MỤC LỤC
1
LỜI MỞ ĐẦU
Thỏa thuận trọng tài được xem là nền móng của tố tụng trọng tài, là yếu tố
không thể thiếu giữa các bên nếu muốn giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài
thương mại. Có thể khẳng định rằng, nếu không có thỏa thuận trọng tài thì sẽ
không có tố tụng trọng tài. Trên cơ sở kế thừa Pháp lệnh Trọng tài thương mại Việt
Nam năm 2003 và bổ sung những quy định mới nhằm đáp ứng những nhu cầu
ngày càng cao của hội nhập kinh tế quốc tế, Luật Trọng tài thương mại Việt Nam
năm 2010 đã nâng cao tính bảo đảm quyền tự định đoạt của các bên trong việc lựa
chọn hình thức giải quyết tranh chấp và đặc biệt cũng có những sửa đổi, bổ sung
liên quan đến thỏa thuận trọng tài. Trong phạm vi bài viết của mình, em xin trình
bày Vấn đề sô 9: “Bình luận quy định của pháp luật Việt nam hiện hành về
thỏa thuận trọng tài thương mại”
NỘI DUNG
I.
Khái quát chung về thỏa thuận trọng tài thương mại
1. Khái niệm Thỏa thuận trọng tài
Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 về giải
thích từ ngữ thì thỏa thuận trọng tài được hiểu là “thỏa thuận giữa các bên về việc
giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh”. Như
vậy, các bên có thể thỏa thuận trọng tài trước khi có tranh chấp hoặc sau khi có
tranh chấp. Khác với việc giải quyết tranh chấp tại tòa án – cơ quan tài phán nhà
nước, khi có tranh chấp phát sinh, bên có quyền và lợi ích hợp pháp bị vi phạm có
quyền đệ đơn yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết mà không cần có sự thỏa
thuận trước, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đòi hỏi phải có sự thỏa thuận
của các bên. Nguyên tắc chung là “không có thỏa thuận giải quyết bằng phương
thức trọng tài, không có tố tụng trọng tài”.
2
Theo quy định của pháp luật hầu hết các quốc gia trên thế giới, thỏa thuận
trọng tài có những đặc điểm sau:
• Đặc điểm về hình thức của thỏa thuận trọng tài
Trong hầu hết các trường hợp, thỏa thuận trọng tài phải được thể hiện dưới
hình thức văn bản. Điều này đảm bảo cho thỏa thuận trọng tài có giá trị như một
chứng cứ xác định ý chí của các bên muốn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Mặc dù pháp luật của hầu hết các nước đều quy định thỏa thuận trọng tài phải bằng
văn bản, tuy nhiên điều khoản trọng tài cũng có thể bằng miệng, nhưng trường hợp
này rất hiếm. Thông thường có hai cách để thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài: Một là, các bên dự đoán trước và thỏa thuận ngay từ khi bắt đầu
quan hệ thương mại việc sẽ đưa ra trọng tài giải quyết tranh chấp phát sinh trong
tương lai. Hai là, sau khi tranh chấp phát sinh, các bên mới thỏa thuận đưa tranh
chấp ra giải quyết bằng trọng tài. Tuy nhiên trên thực tế, trường hợp thứ hai ít xảy
ra vì sau khi đã xảy ra tranh chấp thì việc các bên ngồi lại với nhau để thỏa thuận
cách thức giải quyết tranh chấp là không dễ dàng, trong trường hợp đó, vụ việc
thường được giải quyết theo con đường Tòa án.
• Đặc điểm về nội dung của thỏa thuận trọng tài
Nội dung của thỏa thuận trọng tài chính là việc xác định cách thức, trình tự, thủ
tục, thẩm quyền và trách nhiệm của các bên liên quan khi cần giải quyết những
tranh chấp, bất đồng phát sinh hay liên quan đến hợp đồng chính. Việc xác lập nội
dung các điều khoản trong thỏa thuận trọng tài đều phụ thuộc vào sự tự nguyện
thỏa thuận của các bên mà không chịu sự can thiệp của pháp luật. Tuy nhiên, để
tránh những rắc rối mà các bên có thể gặp phải và nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp, pháp luật có quy định
một số điều khoản mang tính cơ bản trong một thỏa thuận trọng tài như: phương
thức trọng tài, tổ chức trọng tài, ngôn ngữ trọng tài, luật áp dụng, địa điểm trọng
tài, chi phí trọng tài, cam kết thi hành quyết định trọng tài. Ngoài ra, các bên có thể
lựa chọn thỏa thuận thêm các điều khoản khác nhằm tạo điều kiện cho việc giải
3
quyết tranh chấp hiệu quả nhất. Một thỏa thuận chỉ có giá trị pháp lý khi đáp ứng
được những yêu cầu của pháp luật về nội dung.
• Đặc điểm về mối quan hệ giữa thỏa thuận trọng tài và hợp đồng chính
Dù thỏa thuận trọng tài được thể hiện dưới hình thức một điều khoản nằm
trong hợp đồng chính hay dưới hình thức văn bản riêng đi kèm hợp đồng chính thì
thỏa thuận trọng tài thực chất chính là một hợp đồng nhỏ có nội dung khác biệt và
độc lập với hợp đồng chính. Như vậy, ngay cả khi hợp đồng bị thay đổi, hủy bỏ, bị
hết hiệu lực thì thỏa thuận trọng tài vẫn có giá trị. Tuy nhiên, đối với trường hợp
hợp đồng chính bị vô hiệu thì tính độc lập về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài chỉ
là tương đối. Việc xác định thỏa thuận trọng tài có vô hiệu hay không còn phụ
thuộc vào nguyên nhân hợp đồng chính bị vô hiệu. Nếu nguyên nhân dẫn đến hợp
đồng chính và thỏa thuận trọng tài vô hiệu là trùng nhau thì khi đó, đương nhiên cả
hai cùng vô hiệu, ví dụ như trường hợp thỏa thuận trọng tài tồn tại dưới dạng điều
khoản trọng tài trong hợp đồng chính do một bên không có hoặc không có đủ thẩm
quyền ký kết hoặc vi phạm các nguyên tắc tự nguyên khi ký kết hợp đồng thì cả
hợp đồng chính và thỏa thuận trọng tài đều vô hiệu.
• Đặc điểm về điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài.
Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài có liên quan chặt chẽ đến các điều kiện luật
định về năng lực chủ thể tham gia thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền của trọng tài, ý
chí tự nguyện của các chủ thể và hình thức của thỏa thuận trọng tài, chỉ khi một
thỏa thuận trọng tài đáp ứng đủ các điều kiện trên theo luật định thì nó mới có hiệu
lực.
Thứ nhất, điều kiện về năng lực chủ thể: Chủ thể ở đây gồm ba dạng là cá
nhân, pháp nhân và quốc gia (hoặc các cơ quan nhà nước), đối với mỗi loại chủ thể
pháp luật các nước đều có những quy định về cách xác định luật áp dụng riêng.
4
Thứ hai, điều kiện về thẩm quyền của trọng tài: Mặc dù phương thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài có nhiều ưu điểm và ngày càng đóng vai trò quan trọng
trong nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, không phải mọi tranh chấp đều có thể giải
quyết được bằng trọng tài, ngay cả khi giữa các bên tranh chấp thỏa mãn điều kiện
về sự tự nguyện thỏa thuận. Đó là khi pháp luật nơi diễn ra trọng tài không cho
phép giải quyết loại tranh chấp đó thông qua hình thức trọng tài. Nhìn chung ở một
số nước, các vấn đề không được áp dụng trọng tài là các vấn đề về tình trạng cá
nhân như hộ tịch, năng lực chủ thể, ly hôn hay ly thân.., các hợp đồng ký kết do lừa
đảo hoặc vô đạo đức,…
Thứ ba, điều kiện về ý chí tự nguyện của chủ thể:Thỏa thuận trọng tài là một
loại hợp đồng trong đó ý chí tự nguyên của chủ thể đóng vai trò là một nguyên tắc
trong quan trong quá trình xác lập. Thỏa thuận trọng tài sẽ không có giá trị pháp lý
nếu nó không phải là kết quả của sự thống nhất ý chí giữa các chủ thể hay là sự áp
đặt ý chí của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào. Dựa trên cơ sở thống nhất ý chí,
các bên thỏa thuận về các yếu tố liên quan đến quá trình giải quyết tranh chấp như
tổ chức trọng tài, hình thức trọng tài, ngôn ngữ, địa điểm… và các nội dung khác
phù hợp với lợi ích của các bên.
Thứ tư, điều kiện về hình thức của thỏa thuận trọng tài : Trong các điều kiện có
hiệu lực của thỏa thuận trọng tài, điều kiện về hình thức được coi là một điều kiện
hết sức cơ bản. Hình thức của thỏa thuận trọng tài là sự thể hiện ra bên ngoài sự
thống nhất ý chí của các bên tham gia quan hệ thương mại. Nhìn chung, pháp luật
trọng tài của hầu hết các nước trên thế giới đều quy định thỏa thuận trọng tài phải
được thể hiện dưới dạng văn bản. Quy định này đã trở thành một tập quán quốc tế
chung bởi chỉ có thể xác lập bằng văn bản mới tạo ra sự tin tưởng cho các bên,
đồng thời là cơ sở ràng buộc trách nhiệm của các bên khi phát sinh tranh chấp. Hậu
quả pháp lý của việc vi phạm quy định về hình thức thỏa thuận trọng tài là một
5
trong những nguyên nhân làm vô hiệu thỏa thuận trọng tài hoặc làm cho phán
quyết trọng tài không được công nhận thi hành.
2. Các văn bản pháp luật điều chỉnh về vấn đề Thỏa thuận trọng tài
Tại Việt Nam hiện nay, cơ sở pháp lý chủ yếu cho hoạt đồng của trọng tài
thương mại được tạo thành bởi quy định trong các văn bản sau:
Thứ nhất, Công ước New York 1958 về Công nhận và Thi hành các Quyết
định của Trọng tài nước ngoài mà Việt Nam là thành viên, nội dung cơ bản của
công ước đã được luật hóa tại Bộ luật Tố tụng dân sự.
Thứ hai, Luật Trọng tài thương mại được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa VII kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17/06/2010, có hiệu lực từ
ngày 01/01/2011, thay thế cho Pháp lệnh Trọng tài Thương mại năm 2003.
Thứ ba, các văn bản dưới luật hướng dẫn Luật Trọng tài thương mại năm 2010
như: nghị định số 63/2011/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Trọng tài thương mại. Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định Luật
Trọng tài thương mại…
II.
Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thỏa thuận trọng tài
1.Hình thức của thỏa thuận trọng tài
Luật trọng tài của đa số các quốc gia trên thế giới thường quy định một thỏa
thuận trọng tài phải được làm thành văn bản. Văn bản này có thể là một quy định
sẵn trong hợp đồng hoặc là một thỏa thuận riêng biệt ngoài hợp đồng chính. Văn
bản có thể được thể hiện dưới hình thức tài liệu, telex, thư điện tử…Ngoài ra, một
số nước còn có quy định cụ thể hơn về hình thức thỏa thuận trọng tài ký kết với
người tiêu dùng.
Theo quy định tại Điều 16 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 về hình thức
thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều
khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng. Thỏa thuận
6
trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Các hình thức thỏa thuận sau đây
cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản như Thỏa thuận được xác lập qua trao
đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác theo
quy định của pháp luật; Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng
văn bản giữa các bên; Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có
thẩm quyền ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên; Trong giao dịch
các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể thiện thỏa thuận trọng tài như hợp
đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác; Qua trao đổi về
đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thỏa thuận do một
bên đưa ra và bên kia không phủ nhận.
Như vậy, pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận hình thức của thỏa thuận trọng tài
được lập thành văn bản và không phụ thuộc vào yếu tố nó là một điều khoản hay là
một văn bản riêng biệt. Việc quy định như vậy nhằm hạn chế những tranh chấp xảy
ra sau này về thỏa thuận trọng tài cũng như để làm căn cứ khởi kiện ra trọng tài
thương mại hay tòa án có thẩm quyền. Quy định về hình thức của thỏa thuận trọng
tài trong pháp luật trọng tài thương mại của Việt Nam như vậy là khá hợp lý.
2. Nội dung của thỏa thuận trọng tài.
Về nội dung của thỏa thuận trọng tài, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều chỉ
quy định đơn thuần điều khoản trọng tài phải thể hiện thỏa thuận đưa tranh chấp ra
trọng tài. Ngoài ra, luật pháp các nước hầu hết đều không quy định chi tiết nội
dung cụ thể của thỏa thuận trọng tài. Nội dung cụ thể của thỏa thuận trọng tài là do
các bên tự quyết định, miễn là phải thỏa mãn yêu cầu là một thỏa thuận theo luật
pháp về hợp đồng của nước có liên quan và phù hợp với yêu cầu của pháp luật
nước đó. Trong pháp luật Việt Nam, cụ thể là Luật Trọng tài thương mại Việt Nam
cũng không hề quy định rằng một thỏa thuận trọng tài phải đáp ứng những nội
7
dung chủ yếu nào. Tuy nhiên, căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành cũng
như các quy định về trường hợp thỏa thuận trọng tài thương mại vô hiệu, không
thực hiện được hoặc không rõ ràng, thì có thể thấy rằng nội dung của thỏa thuận
trọng tài phải đáp ứng được các nội dung sau đây:
Thứ nhất, thỏa thuận trọng tài phải nằm trong phạm vi hoạt động thương mại.
Điều này có nghĩa là chỉ có các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại mới
được thỏa thuận về các điều khoản thỏa thuận trọng tài ( bao gồm các tranh chấp
phát sinh từ hoạt động thương mại, tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít
nhất một bên có hoạt động thương mại hoặc các tranh chấp khác giữa các bên mà
pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài). Nếu tranh chấp mà phát sinh
trong lĩnh vực lao động, hôn nhân và gia đình,… thì không thể sử dụng thỏa thuận
trọng tài. Hơn nữa các bên có thể thỏa thuận về những nội dung tranh chấp sử dụng
trọng tài trong điều khoản thỏa thuận trọng tài. Ví dụ như mọi tranh chấp liên quan
đến phương thức thanh toán trong hợp đồng thì mới sử dụng phương thức trọng tài,
từ đó sẽ là cơ sở xác định thẩm quyền của trọng tài cũng như thẩm quyền của Tòa
án.
Thứ hai, thỏa thuận trọng tài phải có nội dung về hình thức trọng tài. Theo quy
định tại Điều 40 và Điều 41 Luật Trọng tài thương mại Việt Nam năm 2010 quy
định về hình thức trọng tài là trọng tài thường trực (trung tâm trọng tài) và trọng
tài ad- hoc (trọng tài vụ việc). Nếu nội dung trọng tài thương mại không chỉ rõ hình
thức trọng tài sẽ áp dụng sẽ có thể dẫn tới nội dung trọng tài thương mại không rõ
ràng, thậm chí không thể thực hiện được. Nếu lựa chọn hình thức trọng tài thường
trực phải chỉ rõ tên trung tâm trọng tài một cách chính xác. Nếu chọn hình thức
trọng tài vụ việc thì phải chỉ rõ số lượng trọng tài viên. Tranh chấp sẽ được giải
quyết bởi một hay ba Trọng tài viên. Thông thường, Hội đồng trọng tài gồm ba
Trọng tài viên sẽ tốn kém chi phí hơn Hội đồng Trọng tài gồm một Trọng tài viên.
8
Xem xét thỏa thuận yêu cầu về (trình độ chuyên môn, thâm niên nghề nghiệp, tính
độc lập,...), khả năng sử dụng ngôn ngữ (thường là ngoại ngữ) và quốc tịch Trọng
tài viên để đảm bảo việc giải quyết tranh chấp được trung lập, khách quan và hiệu
quả. Trong trường hợp các bên đã có trọng tài thương mại nhưng không chỉ rõ hình
thức trọng tài hoặc không thể xác định được tổ chức trọng tài cụ thể, thì khi có
tranh chấp, các bên phải thỏa thuận lại về hình thức trọng tài hoặc tổ chức trọng tài
cụ thể để giải quyết tranh chấp. Nếu không thỏa thuận được thì việc lựa chọn hình
thức, tổ chức trọng tài để giải quyết tranh chấp được thực hiện theo yêu cầu của
nguyên đơn (khoản 5 Điều 43 Luật Trọng tài thương mại Việt Nam năm 2010).
Thứ ba, thỏa thuận trọng tài cần chỉ rõ ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng
tài. Về vấn đề này Điều 10 Luật Trọng tài thương mại Việt Nam năm 2010 quy
định: đối với tranh chấp không có yếu tố nước ngoài, ngôn ngữ sử dụng trong tố
tụng trọng tài là tiếng Việt, trừ trường hợp tranh chấp mà ít nhất một bên là doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trường hợp bên tranh chấp không sử dụng được
tiếng Việt thì được chọn người phiên dịch ra tiếng Việt. Đối với tranh chấp có yếu
tố nước ngoài, tranh chấp mà ít nhất một bên là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài do các bên thỏa thuận. Trường hợp
các bên không có thỏa thuận thì ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài do Hội
đồng trọng tài quyết định.
Thứ tư, thỏa thuận trọng tài nên quy định luật áp dụng giải quyết tranh chấp
Luật áp dụng sẽ xác định giá trị pháp lý của các quyền và nghĩa vụ của các bên
trong hợp đồng. cần lưu ý rằng luật điều chỉnh nội dung hợp đồng có thể khác với
luật điều chỉnh quá trình tố tụng trọng tài. Thông thường luật điều chỉnh quá trình
tố tụng trọng tài là luật nơi tiến hành trọng tài. Trong thương mại, luật áp dụng
hoàn toàn do các bên tự do lựa chọn. Điều 14 Luật Trọng tài thương mại Việt Nam
năm 2010 quy định:
9
“1. Đối với tranh chấp không có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp
dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp.
2. Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp
luật do các bên lựa chọn; nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội
đồng trọng tài quyết định áp dụng pháp luật mà Hội đồng trọng tài cho là phù hợp
nhất.
3. Trường hợp pháp luật Việt Nam, pháp luật do các bên lựa chọn không có
quy định cụ thể liên quan đến nội dung tranh chấp thì Hội đồng trọng tài được áp
dụng tập quán quốc tế để giải quyết tranh chấp nếu việc áp dụng hoặc hậu quả
của việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam”.
Quy định trên hoàn toàn phù hợp với thực tế tranh chấp. Ngoài việc thỏa thuận
luật áp dụng giải quyết tranh chấp trong thỏa thuận trọng tài, các bên có thể tách ra
thành một điều khoản trong hợp đồng kinh tế.
3. Thời điểm lập thỏa thuận trọng tài
Theo quy định tại Điều 5 Luật trọng tài thương mại năm 2010 thì “thỏa thuận
trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp”. Tuy nhiên, trên
thực tế, các bên nên lập thỏa thuận trọng tài trước khi có tranh chấp xảy ra, bởi lẽ
sau khó tranh chấp, các bên khó có thể ngồi lại để thương lượng với nhau về lập
thỏa thuận trọng tài.
4. Tính độc lập của thoả thuận trọng tài
10
Sự độc lập trong quan hệ giữa điều khoản trọng tài và hợp đồng được quy định
tại Điều 19 Luật Trọng tài thương mại năm 2010: “Thoả thuận trọng tài hoàn toàn
độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu
hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực của thoả thuận trọng tài”.
Đây là một quy định đặc thù về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, dù thỏa thuận
trọng tài được thể hiện dưới hình thức một điều khoản nằm trong hợp đồng chính
hay dưới hình thức văn bản riêng đi kèm hợp đồng chính thì thỏa thuận trọng tài
thực chất chính là một hợp đồng nhỏ có nội dung khác biệt và có giá trị độc lập với
hợp đồng chính. Điều đó có nghĩa, ngay cả khi hợp đồng chính có sự thay đổi
nhưng việc giải quyết tranh chấp đã được các bên thỏa thuận bằng phương thức
trọng tài thì sự thay đổi đó cũng không ảnh hưởng đến thỏa thuận trọng tài, và
Trọng tài hoàn toàn có thể giải quyết tranh chấp của các bên khi hợp đồng vô hiệu
hoặc các điều khoản khác vô hiệu. Quy định này giúp cho các tranh chấp vẫn được
giải quyết bằng con đường trọng tài kể cả khi hợp đồng bị chính hội đồng trọng tài
tuyên là vô hiệu, ví dụ như do có nội dung vi phạm pháp luật. Thỏa thuận trọng tài
trong trường hợp đó sẽ được coi là tách riêng khỏi hợp đồng có nội dung vi phạm
pháp luật đó. Nói như vậy không có nghĩa là thỏa thuận trọng tài không bao giờ bị
vô hiệu. Có những lý do vô hiệu có tác động tới cả hai thoả thuận trên như vi phạm
nguyên tắc tự nguyện khi ký kết hoặc sự không có năng lực trong ký kết hợp đồng
của các bên.
5. Thỏa thuận trọng tài vô hiệu, không thực hiện được
Điều 18 Luật Trọng tài thương mại Việt Nam năm 2010 quy định về các
trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu ghi nhận 6 trường hợp:
“1. Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của
Trọng tài quy định tại Điều 2 của Luật này.
11
2. Người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật.
3. Người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo
quy định của Bộ luật dân sự.
4. Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16
của Luật này.
5. Một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả
thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô hiệu.
6. Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật”.
Như vậy, Luật Trọng tài thương mại Việt Nam năm 2010 cũng đã khắc phục
được sự không rõ ràng của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 về các
trường hợp vô hiệu thỏa thuận trọng tài với những quy định cụ thể hơn. Bên cạnh
đó, Luật Trọng tài thương mại Việt Nam năm 2010 còn quy định trường hợp thỏa
thuận trọng tài không rõ ràng thì bên khởi kiện có quyền được tự do lựa chọn tổ
chức trọng tài thích hợp để khởi kiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Quy định này sẽ hạn chế tình trạng thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu hoặc
không xác định được cơ quan nào giải quyết tranh chấp.
Luật Trọng tài thương mại Việt Nam lại không quy định rõ ràng trường hợp
thỏa thuận trọng tài không thực hiện được. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận định
rằng, thỏa thuận trọng tài không thực hiện được khi một bên tham gia thỏa thuận
trọng tài là cá nhân chết hoặc mất năng lực hành vi mà không có người thừa kế
hoặc người đại diện theo pháp luật của người đó và các bên không có thỏa thuận
khác. Trường hợp một bên tham gia thỏa thuận trọng tài là tổ chức phải chấm dứt
hoạt động, bị phá sản, giải thể và không có tổ chức tiếp nhận quyền và nghĩa vụ
của tổ chức đó và các bên không có thỏa thuận khác. Như vậy, có thể hiểu rằng
12
thỏa thuận trọng tài không thực hiện được là thỏa thuận không trái pháp luật
nhưng lại không có các điều kiện để thực hiện, không có tính khả thi hoặc không
tồn tại đối tượng theo yêu cầu.
6. Thẩm quyền xem xét hiệu lực và luật áp dụng để xem xét hiệu lực của thỏa
thuận trọng tài.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, thẩm quyền xem xét hiệu lực của thỏa
thuận trọng tài thuộc về hai cơ quan chính là trọng tài và tòa án. Nếu các bên gửi
đơn ra trọng tài thì trọng tài có thẩm quyền xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng
tài này. Tuy nhiên, nếu một bên gửi đơn ra tòa án kèm theo thỏa thuận trọng tài thì
tòa án sẽ xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên, luật nào sẽ là luật áp
dụng để xem xét hiệu lực của trọng tài thương mại thì không được quy định của
thể trong Luật trọng tài thương mại Việt Nam.
III.
Các biện pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thương mại Việt Nam về thỏa
thuận trọng tài.
Thứ nhất, văn bản hướng dẫn luật nên bổ sung và làm rõ khái niệm thế nào là
“thỏa thuận trọng tài không thực hiện được” để các bên tranh chấp cũng như trọng
tài viên dễ dàng áp dụng và đối chiếu giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, nên bổ sung quy định về nội dung thỏa thuận trọng tài trong Luật
Trọng tài thương mại Việt Nam . Thực tế, có rất nhiều thỏa thuận trọng tài bị vô
hiệu do nội dung không rõ ràng, cụ thể. Để khắc phục tình trạng này, Luật Trọng
tài thương mại Việt Nam cần có quy định cụ thể về nội dung của thỏa thuận trọng
tài.
Thứ ba, pháp luật trọng tài Việt Nam nên bổ sung các quy định về trường hợp
thỏa thuận trọng tài không thực hiện hoặc không thể thực hiện được và có thể quy
đinh cho tòa án có thẩm quyền xét xử nếu thỏa thuận trọng tài rơi vào tình trạng
đó. Việc pháp luật trọng tài ghi nhận đối với trường hợp này một mặt tạo điều kiện
13
cho trọng tài được phát triển vì Tòa án sẽ không can thiệp vào vụ việc nếu như các
bên đã có thỏa thuận trọng tài, mặt khác còn tạo điều kiện cho việc hỗ trợ nếu như
thỏa thuận trọng tài đó có sai sót khiến cho thỏa thuận trọng tài không thể thực
hiện được. Tuy nhiên, trong trường hợp này, ý chí đích thực của các bên vẫn là
muốn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Do đó, pháp luật nên ấn định một thời
gian nhất định để các bên cùng bàn bạc xác lập thỏa thuận trọng tài mới, nếu hết
thời hạn trên mà không có thỏa thuận mới thì tòa án sẽ thụ lý giải quyết tranh chấp.
Bên cạnh đó, đối với trường hợp thỏa thuận trọng tài không thực hiện được do
trọng tài từ chối thụ lý giải quyết tranh chấp thì pháp luật trọng tài cũng cần có một
quy định cụ thể về thời điểm kết thúc hiệu lực của thỏa thuận trọng tài hợp lý nhất
là ngay sau khi trọng tài từ chối thụ lý giải quyết tranh chấp.
Thứ tư, pháp luật trọng tài của Việt nam nên bổ sung quy định về luật điều
chỉnh thỏa thuận trọng tài. Đây là nội dung rất quan trọng đối với việc giải quyết
các tranh chấp có liên quan đến thương mại quốc tế. Trên thực tế, Hội đồng trọng
tài nhìn chung xác định luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài nên được quy định rõ
trong văn bản pháp luật là thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên, nếu các bên không
có sự thỏa thuận về vấn đề này thì pháp luật hiện hành không có bộ quy tắc nào về
chọn luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài được sử dụng chung cho các trọng tài
viên trong Hội đồng trọng tài. Thực tiễn cho thấy, việc xem xét luật điều chỉnh
hiệu lực của thỏa thuận trọng tài phụ thuộc vào từng giai đoạn tố tụng trọng tài mà
sẽ có những quyết định riêng rẽ, chẳng hạn, luật nơi tiến hành trọng tài, luật nơi
phán quyết được tuyên, luật điều chỉnh nội dung tranh chấp. Vì vậy, để tránh
những rắc rối có thể xảy ra trong quá trình trọng tài, nên quy định khi không có
thỏa thuận thì luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài nên là luật nơi quốc gia nơi ra
phán quyết.
14
KẾT LUẬN
Qua những phân tích ở trên, ta có thể nhận thấy rằng thỏa thuận trọng tài đóng
một vai trò rất quan trọng đối với hoạt động trọng tài. Thỏa thuận trọng tài đóng
vai trò như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt và là hòn đá tảng đặt nền móng cho sự tồn tại
và hoạt động của trọng tài. Kế thừa và phát triển Pháp lệnh Trọng tài thương mại
2003, Luật trọng tài thương mại Việt Nam năm 2010 đã góp phần hoàn thiện hơn
những quy định của pháp luật về thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên, những quy định
này sau một thời gian áp dụng cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất định, chưa thực
sự phù hợp. Những hạn chế này cần được khắc phục để phù hợp và đáp ứng kịp
thời với yêu cầu của nền kinh tế thị trường hiện nay
15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nọi, Nxb
Công an Nhân dân, 2013.
2. />3. />4. />5. />6. />7. />8. />
16