quyết được vấn
đề này, đã quy định thêm trường hợp “thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện
được”.
Cụ thể, Điều 6 Luật TTTM 2010 quy định việc Tòa án từ chối thụ lý
trong trường hợp có thỏa thuận trọng tài: “Trong trường hợp các bên tranh
chấp đã có thỏa thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Tòa án thì Tòa án
phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa
thuận trọng tài không thể thực hiện được”.
9


Điều này giúp hạn chế thiếu sót của Pháp lệnh trọng tài thương mại
2003, tạo điều kiện và cơ sở pháp lý cho các bên khi xác lập thỏa thuận.
6. Quy định về nguyên tắc “thẩm quyền của thẩm quyền”
Nguyên tắc thẩm quyền của thẩm quyền – “competence of competence”
là một nguyên tắc quan trọng trong tố tụng trọng tài. Ý nghĩa của nguyên tắc
này là Hội đồng trọng tài có quyền xem xét, xác định thẩm quyền của chính
mình, về sự tồn tại hoặc hiệu lực của thỏa thuận trọng tài.
Điều 19 Luật TTTM 2010 quy định: “Thỏa thuận trọng tài hoàn toàn
độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô
hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực của thỏa thuận
trọng tài”.
Như vậy, Luật TTTM 2010 đã đưa ra một nguyên tắc quan trọng, đảm
bảo mọi tranh chấp phát sinh đều được giải quyết khi hợp đồng vô hiệu. Việc
xác định điều khoản trọng tài độc lập với hợp đồng là cơ sở để Hội đồng trọng
tài được thành lập, xem xét và quyết định hợp đồng có hiệu lực hay không.
Nguyên tắc này cũng phần nào được thể hiện trong Điều 43 Luật TTTM 2010

về xem xét thỏa thuận trọng tài vô hiệu, thỏa thuận trọng tài không thể thực
hiện được, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài. Mục đích của nguyên tắc này
chính là đảm bảo các tranh chấp đều được xem xét và giải quyết, bởi có trường
hợp hợp đồng vô hiệu kéo theo điều khoản trọng tài vô hiệu và dẫn đến Hội
đồng trọng tài không có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp thì vụ tranh chấp
sẽ không được giải quyết.
7. Quy định về luật điều chỉnh đối với thỏa thuận trọng tài
Hiện nay pháp luật Việt Nam chưa quy định về vấn đề luật áp dụng đối
với thỏa thuận trọng tài. Vấn đề liên quan trước hết đến việc xác định hiệu lực
của thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài phải tuân thủ luật của nước áp
dụng đối với thỏa thuận trọng tài (dù là một điều khoản trọng tài hay một thỏa
ước trọng tài). Nhìn chung trong trường hợp này, Hội đồng trọng tài đều tôn
trọng luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài do các bên thống nhất lựa chọn để
10


xác định tính hợp pháp của thỏa thuận trọng tài. Nguyên tắc thỏa thuận độc lập
cho phép các bên có quyền thỏa thuận một luật riêng để điều chỉnh thỏa thuận
trọng tài mà không phải dựa vào luật điều chỉnh nội dung hợp đồng. Tuy nhiên
trên thực tế hầu hết các bên thỏa thuận đều sử dụng luật điều chỉnh nội dung
hợp đồng. Vấn đề đặt ra là nếu các bên đã không có bất kỳ sự thỏa thuận chọn
luật nào như vậy thì luật áp dụng đối với thỏa thuận trọng tài là luật hợp đồng,
luật nơi tiến hành trọng tài hay luật của nơi thi hành quyết định trọng tài? Như
vậy, nhận thấy pháp luật trọng tài cần có quy định riêng, cụ thể về luật điều
chỉnh đối với thỏa thuận trọng tài.
8. Quyền khởi kiện ra trọng tài của người tiêu dùng
Dưới góc độ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, pháp luật trọng tài nước
ta trước đây chưa có quy định cụ thể. Nhưng trên thế giới nhiều nước đã đưa ra
những quy định liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong
pháp luật về trọng tài, cụ thể là liên quan tới điều khoản trọng tài theo hướng

nếu điều khoản trọng tài bất lợi cho người tiêu dùng, điều khoản này sẽ không
được viện dẫn làm bất lợi cho người tiêu dùng.
Hiện nay, pháp luật nước ta đã mở rộng quyền của người tiêu dùng, cho
người tiêu dùng có quyền kiện ra trọng tài, thể hiện ở Điều 17 Luật TTTM
2010 quy định quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp của người
tiêu dùng: “Đối với các tranh chấp giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và
người tiêu dùng, mặc dù điều khoản trọng tài đã được ghi nhận trong các điều
kiện chung về cung cấp hàng hóa, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn thỏa
thuận trọng tài thì người tiêu dùng vẫn được quyền lựa chọn Trọng tài hoặc
Tòa án để giải quyết tranh chấp. Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ chỉ được
quyền khởi kiện tại Trọng tài nếu được người tiêu dùng chấp nhận”.
Quy định này đã góp phần bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, đồng
thời tạo điều kiện để hoàn thiện hơn nữa quy định của pháp luật nước ta về
thỏa thuận trọng tài.
11


III. Ý nghĩa của thỏa thuận trọng tài. Thực tiễn ký kết thỏa thuận trọng
tài tại Việt Nam và một số giải pháp
1. Ý nghĩa của thỏa thuận trọng tài
Thứ nhất, thỏa thuận trọng tài là cơ sở đầu tiên để xác định thẩm quyền
của trọng tài. Sẽ không có việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nếu không
có thỏa thuận trọng tài giữa các bên tranh chấp.
Thứ hai, một khi thỏa thuận trọng tài có hiệu lực nó mang lại thẩm
quyền cho trọng tài và đồng thời cũng loại trừ thẩm quyền của Tòa án. Thỏa
thuận trọng tài là bằng chứng cho thấy các bên đã lựa chọn trọng tài chứ
không phải tòa án giải quyết tranh chấp. Tòa án phải từ chối thụ lý khi giữa
hai bên đã có một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực. Quy định tại Điều 6
LTTTM). Do đó, một khi các bên đã có thỏa thuận trọng tài có hiệu lực thì tòa
án không còn thẩm quyền nữa. Qua sự phân tích trên có thê thấy được tầm

quan trọng của thỏa thuận trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài. Tuy nhiên thỏa thuận trọng tài chỉ có ý nghĩa nêu trên khi có có hiệu
lực. Khi thỏa thuận trọng tài vô hiệu thì tòa án hoàn toàn có thẩm quyền giải
quyết vụ tranh chấp. Nếu trọng tài đã giải quyết thì quyết định trọng tài đó sẽ
bị tòa án hủy theo quy định của pháp luật.
2. Thực tiễn ký kết thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam
Trọng tài thương mại đang dần được doanh nghiệp Việt Nam sử dụng
trong hoạt động thương mại. Tuy nhiên, do lịch sử cũng như do nhận thức,
trọng tài chưa có một vai trò đúng như nó cần phải có.
Một điều đáng buồn là tuy được sử dụng nhiều hơn trong thời gian gần
đây nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn còn chưa hiểu rõ về giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài, không tín nhiệm hoạt động trọng tài vì thiếu hiệu lực cưỡng
chế quyết định trọng tài, không phân biệt được trọng tài kinh tế (Nhà nước)
với trọng tài phi chính phủ. Các doanh nghiệp chưa có thói quen đặt ra câu
hỏi là cần lựa chọn trọng tài hay tòa án khi ký kết hợp đồng và tại sao lại như
vậy; nếu có chọn trọng tài thì họ cũng chỉ quy định các điều khoản trọng tài
12


một cách chung chung, không chính xác; và họ cũng chỉ mang máng biết về
trọng tài chứ không hiểu rõ về phương thức này
Chính vì những nguyên nhân trên dẫn tới tình trạng là một số doanh
nghiệp Việt Nam, do không chọn trước trọng tài (hay tòa án) khi có tranh
chấp phát sinh trong các vụ kiện có yếu tố nước ngoài nên họ không biết
quyết định thế nào. Chọn trọng tài thì đã muộn vì đối tác không hợp tác, chọn
tòa án nước ngoài của đối tác thì không phải phương án hợp lý, chọn tòa án
Việt Nam thì bản án của tòa án ta chưa chắc được nước ngoài công nhận.
Ngoài ra, do không hiểu biết về phương thức trọng tài nên dễ dẫn tới điều
khoản trọng tài bị vô hiệu, mà điều khoản trọng tài bị vô hiệu sẽ dẫn tới hệ
quả là quyết định trọng tài có thể bị hủy, vụ tranh chấp kéo dài không cần

thiết, làm cho các doanh nhân bị lúng túng, bất ngờ, quá trình trọng tài bị kéo
dài có thể dẫn tới nhiều rủi ro.
3. Một số giải pháp
- Về phía doanh nghiệp:
Các doanh nghiệp nên tìm hiểu kỹ hơn về các phương thức giải quyết
tranh chấp ngoài tòa án như thương lượng, trung gian, hòa giải, đặc biệt là
phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Hiểu được sự mạnh yếu, ưu
nhược điểm của từng phương thức sẽ giúp doanh nghiệp chủ động, bình tĩnh
hơn trước những nguy cơ một bên gây khó khăn cho công việc của mình.
Khi đàm phán hợp đồng, các doanh nghiệp nên đàm phán các điều
khoản về giải quyết tranh chấp, tránh cho các rủi ro về sau. Nếu chọn phương
thức trọng tài để giải quyết tranh chấp thì phải tìm hiểu kỹ về phương thức
này, không được tạo các điều khoản đại khái, qua loa. Phải quy định rõ các
vấn đề về thỏa thuận trọng tài như: chọn tổ trọng tài nào, chọn luật nước nào,
chọn địa điểm nào,… để tạo cơ sở pháp lý vững chắc trong hợp đồng.
- Về phía nhà nước:
Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế thì việc giải quyết tranh chấp
thương mại bằng trọng tài càng cần phải tuân theo các chuẩn mực quốc tế. Vì
13


vậy các quy định về thỏa thuận trọng tài phải được sửa đổi để sát hơn với
Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế Uncitral.
Vấn đề khái niệm thỏa thuận trọng tài thì Luật Mẫu quy định chi tiết
hơn Luật TTTM 2010: Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận mà các bên đưa ra
trọng tài hoặc các tranh chấp nhất định phát sinh hoặc có thể phát sinh giữa
các bên về quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay không phải
là quan hệ hợp đồng. Thỏa thuận trọng tài có thể dưới hình thức điều khoản
trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng”, trong khi
Luật TTTM 2010 thì quy định chưa rõ ràng về vấn đề này. Do vậy nên có

nghị định bổ sung cho vấn đề này để việc thực thi về thỏa thuận trọng tài
được thuận tiện hơn.
KẾT LUẬN
Luật TTTM 2010 ra đời đánh dấu bước phát triển mới của pháp luật về
trọng tài ở Việt Nam. Đối với thỏa thuận trọng tài, Luật TTTM 2010 đã khắc
phục được những hạn chế của Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 trước kia
như tăng phạm vi quy định về hình thức của thỏa thuận trọng tài, phạm vi quy
định thỏa thuận trọng tài vô hiệu rõ rệt hơn, có quy định rõ ràng về quyền của
người tiêu dùng, … Những sự thay đổi này đã giúp cho quy định về thỏa
thuận trọng tài của nước ta rõ ràng và phù hợp hơn với pháp luật thế giới. Với
sự phát triển của Luật trọng tài thương mại thì có thể tin rằng trong tương lai,
thỏa thuận trọng tài cũng sẽ không ngừng được cải thiện để phù hợp với
những phức tạp của tranh chấp thương mại.

14


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường ĐH Luật Hà Nội, giáo trình luật thương mại (Tập 2), NXB. CAND,
2006.
2. Luật Trọng tài thương mại 2010.
3. Luật Thương mại 2005.
4. Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003.
5. Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế Uncitral.
6. Bình luận về pháp luật trọng tài – bàn về chế định thỏa thuận trọng tài –
Trung tâm trọng tài quốc tế VIAC.
7. Thạc sĩ Trần Minh Ngọc – Luật áp dụng đối với thỏa thuận trọng tài trong
trọng tài thương mại quốc tế.
8. www.viac.org.vn
9. www.baomoi.com

10. www.vionline.vn

15


16



×