Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

phân tích những hạnchế trong các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hộ quyền tácgiả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.64 KB, 15 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong suốt tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã tạo
lập được nền văn hoá phong phú, đa dạng, giàu bản sắc dân tộc. Trong đó văn học nghệ thuật dân gian là dòng chảy lớn bắt nguồn từ bản chất nhân dân, thể hiện sắc thái
và khát vọng của các cộng đồng cư dân khác nhau cùng chung sống trên lãnh thổ quốc
gia. Vì vậy, bản thân nó có sức sống trường tồn, góp phần làm nên sức mạnh của dân
tộc trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Tuy nhiên vấn đề sử dụng tác phẩm văn học
nghệ thuật dân gian còn nhiều bất cập, và vấn đề bảo hộ quyền tác giả với loại hình
này cũng còn hạn. bài tiểu luận dưới đây xin đi sâu nghiên cứu phân tích những hạn
chế trong các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hộ quyền tác
giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian. Do sự hạn chế về kiến thức, bài
làm sẽ không tránh khỏi thiếu sót, kính mong sự góp ý của thầy cô và các bạn để bài
làm được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
I.Một số vấn đề lí luận chung về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học
nghệ thuật dân gian.
1. Khái quát về tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian.
Theo định nghĩa của WIPO/UNESCO: Dân gian (theo nghĩa rộng là văn hoá
truyền thống và dân gian thông thường) là một sáng tạo mang tính định hướng cộng
đồng và dựa trên truyền thống của các nhóm người hoặc các cá nhân phản ánh ước
vọng của cộng đồng như một hình thức thể hiện đầy đủ đặc điểm văn hoá và xã hội
của nó; các chuẩn mực của nó được truyền miệng, thông qua sự bắt chước hoặc các
hình thức khác. Các thể loại tác phẩm dân gian bao gồm ngôn ngữ, văn học, âm nhạc,
điệu múa, trò chơi, thần thoại, nghi lễ, tập quán, thủ công, kiến trúc và các nghệ thuật
khác.
Theo quan điểm truyền thống thì : Văn hóa nghệ thuật dân gian là cội nguồn, là
bản sắc, là hệ giá trị biểu tượng của văn hóa dân tộc, nhưng tựu chung lại thì văn hóa
dân gian là những sản phẩm chung của cộng đồng. Văn hóa dân gian có thể dưới dạng
ngôn ngữ (truyện, thơ, câu đố dân gian...); âm nhạc (các bài hát dân gian, âm nhạc
truyền thống...); động tác (múa dân gian, động tác thực hiện nghi lễ...) hoặc các dạng
thể hiện hữu hình khác (các tác phẩm hội họa, điêu khắc, nghệ thuật tạo hình, sản
phẩm thủ công mỹ nghệ...) và các tài sản văn hóa vật thể khác.



1


Tại khoản 1 điều 23 luật sở hữu trí tuệ cũng có quy định : “Tác phẩm văn học,
nghệ thuật dân gian là sáng tạo tập thể trên nền tảng truyền thống của một nhóm hoặc
các cá nhân nhằm phản ánh khát vọng của cộng đồng, thể hiện tương xứng đặc điểm
văn hoá và xã hội của họ, các tiêu chuẩn và giá trị được lưu truyền bằng cách mô
phỏng hoặc bằng cách khác. Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian bao gồm:
i. Truyện, thơ, câu đố;
ii. Điệu hát, làn điệu âm nhạc;
iii. Điệu múa, vở diễn, nghi lễ và các trò chơi;
iv. Sản phẩm nghệ thuật đồ hoạ, hội hoạ, điêu khắc, nhạc cụ, hình mẫu kiến trúc và
các loại hình nghệ thuật khác được thể hiện dưới bất kỳ hình thức vật chất nào.”
Có thể thấy tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian (VHNTDG) là sản phẩm của
cộng đồng trên một vùng miền, khu vực địa lí nhất định phản ánh giá trị văn học nghệ
thuật đặc trưng, cho nên nó mang những đặc trưng có thể ảnh hưởng cơ chế bảo hộ
quyền tác giả đối với loại hình tác phẩm này.
Thứ nhất, tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian ra đời do sự sáng tạo của cộng
đồng, có thể là cộng đồng trên một khu vực địa lí địa phương hoặc cộng đồng theo sắc
tộc. đây là điểm khác biệt giữa tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian và tác phẩm
thông thường, bởi lẽ tác phẩm thông thường là sản phẩm của cá nhân hay một nhóm cá
nhân. Theo thời gian những tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian được lưu truyền,
nuôi dưỡng trong dân cư, là món ăn tinh thần, trở thành nét văn hóa của cả cộng đồng,
vì thế từ chỗ là sáng tạo của một cá nhân đã được bổ sung, hoàn thiện trở thành giá trị
của cộng đồng.
Thứ hai, tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian do cộng đồng sáng tạo, cho nên
thời gian ra đời và tồn tại của nó thường không xác định và thường vận động theo sự
sáng tạo không ngừng nghỉ của đời sống dân cư. Nhiều tác phẩm văn học được lưu
truyền bằng trí nhớ của con người, Vì thế nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian

thường có “dị bản” khác nhau do được lưu truyền trong cộng đồng như các tác phẩm
truyện, bài hát, thơ….
Thứ ba, tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian đóng vai trò quan trọng trong
việc nhận dạng văn hóa. Với việc phản ánh giá trị văn hóa của cộng đồng tác phẩm
văn học dân gian có vai trò quan trọng trong việc xác định giá trị văn hóa giữa cộng
đồng này với cộng đồng khác trong một quốc gia. Song quan trọng hơn các tác phẩm
văn học nghệ thuật nói riêng và các tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian nói chung

2


đóng góp vai trò quan trọng trong việc nhận dạng văn hóa của quốc gia này với quốc
gia khác, điều này đã được tổ chức sở hữu trí tuệ WIPO khẳng định.
Thứ tư, hiện nay nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian vẫn còn bị thất
truyền, một số tác phẩm nổi tiếng trong phạm vi quốc gia và được nhiều người biết
đến, nhưng vấn đề sử dụng có hiệu quả và khai thác giá trị của nó để bảo tồn cho mai
sau còn chưa được quan tâm đúng mức.
Với những đặc trưng riêng của tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian làm cho
khung pháp luật hiện hành về quyền bảo hộ quyền tác giả với loại hình tác phẩm này
bộc lộ nhiều bất cập và hạn chế .(1)
2. Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian.
Trước hết có thể hiểu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân
gian là các quyền về tài sản và nhân thân của chủ thể với tư cách là tác giả hoặc chủ sở
hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian. Bảo hộ quyền tác giả
đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian là việc nhà nước sử dụng chính sách
pháp luật về quyền tác giả để chống lại mọi hành vi xâm phạm đến quyền nhân thân,
quyền tài sản của các tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian.
Bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian của các quốc gia trên thế giới
nhằm nhiều mục đích khác nhau phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của
mỗi quốc gia. Nhìn chung các quốc gia trên thế giới khi bảo hộ tác phẩm văn học,

nghệ thuật dân gian đều nhằm một số những mục đích và ý nghĩa cơ bản.
Thứ nhất, Bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian nhằm duy trì những
giá trị mà nó mang lại: Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian chứa đựng nhiều giá trị
to lớn đối với con người: giá trị giáo dục, giá trị nhận thức và giá trị thẩm mĩ. Tác
phẩm văn học dân gian là một kho kiến thức đồ sộ của các dân tộc trên thế giới, nhìn
vào một tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian ta dễ dàng nhận thấy lối suy nghĩ, nét
văn hóa của dân tộc đó đồng thời một tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian còn có
tác dụng giáo dục sâu sắc, hình thành tinh thần lạc quan, nhiều phẩm chất tốt đẹp như
lòng yêu nước, tình yêu thiên nhiên, lòng vị tha… Với những giá trị quý báu như thế
nên tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian cần được bảo hộ. Bên cạnh đó bảo hộ tác
phẩm văn học, nghệ thuật dân gian nhằm duy trì những nét đẹp truyền thống và tinh
hoa của các dân tộc trên thế giới.
Thứ hai, Bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian nhằm bảo đảm sự phát
triển một cách lành mạnh của quần chúng. Vì tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian
mang tính chất truyền miệng và dị bản, do đó phải bảo đảm chúng phát triển đúng và
3


duy trì được nét đẹp văn hóa mà chúng mang theo. Bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ
thuật dân gian để giúp việc phát triển các tác phẩm này một cách toàn vẹn, sao cho các
hành động khai thác, chuyển thể các tác phẩm văn học dân gian không làm ảnh hưởng,
phương hại tới nét đẹp, bản sắc văn hóa mà nó mang theo, nhưng cũng không được
kìm hãm sự sáng tạo của bản thân những người phát triển chúng.
Thứ ba,bảo hộ tác phẩm văn học để ngăn chặn các hành vi xâm phạm tới
chúng. Ngày nay trước sức mạnh của toàn cầu hóa, sự phát triển kinh tế ảnh hưởng
không nhỏ tới sự tồn tại của các tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian do đó cần có
một cơ chế để bảo vệ chúng, tránh bị làm phương hại và mai một dưới những luồng
ảnh hưởng của kinh tế thị trường. Đồng thời thể hiện được sự quan tâm của chính
quyền tới đời sống xã hội, đời sống văn hoá của người dân, góp phần ổn định trật tự xã
hội.

Thứ tư, bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian là cách để giữ gìn tu bổ
và phát triển chúng. Việc bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian sẽ đề ra việc
cấp phép sử dụng, số tiền thu được từ việc cấp phép đó sẽ góp một phần vào việc tu
bổ, phát triển tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian. Bảo hộ tác phẩm văn học dân
gian sẽ tạo ra lợi ích cho cộng đồng lưu giữ chúng, khi có ai muốn khai thác một tác
phẩm văn học dân gian thì đồng nghĩa với việc họ phải bỏ ra một khoản phí để sử
dụng chúng góp phần vào sự duy trì sự tồn tại của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân
gian nói riêng và văn hóa truyền thống nói chung.
II. Một số hạn chế trong các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo
hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian.
1. Chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian.
Với một tác phẩm để xác định được phạm vi quyền được bảo hộ cũng như việc
thực hiện chúng, cần xác định đúng ai là chủ hữuquyền tác giả. Tác phẩm văn học dân
gian cũng vậy. Với đặc trưng là sáng tạo của cộng đồng, việc xác định chủ sở hữu với
tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian là điều không dễ dàng. Luật sở hữu trí tuệ 2005
cũng chưa xác định được vấn đề này.
Chúng ta khó mà áp đặt được một cá nhân hay tổ chức nào là chủ sở hữu quyền
tác giả của tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian, bởi lẽ nó là sáng tạo của cả cộng
đồng. hãy Cùng phân tích các quy định của luật sở hữu trí tuệ ghi nhận về chủ sở hữu
quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian:
Điều 23 trực tiếp điều chỉnh quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật
dân gian nhưng lại chưa nói cụ thể ai là chủ sở hữu của quyền này. Trong phần khái
4


niệm tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian mà điều luật đưa ra, có đưa ra một số khái
niệm như: “cá nhân”, “nhóm cá nhân”, nhưng đối tượng này không thể là chủ thể của
quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian. Bởi lẽ, theo quy định tại
Điều 13 luật đề cập chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật và
khoa học nói chung là “cá nhân’, “tổ chức” những người trực tiếp sáng tạo hay là chủ

sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm.tuy nhiên, ngay trong khái niệm tại điều 23
cũng nói họ sáng tạo ra trên cơ sở truyền thống và phản ánh khát vọng của cộng đồng.
những đối tượng này, đứng riêng lẻ, không là tác giả trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm văn
học nghệ thuật dân gian, nên không thể là chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm
văn học nghệ thuật dân gian.
Ngoài ra luật còn ghi nhận nhà nước là chủ thể thứ 3 có quyền sở hữu quyền tác
giả với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian. Song điều 42 luật nêu ra 3 loại tác phẩm
mà nhà nước có quyền sở hữu quyền tác giả nhưng không hề có tác phẩm văn học
nghệ thuật dân gian. Có ý kiến cho rằng tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian là loại
hình tác phẩm khuyết danh, do vậy nhà nước nắm quyền sở hữu quyền tác giả. Tuy
nhiên, như đặc điểm của loại hình tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian là sản phẩm
của cộng đồng, tuy không nói cụ thể là ai, cá nhân hay tổ chức nào, nhưng luôn biết nó
là thuộc cộng đồng nào, vùng miền nào. Hơn nữa nếu bảo hộ tác phẩm văn học dân
gian như một tác phẩm khuyết danh thì nó chỉ được bảo hộ trong vòng 50 năm, điều
này cũng không phù hợp với đặc trưng của loại hình tác phẩm này, nó luôn được sáng
tạo, làm mới, tiếp tục bổ sung bởi cộng đồng. Hơn nữa, đây cũng không thuộc loại tác
phẩm thuộc về công chúng theo điều 43 luật sở hữu trí tuệ bởi lẽ không xác định được
thời hạn bảo hộ của tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian, và vì thế không xác định
được khi nào hết thời hạn bảo hộ, nên đây không thể là loại hình tác phẩm thuộc về
công chúng. (2)
Do vậy nên xếp tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian vào loại hình tác phẩm có
cộng đồng là chủ sở hữu quyền tác giả, có thể hiểu cộng đồng là người, tổ chức đã
sáng tạo ra hoặc là toàn thể cộng đồng dân tộc Việt Nam. Hiểu theo nghĩa thứ nhất là
phù hợp về mặt lý luận bởi chính cộng đồng cụ thể sáng tạo ra một tác phẩm văn học
nghệ thuật dân gian đã đem lại linh hồn, sức sống cho tác phẩm và truyền đạt ý tưởng
suy nghĩ cho người thưởng thức.tuy nhiên với thực tế ngày nay, việc để một cộng
đồng là chủ sở hữu quyền tác giả sẽ gây khó khăn cho việc quản lí và thực hiện quyền
tác giả. Với ý nghĩa đó, cộng đồng đã sáng tạo ra cần phải được hưởng quyển của của
người sáng tạo ra, hay nói cách khác là quyền về nguồn gốc của tác phầm. Để cả cộng
5



đồng dân tộc Việt Nam là chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ
thuật dân gian sẽ phù hợp hơn với thực tiễn của việc thực thi quyền, tuy nhiên cũng
cần có những biện pháp cụ thể để cộng đồng thực thi quyền này. Với lịch sử hàng
nghìn năm văn hiến với một nền văn hóa lâu đời đậm đà bản sắc dân tộc, Việt Nam có
rất nhiều những cộng đồng dân tộc và dân cư có những tác phẩm văn học nghệ thuật
dân gian mang bản sắc của riêng mình. Để thực hiện những quyền tài sản liên quan tới
mỗi tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian, mỗi cộng đồng sở hữu phải lập nên môt tổ
chức có tư cách đứng chủ sở hữu. Bởi lẽ, sẽ có quá nhiều những cộng đồng và tổ chức
như thế nên sự phức tạp của các thủ tục hành chính cũng như mục đích thu và chi các
phí liên quan đến quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian sẽ làm
cho việc các cộng đồng sáng tạo ra tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian tự thực thi
những quyền tài sản đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian trở nên không có ý
nghĩa.
Từ những lập luận này, để thực thi quyền tài sản liên quan tới tác phẩm văn học
nghệ thuật dân gian, cần phải xác định toàn thể cộng đồng cũng là chủ sở hữu của các
tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian. Qua toàn thể cộng đồng, Nhà nước mà trực tiếp
là một cơ quan nhà nước được trao thẩm quyền, sẽ thay mặt thực hiện các quyền tài
sản liên quan đến tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian. Cơ chế này, ngoài việc giải
quyết được các mâu thuẫn trên đây còn rất phù hợp trong việc thực thi các quyền tài
sản khi tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian Việt Nam được nước ngoài sử dụng. tuy
nhiên không phải tất cả mọi thành viên của cộng đồng đều có quyền sử dụng bất cứ
một hay tất cả vốn văn học nghệ thuật dân gian của cộng đồng mình. Pháp luật cần
quy định cụ thể một số đối tượng có quyền quản lí và bảo tồn giá trị văn hóa của cộng
đồng mình. Trước hết là những người có tài năng nổi bật hơn những thành viên khác,
có khả năng trình diễn vốn văn hóa ấy thành thạo nhất với kĩ năng cao nhất, có khả
năng sáng tạo bổ sung làm giàu cho vốn ấy và cũng có thể như người thầy truyền dạy
vốn văn hóa đó cho các thế hệ sau. Thứ hai, bên cạnh các nghệ nhân, người “truyền
lửa” là những người trẻ tuổi, yêu mến vốn văn học nghệ thuật dân gian của cộng đồng,

họ là những người “tiếp lửa”, nhận truyền dạy và thực hành biểu đạt, và sáng tạo bổ
sung làm phong phú cho vốn văn học nghệ thuật dân gian của cộng đồng. do đó các
nghệ nhân và những người trẻ tuổi thực hành, họ có tư cách đại diện cho cộng đồng
mình trong việc bảo vệ, giữ gìn và đại diện sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn
học nghệ thuật dân gian của cộng đồng. (3)

6


Ngoài ra, trong xã hội ngày nay không ít những cá nhân, nhóm cá nhân có lòng
đam mê tìm hiểu văn học nghệ thuật dân gian, họ sưu tầm, nghiên cứu, gìn giữ những
tác phẩm, vốn quý của văn học nghệ thuật dân gian, học cũng cần được coi là chủ sở
hữu với các tư liệu, tài liệu mà họ sưu tầm được.
2. Mục đích bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian.
Mục đích của việc bảo hộ quyền tác giả đối với một tác phẩm văn học nghệ thuật
thông thường, ngoài việc công nhận về nguồn gốc sáng tạo ra tác phẩm còn là sự bù
đắp xứng đáng cho tác giả và người sở hữu quyền tác giả vì những công sức sáng tạo
họ đã bỏ ra.
Tác giả của các tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian là những cộng đồng dân cư
theo sắc tộc hay địa lí, Đó không phải là cá nhân hay tổ chức nào cụ thể. Vì thế sẽ
không phù hợp nếu như xác định cần phải bù đắp về vật chất công sức sáng tạo cho tác
giả như đối với một tác phẩm thông thường. theo khoản 2 điều 20 nghị định
100/2006/NĐ-CP quy định chi tiêt: “Sử dụng tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian
quy định tại khoản 2 Điều 23 của Luật Sở hữu trí tuệ là việc nghiên cứu sưu tầm, giới
thiệu giá trị đích thực của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian” điều này đã khái
quát về mục đích sử dụng tác phẩm văn học nghệ thuật dân giantuy nhiên chưa xác
định rõ rang mục đích của bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật
dân gian là gi? Mục đích cao nhất của việc bảo hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm
văn học nghệ thuật dân gian đó phải là làm sao bảo tồn và phát huy tối đa những giá trị
truyền thống trong các tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian, đồng thời phát hiện và

bảo tồn những tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian hiện còn đang thất truyền trong
dân gian.
Với mục đích cao nhất này, khái niệm về “bảo hộ” đối với tác phẩm văn học
nghệ thuật dân gian cần phải được nhìn nhận khác với “bảo hộ” tác phẩm văn học,
nghệ thuât, khoa học thông thường. Bảo hộ không có nghĩa là độc quyền sử dụng và
cho phép sử dụng tác phẩm của tác giả như đối với các tác phẩm thông thường. bảo hộ
Tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian là khi mọi người dân Việt Nam – dân gian –
đều được tiếp cận một cách dễ dàng nhất tới nó, sử dụng, duy trì nó, làm mới nó để
tiếp tục phản ánh được giá trị văn hóa của cả cộng đồng qua sự phát triển của nó.
Mục đích bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian này, và đặc điểm chủ sở
hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian, đã làm cho việc cấp
phép sử dụng theo cách bảo hộ quyền tác giả thông thường, trở thành không cần thiết
khi một người dân Việt Nam nào đó muốn tiếp cận và sử dụng một tác phẩm văn học
nghệ thuật dân gian. Tuy vậy những hành vi sử dụng tác phẩm văn học nghệ thuật dân
7


gian đi ngược lại giá trị văn học, dân gian cần phải bị cấm. Đồng thời việc không cần
phải cấp phép không loại trừ khả năng người sử dụng phải thực hiện một số nghĩa vụ
tài chính nhất định. Còn đối với những người sử dụng là người nước ngoài, việc bảo
hộ tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian như một tác phẩm văn học, nghệ thuật thông
thường là điều cần thiết bởi lẽ họ không phải là công dân Việt Nam. Khi sử dụng tác
phẩm văn học nghệ thuật dân gian vì mục đích lợi nhuận, họ cần xác lập với Nhà
nước Việt Nam, đại diện chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ
thuật dân gian Việt Nam, một mối quan hệ tương tự như với một số chủ sở hữu quyền
tác giả đối với những tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học thông thường khác.
3. Phạm vi bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian
Khoản 2 Điều 23 “tổ chức, cá nhân khi sử dụng tác phẩm văn học, nghệ thuật
dân gian phải dẫn chiếu xuất xứ của loại hình tác phẩm đó và bảo đảm giữ gìn giá trị
đích thực của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian.”

Ngoài ra nghị định 100/2006/NĐ-Cp có quy định chi tiết về việc sử dingj tác
phẩm văn học nghệ thuật dân gian: “Điều 20. Sử dụng tác phẩm văn học, nghệ thuật
dân gian:
3. Người sử dụng tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian quy định tại khoản 2
Điều này phải thoả thuận về việc trả thù lao cho người lưu giữ tác phẩm văn học,
nghệ thuật dân gian và được hưởng quyền tác giả đối với phần nghiên cứu sưu tầm,
giới thiệu của mình.
4. Dẫn chiếu xuất xứ loại hình tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian quy định tại
khoản 2 Điều 23 của Luật Sở hữu trí tuệ là việc chỉ ra địa danh của cộng đồng cư dân
nơi tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian được hình thành.”
Như vậy, luật chỉ quy định về quyền nhân thân của quyền tác giả đối với tác
phẩm văn học nghệ thuật dân gian. Quyền này chỉ tương ứng với một trong số 4 loại
quyền nhân thân dành cho chủ sở hữu quyền tác giả một tác phẩm thông thường, được
quy định tại khoản 2 Điều 19 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005. Chính xuất phát từ Điều
23 này mà cũng có những ý kiến cho rằng luật chỉ yêu cầu nghĩa vụ tinh thần và việc
thu tiền bản quyền là không cần thiết.
Phạm vi bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian cần
phải được xem xét toàn diện hơn thế. Các quyền nhân thân, vật chất và cả các quyền
khác nếu cần đều phải được xác lập phù hợp với mục đích bảo hộ và đặc điểm của tác
phẩm văn học nghệ thuật dân gian. Phạm vi các quyền cũng như chủ thể thụ hưởng
hoặc thực hiện quyền cần phải được xác lập một cách rõ ràng.
8


Đối với quyền nhân thân: dẫn chiếu xuất xứ tác phẩm văn học nghệ thuật dân
gian là yêu cầu quan trọng hàng đầu hàng đầu khi sử dụng tác phẩm. Quyền này đã
được khoản 2 Điều 23 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 quy định Nó tương tự như quyền
“đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác
phẩm được công bố, sử dụng”được Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 bảo hộ đối với quyền
tác giả thông thường. Quyền này thể hiện vai trò chủ sở hữu của chính bản thân cộng

đồng đã sáng tạo ra tác phẩm. Họ phải có quyền xác nhận là nguồn gốc của tác phẩm
mỗi khi tác phẩm được sử dụng hoặc dẫn chiếu.
Một quyền nhân thân nữa cũng cần được bảo hộ đối với tác phẩm văn học nghệ
thuật dân gian là quyền tương tự như quyền “bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không
cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kì hình thức nào
gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả” được quy định cho quyền tác giả
thông thường. Các tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian cần phải được bảo hộ sự toàn
vẹn trong giá trị văn học, nghệ thuật dân gian mà nó chứa đựng. Quyền nhân thân này
thuộc về cả cộng đồng nghĩa hẹp và cộng đồng nghĩa rộng, tức là toàn bộ công chúng.
Hơn nữa nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian có sức ảnh hưởng và nổi tiếng ra
cả nước ngoài, Do vậy cũng cần quy định bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật dân
gian để không làm ảnh hưởng đến cộng đồng sáng tạo ra nó, rộng ra là toàn cộng đồng
dân tộc: “bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén
hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kì hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy
tín của quốc gia”. Tuy nhiên, cộng đồng nghĩa rộng, thông qua Nhà nước, sẽ là người
thực thi quyền này bằng những luật lệ cho mình đặt ra. (4)
Đối với quyền tài sản,cần phải đặt ra việc thu phí khi sử dụng tác phẩm. bởi lẽ
những tác phẩm với giá trị văn hóa nghệ thuật đặc sắc và mang cả tâm hồn dân tộc thì
hoàn toàn chưa được quan tâm. Sự không công bằng còn thể hiện ở khía cạnh nữa là
việc làm tác phẩm phái sinh, tác phẩm chuyển thể, ... thì sau khi có tác phẩm thì người
chuyển thể hay người làm tắc phẩm phái sinh đều có quyền hưởng lợi ích khi có ngưởi
khác sử dụng những tác phẩm đó. Vậy có phải chúng ta đã bảo vệ một cái lợi ích khác
mà thật sự giá trị sáng tạo không có nhiều, họ chỉ dựa trên trí tuệ của người khác để
tạo ra một lợi ích mà thực ra họ không có sự sáng tạo nhiều ở trên thực thế trong khi
những tác phẩm VHNTDG luôn mang trong nó một sự sáng tạo nghệ thuật to lớn, một
giá trị dân tộc sâu sắc, một nét văn hóa đặc trưng lại không có một sự bảo hộ nào cho
nó. Thu phí sử dụng ngoài lợi ích có thêm nguồn vốn để hoàn thiện hay phát huy thêm
nhiều tác phẩm văn hóa dân gian, có vốn để quảng cáo hình ảnh văn hóa, những nét
9



đặc sắc, tinh hoa dân tộc ra bạn bè thế giới ...hơn nữa khi có cơ chế bảo hộ tốt thì có
thể ngăn chặn được sự xâm phạm về sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực văn hóa dân gian,
nhất là khi sự thương mại hóa toàn cầu phát triển nhanh chóng, sự xâm phạm về sở
hữu trí tuệ của các tổ chức, cá nhân người nước ngoài dựa vào những nét văn hóa của
những nước khác đem vào khai thác lợi ích thương mại, thông qua việc khai thác đó
nó sẽ làm giá trị truyền thống suy giảm.
Tuy nhiên, phí này không phải để nhằm bù đắp lại công sức sáng tạo ra tác phẩm
mà phải được dùng để bảo tồn và phát huy các tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian
trong khung cảnh lớn hơn là toàn bộ di sản văn hóa nghệ thuật dân gian của các dân
tộc Việt Nam. Vì thế có thể thấy mức phí trên, chỉ như “lệ phí” điều kiện cho việc sử
dụng các tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian ở trong nước. Không nên xác lập
quyền độc quyền cho phép sử dụng hay không sử dụng tác phẩm văn học nghệ thuật
dân gian tương tự như quyền độc quyền của chủ sở hữu một tác phẩm văn học, nghệ
thuật, khoa học thông thường. Một mặt mức phí này không thể được xác định trên cơ
sở thỏa thuận giữa người chủ sở hữu quyền và người sử dụng như đối với một tác
phẩm thông thường; mặt khác, nó cũng không được quá cao để mọi người dân Việt
Nam cảm thấy phải đắn đo khi sử dụng chính các tác phẩm văn học nghệ thuật dân
gian của mình. Đối với người sử dụng là cá nhân hoặc pháp nhân nước ngoài vì mục
đích thương mại, mức phí có thể khác và mang tính thương mại nhiều hơn ở mức độ
nào đó. Quyền thu phí này do Nhà nước, thông qua một cơ quan có thẩm quyền, là
người đại diện cho chủ sở hữu là cộng đồng theo nghĩa rộng, thực hiện. Từ nguồn thu
này, Nhà nước cần phải lập một quỹ để chi tiêu những khoản thu đó vào mục đích duy
nhất là khuyến khích bảo tồn và phát huy văn hóa, nghệ thuật dân gian của Việt Nam.
4. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian
Pháp luật về sở hữu quyền tác giả không có quy định về thời hạn bảo hộ đối với tác
phẩm văn học nghệ thuật dân gian và xác định tác giả của tác phẩm này cũng rất khó
khăn bởi tính chất cộng đồng của nó. Hơn nữa, nếu bảo hộ tác phẩm văn học nghệ
thuật dân gian như một tác phẩm khuyết danh thì nó chỉ được bảo hộ trong vòng 50
năm, kể từ khi tác phẩm được công bố, điều này không phù hợp với đặc điểm của tác

phẩm văn học nghệ thuật dân gian, luôn được làm mới, bổ sung và phát triển qua từng
thời kì.vì vậy cần xác định thời hạn bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian là vô
thời hạn. (5)
5. Bảo vệ quyền tác giả với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian.

10


Luật sở hữu trí tuệ chưa quy định cụ thể về các hình thức để bảo vệ quyền tác giả
đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian khi có hành vi vi phạm. Đối với loại
hình VHNTDG đặc biệt nên cần phải có cơ chế bảo hộ đặc biệt riêng không giống như
loại hình cụ thể khác. Vậy nên cần phải đăt ra những quy tắc chung, đảm bảo được
tính nguyên gốc, toàn vẹn, vừa phát huy được sự tự do sáng tạo phát triển trong cộng
đồng. Vấn đề được đề cập trước hết là tính toàn vẹn, giá trị đích thực của sản phẩm
VHNTDG luôn được bảo đảm, nghiêm cấm việc cắt xén xuyên tạc tác phẩm gây
phương hại đến giá trị đích thực của tác phẩm trong mọi trường hợp dưới mọi hình
thức thể hiện. Những hành vi đó đều là hành vi gây phương hại? Theo WIPO có 2 loại
hành vi chủ yếu mà các hình thức thể hiện dân gian cần được bao hộ chống lại
chúng: khai thác bất hợp pháp và các hành vi gây tốn hại khác.
Khai thác bất hợp pháp: là bất kỳ việc sử dụng nào được thực hiện nhằm mục
đích thu lợi, ngoài phạm vi truyền thống hay tập quán và không được sự đồng ý của cơ
quan có thẩm quyền hoặc cộng đồng liên quan tới nó. Nghĩa là, việc sử dụng - kể cả
nhằm mục đích thu lợi - trong phạm vi truyền thống hoặc tập quán thì cũng không phải
là đối tượng được phép.
Các hành vi gây tổn hại khác, có hại cho các lợi ích liên quan tới việc sử dụng
các hình thức thể hiện dân gian, và tùy theo mức độ lỗi và hậu quả thiệt hại mà bị chế
tài hành chính hay hình sự.
Tuy nhiên cũng cần xác định thế nào là hành vi hợp pháp. Sử dụng được phép:
Quy định này cho phép bất kỳ thành viên nào trong cộng đồng được tự do nhân bản
hoặc trình diễn các hình thức thể hiện dân gian của cộng đồng mình trong phạm vi

truyền thống và tập quán của họ, bất kể họ làm việc đó nhằm hoặc không nhằm mục
đích thu lợi, thậm chí được thực hiện bằng phương tiện công nghệ hiện đại nếu công
nghệ đó được cộng đồng chấp nhận như một trong các phương tiện dẫn tới sự phát
triển của nền văn hóa dân gian sống động của họ.
Ngoài ra, cần phải loại trừ các trường hợp ngọai lệ đặc biệt mà không cần xin
phép, kể cả khi việc khai thác hình thức thể hiện dân gian được thực hiện để lấy tiền
và ngoài phạm vi truyền thống hay tập quán. Các trường hợp ngoại lệ đó là:
- Sử dụng hoặc khai thác nhằm mục đích giáo dục, nghiên cứu.
- Sử dụng bằng cách minh họa, dẫn chiếu trong bất kỳ tác phẩm gốc nào của một
tác giả, với điều kiện việc sử dụng đó thích hợp với thực tiễn hợp lý.

11


- Khi hình thức thể hiện dân gian được "vay mượn" để sáng tạo nên tác phẩm
gốc của một tác giả. Điều này cho phép phát triển tự do khả năng sáng tạo cá nhân lấy
cảm hứng từ dân gian.
- "Sử dụng ngẫu nhiên", đặc biệt bao gồm việc sử dụng để làm báo cáo về các sự
kiện hiện tại và sử dụng các hình ảnh nơi hình thức thể hiện dân gian được đặt cố định
tại một địa điểm công cộng.
Như một nguyên tắc, Việc không tuân thủ yêu cầu chỉ dẫn về nguồn sẽ bị xử
phạt. Việc sử dụng không xin phép đối với các hình thức thể hiện dân gian khi việc xin
phép là bắt buộc cũng cấu thành hành vi xâm phạm. Việc sử dụng nhằm mục đích
công "làm méo mó" hình thức thể hiện dân gian, với bất kỳ cách thức trực tiếp hay
gián tiếp nào gây tổn hại tới các lợi ích văn hoá của "cộng đồng liên quan", đều là
hành vi xâm phạm…vì vậy cần có một cơ quan nhà nước đứng ra bảo vệ quyền tác giả
đối với các tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian. Sau đây là một số ý kiến:
Việc cấp phép sử dụng và cơ chế giám sát:
Một vấn đề được đặt ra là ai có thẩm quyền cấp? Theo quy định của WIPO thì
đưa ra hai chủ thể đó là "cơ quan có thẩm quyền" và "cộng đồng có liên quan".. Cộng

đồng cấp phép cho người sử dụng theo cách tương tự như các tác giả cấp phép. Ở các
nước khác, nơi di sản VHNTDG của cộng đồng về cơ bản được xem như một phần
của di sản văn hóa dân tộc, hoặc nơi mà các cộng đồng liên quan không thể tự quản lý
một cách có hiệu quả việc sử dụng các hình thức thể hiện dân gian của mình, thì "các
cơ quan có thẩm quyền" có thể được chỉ định để tiến hành cấp phép dưới hình thức
các quyết định theo luật công. Ở Việt Nam di sản VHNTDG được xem là nột tài sản
quốc gia, là một phần của di sản văn hóa dân tộc được thể hiện rất phong phú và đa
dạng trải rộng trên khắp 54 dân tộc thế nhưng gần như chưa có cơ quan nào đươc
thành lập để thực hiện việc này.
Vì vậy cần phải có một cơ quan nhà nước đủ lớn, đủ mạnh đủ khả năng đứng ra
tổ chức thực hiện và chịu trách nhiệm về vấn đề này. Cơ quan này phải có sự phối hợp
chặt chẽ với "cộng đồng có liên quan" được tổ chức thành hệ thống từ Trumg Ương
đến cơ sở (có thể tương ứng với đơn vị hành chính từ cấp bộ đến thôn bản) chịu trách
nhiệm hệ thống hóa di sản VHDG, rà soát, kiểm tra giám sát, cấp phép sử dụng và thu
phí. Vì "một tác giả hoặc cộng đồng không thể tự mình biết được mọi chuyện đang
diễn ra trên cả nước, còn nếu đem ra kiện tụng thì rất tốn kém". Cơ quan giám sát có
thẩm quyền có thể là Bộ Văn hóa.

12


Khi không có cơ quan thẩm quyền được chỉ định và cả hai việc cấp phép và thu
lệ phí đều được thực hiện bởi cộng đồng, thì đương nhiên, việc sử dụng lệ phí thu
được phải được quyết định bởi cộng đồng. Nhà nước cần đảm bảo có sự chia sẻ lợi
nhuận bằng cách đánh thuế hoặc đưa ra các biện pháp thích hợp khác.
Hình thức chế tài:
Tùy theo mức độ vi phạm, phạm vi, hậu quả của những hành vi vi phạm gây ra mà bị
xử lỳ hành chính hoặc có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. (6)
KẾT LUẬN
Bảo hộ SHTT đối với các giá trị truyền thống không chỉ là việc ghi nhận các

quyền được bảo hộ, công nhận những thành quả trí tuệ của người sáng tạo mà còn
mang lại lợi ích cho toàn xã hội trong việc tiếp cận những thành quả sáng tạo, là cơ sở
thúc đẩy hoạt động tái đầu tư cho nghiên cứu, triển khai trong mọi lĩnh vực khoa học
kỹ thuật, văn học và nghệ thuật của cả cộng đồng và tạo lập môi trường kinh doanh,
canh tranh lành mạnh, trung thực, thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Pháp luật cần phải đặt ra một hệ thống hành lang pháp lý đủ an toàn để bảo tồn
duy trì được nền di sản VHNTDG nói riêng và xa hơn nữa là cả nền tri thức truyền
thống dân tộc nói chung, nhưng đồng thời nó không phải là rào cản cho sự sáng tạo
phát triển được lấy cảm hửng từ nền di sản VHNTDG bất tận, cho sự truyền bá lan
tỏa,và đồng thời đảm bảo sự chia sẽ hài hòa lợi ích từ đó mang lại./.

MỤC LỤC

13


LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
Ngoài ra nghị định 100/2006/NĐ-Cp có quy định chi tiết về việc sử dingj tác phẩm văn học nghệ thuật
dân gian: “Điều 20. Sử dụng tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian:.....................................................8

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1), (2) (4) Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian theo
pháp luật Việt Nam- một số bất cập về lí luận và giải pháp, ThS. Vũ Thị Phương Lan,

Tạp chí Luật học số 11/2006
(3), (5) Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian : Khoá
luận tốt nghiệp / Vũ Thị Như Hằng ; Người hướng dẫn: TS. Vũ Thị Hải Yến . - Hà
Nội, 2012
(6) />1. Trường Đại học Luật Hà Nội, giáo trình Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, NXB
Công an nhân dân.


14


2. Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian theo pháp
luật Việt Nam- một số bất cập về lí luận và giải pháp, ThS. Vũ Thị Phương

Lan, Tạp chí Luật học số 11/2006
3. Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian : Khoá
luận tốt nghiệp / Vũ Thị Như Hằng ; Người hướng dẫn: TS. Vũ Thị Hải Yến .
- Hà Nội, 2012
4. Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005.
5. />6. />option=com_content&view=article&id=971&catid=53&Itemid=104

15



×