Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Thiết kế câu hỏi trắc nghiệm khách quan theo định hướng phát triển năng lực phần lịch sử việt nam 1945 1954 (lớp 12 THPT chương trình chuẩn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.47 KB, 60 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NAM ĐỊNH
TRƯỜNG THPT .................................
---------000---------

BÁO CÁO SÁNG KIẾN
THIẾT KẾ CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN
THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM 1945 -1954
(Lớp 12 THPT – Chương trình chuẩn)

Tác giả

:

Nơi công tác: Trường THPT .................................

Nam Định, tháng 5 năm 2017


1.Tên sáng kiến:
“Thiết kế câu hỏi trắc nghiệm khách quan theo định hướng phát triển năng
lực phần Lịch sử Việt Nam 1945-1954 (lớp 12 THPT – Chương trình chuẩn)”.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Lịch sử
3. Thời gian áp dụng sáng kiến:
Từ ngày 16 tháng 8 năm 2017 đến ngày 18 tháng 5 năm 2017
4. Tác giả:
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
6. Mã Sáng kiến: SK18

1



BÁO CÁO SÁNG KIẾN
I.

Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến:
Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình

giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ
chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận
dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất định phải thực
hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối "truyền thụ một
chiều" sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình
thành năng lực và phẩm chất; đồng thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo
dục từ nặng về kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến
thức giải quyết vấn đề, coi trọng cả kiểm tra đánh giá kết quả học tập với kiểm
tra đánh giá trong quá trình học tập để có thể tác động kịp thời nhằm nâng cao
chất lượng của các hoạt động dạy học và giáo dục. Chương trình giáo dục theo
định hướng phát triển năng lực này được chú ý nhiều từ những năm 90 của thế
kỉ XX và ngày nay đã trở thành xu hướng giáo dục quốc tế trong cải cách giáo
dục ở các trường phổ thông.
Nắm bắt xu hướng này, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ
phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền
thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ,
khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ
năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình
thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa
học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và
học”. Như vậy, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khẳng định đổi mới giáo dục

không chỉ là “quốc sách hàng đầu”, là “chìa khóa mở ra con đường đưa đất nước
tiến lên phía trước” mà còn là “mệnh lệnh” của cuộc sống.
Trước yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay, “Đổi
2


mới kiểm tra đánh giá được xác định là khâu đột phá trong đổi mới giáo dục”. Đặc
biệt, ngày 28/9/2016, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có Công văn số 4818/BGDĐTKTCLGD quy định về phương án tổ chức thi THPT Quốc gia năm 2017. Theo đó,
môn lịch sử sẽ thi theo hình thức trắc nghiệm khách quan theo nhóm bài thi môn xã
hội. Như vậy, từ năm học 2016 - 2017, Bộ Giáo dục chuyển từ hình thức thi tự luận
sang thi trắc nghiệm khách quan nên việc đổi mới, điều chỉnh phương pháp dạy
học, ôn tập và kiểm tra đánh giá theo hình thức trắc nghiệm khách quan là hết sức
cần thiết.
Lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến 1954, lớp 12 THPT giữ một vị trí quan
trọng trong tiến trình phát triển của dân tộc. Đó là lịch sử của cuộc đấu tranh
kiên cường của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng để giữ vững nền độc lập.
Đó là lịch sử của nghệ thuật giành, xây dựng và bảo vệ chính quyền dân chủ
nhân dân của Đảng ta, là lịch sử của công cuộc kháng chiến và kiến quốc...
Chặng đường lịch sử đó đã in đậm bao chiến công oanh liệt của dân tộc cũng
như đã để lại biết bao bài học quý báu cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
Quốc hiện nay.
Xuất phát từ yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra,
đánh giá theo định hướng phát triển năng lực theo hình thi trắc nghiệm khách
quan, từ thực tiễn giảng dạy ở trường THPT, chúng tôi đã nghiên cứu và lựa
chọn đề tài “Thiết kế câu hỏi trắc nghiệm khách quan theo định hướng phát
triển năng lực phần Lịch sử Việt Nam 1945 – 1954 (lớp 12 THPT - chương
trình chuẩn) ” làm báo cáo sáng kiến.
II. Mô tả giải pháp:
1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
Thực trạng dạy học lịch sử ở trường THPT hiện nay đang tồn tại nhiều

vấn đề có những mặt tích cực và cũng có những mặt tiêu cực.
Về phía giáo viên, về cơ bản giáo viên giảng dạy môn lịch sử ở trường
THPT đều có kiến thức chuyên môn đạt chuẩn, nhận thức đúng đắn về vai trò
3


của bộ môn trong trường THPT, đã có xu hướng đổi mới phương pháp dạy học
sao cho thu hút hấp dẫn và thực tế hơn. Các cấp quản lý có quan tâm và chỉ đạo
thường xuyên việc dạy và học bộ môn. Học sinh học bộ môn lịch sử đã có phần
yêu thích hơn, hứng thú hơn và có kết quả học tập tốt hơn. Chương trình học tập
phù hợp, sách giáo khoa được biên soạn tương đối quy củ có hệ thống, hình ảnh
đẹp hơn in ấn sinh động hơn. Việc Lịch sử trở thành môn thi chính thức trong kì
thi THPT quốc gia năm 2017 đã tạo chuyển biến tich cực trong dạy và học để
thích ứng với yêu cầu đánh giá của kì thi này.
Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề hạn chế như việc dạy học lịch sử vẫn
hướng tới việc cung cấp các sự kiện lịch sử có sẵn trong sách giáo khoa, bài
giảng của giáo viên chủ yếu hướng tới việc giúp học sinh ghi nhớ kiến thức mà
chưa chú ý tới phát triển tư duy, năng lực cho học sinh. Việc đổi mới phương
pháp dạy học tuy được đặt ra, được quan tâm, giáo viên nhận thức được tầm
quan trọng nhưng tiến hành lại chưa được thực sự hiệu quả. Học sinh chưa thực
sự hứng thú đối với môn học, kết quả thi môn lịch sử thi THPT quốc gia vẫn
còn thấp so với các môn khác ... Trong thực tế cuộc sống, học sinh ít hiểu biết về
lịch sử dân tộc, lịch sử địa phương dẫn tới thái độ, nhận thức chưa đúng đắn, dễ
bị lung lay bởi các tác động từ bên ngoài.
Nguyên nhân dẫn đến thực trạng này thì rất nhiều. Song với tư cách của
người dạy học, chúng ta cần nhìn nhận một cách thẳng thắn và nghiêm túc vào
những nguyên nhân chủ quan xuất phát từ phía người dạy như chậm đổi mới
phương pháp dạy học. Nhiều giáo viên vẫn chọn phương pháp thuyết trình, tư
duy dạy học theo lối cũ, lấy người dạy làm trung tâm truyền đạt kiến thức một
chiều, sơ cứng. Môn học lịch sử vốn là một môn học hấp dẫn vì nó chính là thực

tế đời sống. nhưng đã bị kinh viện hóa, biến thành một môn học với các con số,
sự kiện “chết cứng”. Chính những điều này đã khiến việc giảng dạy môn học trở
nên kém hiểu quả. Giáo viên đôi khi quá chú tâm tới việc truyền đạt kiến thức
mà quên đi nhiệm vụ bồi đắp những nhận thức, tình cảm đúng đắn cho cho học
sinh trước quá khứ, hiện tai và tương lai.
4


Ngoài ra cũng có những nguyên nhân khách quan như những quan niệm
chưa đúng về bộ môn từ các cấp quản lý, từ xã hội, tới cha mẹ học sinh và cả
học sinh coi đây là một môn phụ, ít tính ứng dụng vào đời sống và gắn liền việc
học tập với mục đích thi cử nên không coi trọng bộ môn. Từ đó dẫn tới thái độ
dạy và học chưa phù hợp hạn chế phần nào việc tiếp thu, tìm hiểu các kiến thức
bộ môn cũng như lòng yêu thích say mê đối với môn học. Cũng không thể
không nhắc tới nền kinh tế thị trường, xã hội phát triển với nhiều mặt tác động
không nhỏ tới tâm lý của giáo viên và học sinh từ đó không còn coi trọng môn
lịch sử một cách đúng mức.
Tiếp theo, có thể kể tới khung chương trình còn nặng nề nội dung kiến
thức nhiều mà thời gian dạy và học lại ít khiến giáo viên đổi khi chưa dám mạnh
dạn đổi mới, sử dụng phương pháp truyền thống cho an toàn, cho đảm bảo tiến
độ chương trình. Cơ sở vật chất cũng chưa đảm bảo cho việc tiến hành dạy học
môn lịch sử một cách thuận tiện và sinh động hơn.
Riêng về vấn đề xây dựng bài tập lịch sử tự luận hay trắc nghiệm khách
theo hướng phát triển năng lực người học, đại đa số thầy, cô dạy lịch sử ở các
trường THPT đều thấy được tầm quan trọng của việc sử dụng bài tập lịch sử
trong quá trình giảng dạy do đó các thầy, cô đã thiết kế và sử dụng bài tập trong
dạy học. Tuy nhiên, do gặp phải nhiều khó khăn như chương trình quy định số
giờ làm bài tập ít, lượng kiến thức trên lớp nhiều không đủ để học sinh có thời
gian làm bài tập... do vậy mà mức độ sử dụng bài tập của thầy, cô còn hạn chế,
lượng bài tập chưa phù hợp, mức độ bài tập chưa đáp ứng đúng mục tiêu bài

dạy, các bài tập chưa phong phú đa dạng bám sát năng lực học sinh.
Mặt khác mục đích sử dụng bài tập của thầy, cô chủ yếu là dùng để củng
cố bài học hoặc kiểm tra. Việc sử dụng bài tập để dạy kiến thức mới, để phát
triển các năng lực cho học sinh chưa được chú trọng.
Về phía học sinh, học sinh ở các trường THPT đều thích được làm bài tập
lịch sử, các em đều có nhận thức đúng về vai trò của bài tập trong quá trình học
5


lịch sử. Bài tập mà các em thích được sử dụng chủ yếu là bài tập trắc nghiệm và
bài tập nhận thức. Tuy nhiên kĩ năng làm bài của các em còn kém, chưa đầu tư
nhiều công sức và thời gian cho bài tập. Nhiều học sinh còn khó khăn, lúng túng
khi giải quyết bài tập nhất là các bài tập thực hành bộ môn như vẽ biểu đồ, bản
đồ, sơ đồ... Nhận thức của các em về việc làm bài tập để phát triển các năng lực
chưa được rõ ràng, đầy đủ.
Thi Lịch sử bằng hình thức trắc nghiệm với ưu điểm là sự khách quan, có
thể kiểm tra chất lượng giáo dục bằng con số cụ thể, không dựa vào cảm tính
của giáo viên chấm bài thi. Với hình thức thi này, học sinh không phải thuộc
lòng quá nhiều. Thay vào đó, các em cần đọc sách nhiều, hiểu bài và có khả
năng tổng hợp, đánh giá, biết kết nối các vấn đề, suy luận để lựa chọn đáp án là
có thể hoàn thiện bài thi. Tuy nhiên, một thực tế phổ biến hiện nay là học sinh
THPT không dành thời gian đọc và nghiên cứu kĩ nội dung bài học trong sách
giáo khoa và các nguồn TLTK, nên không nám vững kiến thức cơ bản và hiểu
bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử, mà luôn trông chờ, ỷ lại vào nguồn tài
liệu và ngân hàng câu hỏi, đề thi và đáp án có sẵn. Phần lớn học sinh rất hạn chế
các kiến thức nền xã hội bên ngoài sách vở; Thêm vào đó là tình trạng lúng túng
bị động với những câu yêu cầu suy luận, phân tích mà đáp án khá giống nhau.
Với các nguyên nhân như vậy thì kết quả học tập và giảng dạy môn lịch
sử chưa đạt yêu cầu là điều hoàn toàn có thể lí giải được. Từ đó, càng đặt ra vấn
đề : mỗi người dạy cần thay đổi một cách tích cực, hướng tới việc nâng cao chất

lượng giảng dạy, đồng thời giúp học sinh phát huy những năng lực của bản thân
ứng dụng vào thực tế hoạt động xã hội sau này.
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến:
2.1. Những vấn đề chung về kiểm tra, đánh giá bằng câu hỏi trắc nghiệm
khách quan theo định hướng phát triển năng lực
2.1.1 Khái niệm “Trắc nghiệm khách quan”

6


“Trắc nghiệm”, trong Tiếng Anh viết là “test” nghĩa là “kiểm tra”. Còn
theo chữ Hán thì “trắc” nghĩa là “đo lường”, “nghiệm” là “suy xét”, từ đó suy ra
“trắc nghiệm” có nghĩa là “kiểm tra”.
“Khách quan”, trong Tiếng Anh viết là “objective”. Còn theo chữ Hán thì
“khách quan” nghĩa là “không phụ thuộc vào yếu tố chủ quan”.
Như vậy, trắc nghiệm khách quan đối với môn Lịch sử là phương pháp
kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh bằng hệ thống câu hỏi có nội
dung trong môn học Lịch sử mà đáp án của chúng mang tính chất khách quan,
không phụ thuộc hoặc ít phụ thuộc vào ý thức của người kiểm tra.
2.1.2. Tầm quan trọng của việc ứng dụng câu hỏi trắc nghiệm khách quan
trong kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát triển năng lực
Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường nói chung và bậc
trung học phổ thông nói riêng, hiện nay vấn đề đổi mới phương pháp dạy học
trong giáo dục không còn là mối quan tâm của cá nhân nào mà đây là vấn đề
chung của toàn xã hội.
Hơn nữa, theo chủ trương đổi mới kiểm tra đánh giá của Bộ Giáo dục và
Đào tạo trong kì thi THPT quốc gia, năm học 2016-2017, đã áp dụng hình thức
thi trắc nghiệm khách quan. Như thế, việc tiếp cận phương pháp trắc nghiệm
khách quan đang trở thành một vấn đề cấp bách trong hoạt động dạy và học ở
các trường THPT nước ta hiện nay.

Khi áp dụng phương pháp kiểm tra trắc nghiệm thì chúng tôi nhận thấy rằng:
- Đối với giáo viên: sẽ mang lại những thông tin liên hệ, nhằm giúp giáo
viên tự điều chỉnh hoạt động dạy, đồng thời không chỉ nắm được trình độ chung
của cả lớp mà còn biết được những học sinh nào có sự tiến bộ rõ rệt hoặc sút
kém để động viên, giúp đỡ kịp thời.
- Đối với học sinh: học sinh thì tự đánh giá một cách khách quan mức độ
tiếp thu kiến thức của bản thân từ việc nắm vững kiến thức cơ bản, hiểu và lí
giải được bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử đến việc vận dụng, lên hệ kiến
thức đã học vào thực tế cuộc sống, qua đó các em sẽ xác định được động cơ, thái
độ học tập đúng đắn, tạo hứng thú, nghị lực và niềm tin, ý thức phấn đấu vươn
lên trong học tập. Việc thi trắc nghiệm khách quan sẽ hạn chế được tình trạng
quay cóp, trao đổi và đảm bảo tính nghiêm túc, khách quan, công bằng.
7


Còn không ít học sinh học theo kiểu học “vẹt”, hoặc không cần chuẩn bị
bài, chỉ chọn đại một đáp án mang tính chất “hên, xui” không cần đọc kĩ yêu cầu
của đề bài, hoặc chọn đáp án theo bạn mà lại không trùng mã đề nên dẫn đến
điểm số rất thấp.
2.1.3. Quy trình, kĩ thuật xây dựng ma trận và biên soạn câu hỏi trắc
nghiệm khách quan
2.1.3.1. Các loại câu hỏi trắc nghiệm khách quan trong kiểm tra,
đánh giá môn lịch sử
Câu hỏi trắc nghiệm khách quan có nhiều dạng, như:
- Câu hỏi đúng/sai
- Câu hỏi điền khuyết/điền thế
- Câu hỏi ghép đôi
- Câu hỏi phân loại
- Câu hỏi làm việc với đồ dùng trực quan
- Câu hỏi nhiều lựa chọn (Multiple Choice Questions - MCQ)

Do có nhiều dạng câu hỏi trắc nghiệm khách quan nên khi ra đề trắc
nghiệm cần chú ý sao cho phù hợp với nhu cầu, mục tiêu kiểm tra, các loại bài
kiểm tra (thường xuyên hay định kỳ), cách chấm (bằng thủ công hoặc bằng máy) …
Ví dụ 1: Theo cách chấm
- Khi chấm điểm thủ công (bằng tay), ta thường ra đề gồm những câu
hỏi trắc nghiệm khách quan với nhiều dạng khác nhau, do ta nhận dạng được
chúng.
- Khi chấm điểm bằng máy, ta chỉ ra đề gồm những câu hỏi trắc nghiệm
khách quan có nhiều lựa chọn hoặc theo kiểu “A. Đúng B. Sai”, do máy không
nhận dạng được các dạng câu hỏi khác.
Ví dụ 2: Theo loại bài kiểm tra - Đối với loại bài kiểm tra thường xuyên
(chủ yếu là bài kiểm tra 15 phút), ta thường ra đề với nhiều dạng câu hỏi trắc
nghiệm khác nhau. Do số câu hỏi khiêm tốn nên ra đề theo cách này cũng sẽ
không mất bao nhiêu thời gian chấm điểm nhưng vẫn bảo đảm tính phong phú
và mục tiêu kiểm tra, đánh giá học lực của học sinh.
- Đối với loại bài kiểm tra định kỳ (chủ yếu là 1 tiết hoặc kiểm tra học
kỳ), ta chỉ nên ra đề gồm những câu hỏi trắc nghiệm khách quan có nhiều lựa
chọn kiểu “A – B – C – D” mà vẫn bảo đảm được chất lượng trong kiểm tra,
đánh giá năng lực người học. Do số câu hỏi nhiều nếu sử dụng nhiều dạng câu
hỏi sẽ rất mất thời gian ra đề lẫn chấm điểm bài kiểm tra của học sinh.
8


2.1.3.2. Những yêu cầu, nguyên tắc khi thiết kế câu hỏi trắc nghiệm
khách quan
Câu hỏi TNKQ nhiều lựa chọn Lịch sử thường gồm 2 phần:
Phần 1: Câu dẫn nhằm nêu ra vấn đề, cung cấp thông tin cần thiết giúp
HS hiểu rõ câu hỏi cần phải trả lời, yêu cầu cần thực hiện, vấn đề cần giải quyết
Phần 2: Các phương án để HS lựa chọn (trong đó chỉ có 1 phương án
đúng hoặc đúng nhất, còn lại là các phương án gây nhiễu

1.Cần xác định đúng mục tiêu của việc kiểm tra, đánh giá để từ đó xây
dựng câu hỏi cho phù hợp.
2. Nội dung phần dẫn cần rõ ràng, đơn giản, ngắn gọn, tường minh, để
HS chỉ hiểu theo 1 cách. Từ đã dùng trong phần dẫn không nên dùng lại ở bất kì
phương án lựa chọn nào nữa.
3. Phần dẫn và phần phương án tránh những chi tiết phức tạp, không cần
thiết, vừa sức, phù hợp với trình độ HS.
4. Khi soạn các phương án, không được để lộ rõ ý chính của câu trả lời
để HS có thể dễ dàng đoán nhận ngay qua cách dùng từ. Số phương án lựa chọn
càng nhiều thì khả năng đoán đúng càng nhỏ.
5. Các phương án nhiễu phải có vẻ hợp lý như phương án đúng cả về hình
thức và nội dung.
6. Câu hỏi không được sai sót về nội dung chuyên môn, nằm trong nội
dung kiến thức Lịch sử HS được học (chú ý không nằm trong phần giảm tải).
7. Câu hỏi cần khai thác tối đa việc vận dụng các kiến thức để giải quyết
các tình huống thực tế trong cuộc sống.
8. Các ký hiệu, thuật ngữ sử dụng trong câu hỏi phải thống nhất.
2.1.3.3. Cách thức xây dựng câu hỏi TNKQ nhiều lựa chọn.
* Câu dẫn là một câu hỏi thì phải có từ để hỏi. Các phương án trả lời là
một câu độc lập nên được viết hoa ở đầu câu và có dấu chấm ở cuối câu.
Ví dụ:
Sự kiện nào đánh dấu giai cấp công nhân Việt Nam bước đầu chuyển từ
đấu tranh “tự phát” sang đấu tranh “tự giác”?
A. Cuộc bãi công của công nhân Ba Son (8 - 1925).
B. Phong trào “vô sản hóa” (1928).
C. Cuộc bãi công ở đồn điền cao su Phú Riềng (1929).
D. Cuộc bãi công ở nhà máy xi măng Hải Phòng (1928).

9



* Câu dẫn là một mệnh đề chưa hoàn chỉnh (câu bỏ lửng) thì phải nối liền
với các phương án trả lời để trở thành câu hoàn chỉnh. Đầu câu không viết hoa
(trừ tên riêng, tên địa danh) và có dấu chấm ở cuối câu.
Ví dụ: Biến đổi lớn nhất của các nước Đông Nam Á từ sau Chiến tranh
thế giới thứ hai là
A. trở thành các quốc gia độc lập.
B. trở thành khu vực năng động và phát triển.
C. trở thành khu vực hòa bình, hợp tác, hữu nghị.
D. thành lập tổ chức ASEAN, đẩy mạnh hợp tác trong khu vực.
* Câu dẫn là câu phủ định: phải in đậm từ phủ định để HS xác định đúng
câu trả lời.
Ví dụ: Nội dung nào sau đây không nằm trong quyết định của Hội
nghị Ianta?
A. Hợp tác giữa các nước nhằm khôi phục lại đất nước sau chiến tranh.
B. Thành lập tổ chức Liên hợp quốc nhằm duy trì hòa bình và an ninh thế giới.
C. Thống nhất mục tiêu chung là tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít Đức
và chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản.
D. Thỏa thuận về việc đóng quân giữa các nước nhằm giải giáp quân đội
phát xít, phân chia phạm vi ảnh hưởng ở châu Âu và châu Á.
* Sử dụng đoạn tư liệu để xây dựng câu hỏi TNKQ: chọn một câu trả lời
đúng nhất điền vào một chỗ trống hoặc nhiều hơn một chỗ trống để thiện đoạn
tư liệu.
Ví dụ:
Chọn một câu trả lời đúng điền vào chỗ trống để hoàn thiện đoạn tư liệu
nói về nội dung của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (2/1951) của Đảng
Cộng sản Đông Dương :
“Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị,…(a)…
được bầu làm …(b)…;…(c)… được bầu lại làm …(d)…”
(Lịch sử 12, Phan Ngọc Liên (Tổng chủ biên), NXB Giáo dục, 2008,

A. a-Hồ Chí Minh, b-Chủ tịch Đảng, c-Lê Duẩn, d-Tổng Bí thư.
B. a-Hồ Chí Minh, b-Tổng Bí thư, c-Trường Chinh, d-Chủ tịch Đảng.
C. a-Hồ Chí Minh, b-Chủ tịch Đảng, c-Trường Chinh, d-Tổng Bí thư.
D. a-Hồ Chí Minh, b-Chủ tịch nước, c-Trường Chinh, d-Tổng Bí thư.
* Câu điền khuyết (điền thế): chọn một câu trả lời đúng nhất điền vào chỗ
trống cho hợp lý.
Ví dụ:

10


Nguồn lực chi viện cùng với thắng lợi của quân dân miền Bắc trong
những năm 1965 - 1968 đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của quân dân
miền Nam trong cuộc chiến đấu chống chiến lược……của Mĩ - ngụy.
A. “Chiến tranh đơn phương”.
B. “Chiến tranh đặc biệt”.
C. “Chiến tranh cục bộ”.
D. “Việt Nam hóa chiến tranh”.
* Câu ghép đôi: chọn một đáp án đúng trên cơ sở ghép các mệnh đề cho sẵn.
Ví dụ:
I (Thời gian)

II (Sự kiện)

1. Năm 1950

a. Đại hội chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ I.

2. Năm 1951


b. Hiệp định phòng thủ chung Đông Dương.

3. Năm 1952

c. Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng.

Hãy lựa chọn một đáp án đúng về mối quan hệ giữa thời gian ở cột I với
sự kiện ở cột II.
A. 1-a, 2-d, 3-b
B. 1-b, 2-c, 3-a
C. 1-c, 2-d, 3-b
D. 1-d, 2-b, 3-c
* Câu sử dụng tranh ảnh:
Ví dụ: Bức tranh dưới đây phản ánh sự kiện nào của lịch sử Việt Nam?

A. Đấu tranh trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930 - 1931).
B. Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (9/1940).
C. Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (11/1940).
D. Phong trào “Phá kho thóc của Nhật, giải quyết nạn đói” (3/1945).
2.1.3.4. Các mức độ nhận thức trong câu hỏi TNKQ nhiều lựa chọn.
Mô tả 4 mức độ yêu cầu của câu hỏi
1. Nhận biết: nhắc lại hoặc mô tả đúng kiến thức, kĩ năng đã học.
2. Thông hiểu: diễn đạt đúng kiến thức hoặc mô tả đúng kĩ năng đã học
bằng ngôn ngữ theo cách của riêng mình, có thể thêm các hoạt động phân tích,
11


giải thích, so sánh, áp dụng trực tiếp (làm theo mẫu) kiến thức, kĩ năng đã biết
để giải quyết các tình huống, vấn đề trong học tập.
3. Vận dụng: kết nối và sắp xếp lại các kiến thức, kĩ năng đã học để giải

quyết thành công tình huống, vấn đề tương tự tình huống, vấn đề đã học.
4. Vận dụng cao: vận dụng được các kiến thức, kĩ năng để giải quyết
các tình huống, vấn đề mới, không giống với những tình huống, vấn đề đã được
hướng dẫn; đưa ra những phản hồi hợp lí trước một tình huống, vấn đề mới
trong học tập hoặc trong cuộc sống.
a. Câu hỏi mức độ nhận biết:
- Chỉ yêu cầu HS sử dụng những thao tác tư duy đơn giản: khả năng
nhận biết, tái hiện, ghi nhớ nội dung kiến thức lịch sử của HS.
- Tương đương cách hỏi thông thường trong đề thi tự luận với các từ để
hỏi là: nêu, trình bày, tóm tắt, liệt kê…
Ví dụ: Một trong những mục đích của tổ chức Liên hợp quốc là
A. ngăn chặn và đẩy lùi các hoạt động gây chiến tranh.
B. thúc đẩy quan hệ thương mại quốc tế.
C. duy trì hòa bình và an ninh thế giới.
D. ngăn chặn sự đe dọa an ninh quốc tế.
b. Câu hỏi mức độ thông hiểu:
- Yêu cầu HS sử dụng những thao tác tư duy tương đối đơn giản không
quá phức tạp, trừu tượng như: lí giải, giải thích các nội dung kiến thức lịch sử cơ bản.
- Tương đương cách hỏi thông thường trong đề thi tự luận có từ để hỏi
là: giải thích, lý giải, như thế nào, tại sao, vì sao…
Ví dụ: Trật tự thế giới hai cực Ianta được hình thành trên cơ sở nào?
A. Những quyết định của Hội nghị Ianta.
B. Những thoả thuận sau Hội nghị Ianta của ba cường quốc.
C. Những quyết định của Hội nghị Ianta cùng với những thoả thuận sau
Hội nghị Ianta của ba cường quốc.
D. Những quyết định của các nước thường trực Hội đồng bảo an Liên
hợp quốc.
c. Câu hỏi ở mức độ vận dụng:
- Yêu cầu HS sử dụng các thao tác tư duy cao hơn mức độ thông hiểu
như: so sánh, phân tích, tổng hợp... nội dung kiến thức lịch sử. Đây là câu hỏi

khó hơn, đòi hỏi học sinh bước đầu phải biết suy luận bằng phân biệt sự giống
và khác nhau, phân tích, tổng hợp hệ thống kiến thức để lựa chọn giữa các
phương án.
- Tương đương cách hỏi thông thường trong đề tự luận có từ để hỏi là:
12


so sánh, phân tích, tổng hợp, lập bảng thống kê so sánh, đối chiếu các nội dung
kiến thức lịch sử.
Ví dụ: Điểm giống nhau của chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” với
các chiến lược chiến tranh trước đó của Mĩ là gì?
A. Tìm cách chia rẽ Việt Nam với các nước XHCN.
B. Gắn “Việt Nam hoá” với “Đông Dương hoá chiến tranh”.
C. Được tiến hành bằng quân đội tay sai là chủ yếu, có sự phối hợp đáng
kể của quân đội Mĩ.
D. Là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân mới ở miền Nam, nằm
trong “Chiến lược toàn cầu” của Mĩ.
d. Câu hỏi ở mức độ vận dụng cao:
- Đây là câu hỏi ở mức độ cao nhất, yêu cầu đánh giá khả năng sáng tạo,
vận dụng kiến thức để đánh giá, nhận xét nội dung kiến thức lịch sử, liên hệ kiến
thức với các vấn đề thực tiễn. Câu hỏi đề cập tới các nội dung kiến thức khá sâu
sắc và đòi hỏi tư duy cao.
- Tương đương cách hỏi thông thường trong đề tự luận có từ để hỏi là
bình luận, nhận xét, đánh giá, liên hệ thực tiễn, rút ra bài học/kinh nghiệm…
Ví dụ: Điểm mới của Hội nghị tháng 5-1941 so với Hội nghị tháng 111939 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương là gì?
A. Thành lập mặt trận thống nhất dân tộc rộng rãi chống đế quốc.
B. Đề cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, chống đế quốc, phong kiến.
C. Giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông Dương.
D. Tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, thực hiện giảm tô, giảm tức.
2.1.3.5. Một số lưu ý khi thiết kế câu hỏi TNKQ nhiều lựa chọn

1. Ý chính để hỏi phải nằm trong câu dẫn (tốt nhất nên để ở đầu câu),
không được đưa vào các đáp án.
2. Phải có chắc chắn một câu trả lời đúng (có thể có phương án đúng
hoặc đúng nhất).
3. Không nên sử dụng xu hướng phương án đúng luôn dài hơn các
phương án còn lại.
4. Những phương án nhiễu tránh quá khác biệt so với phương án đúng.
5. Phương án trả lời không được gợi ý cho nhau, câu sau không là đáp án
của câu trước.
6. Không nên trích dẫn nguyên văn những câu có sẵn trong SGK ở phần
đáp án.
7. Từ ngữ, cấu trúc của câu hỏi phải rõ ràng và dễ hiểu đối với mọi học sinh.
13


8. Mỗi phương án nhiễu phải hợp lý đối với những học sinh không nắm
vững kiến thức.
9. Mỗi phương án sai nên xây dựng dựa trên các lỗi hay nhận thức sai
lệch của học sinh.
10. Đáp án đúng của câu hỏi này phải độc lập với đáp án đúng của các câu
hỏi khác trong bài kiểm tra.
11. Phần lựa chọn phải thống nhất và phù hợp với nội dung của câu dẫn.
12. Không đưa ra phương án “Tất cả các đáp án trên đều đúng” hoặc
“không có phương án nào đúng” hoặc có hai hoặc ba phương án đúng.
13. Các phương trả lời nên có độ dài tương tự nhau. Nếu độ dài khác nhau
thì xếp thứ tự từ ngắn đến dài hoặc ngược lại, khi có các mốc thời gian nên sắp
xếp theo thứ tự thời gian (nhưng phải thống nhất).
14. Xây dựng đáp án đúng trước khi xây dựng các phương án nhiễu.
15. Sự phân biệt các mức độ nhận thức trong câu hỏi chỉ mang tính tương
đối, đôi khi khó tách bạch.

16. Câu hỏi không được vi phạm về đường lối chủ trương, quan điểm
chính trị của Đảng và Nhà nước, xuyên tạc lịch sử.
2.2. Thiết kế câu hỏi trắc nghiệm khách quan theo định hướng phát triển
năng lực phần lịch sử Việt Nam 1945 – 1954
2.2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung cơ bản của lịch sử Việt Nam từ năm 1945
đến năm 1954
2.2.1.1. Vị trí
Trong chương trình SGK Lịch sử lớp 12 THPT, Lịch sử Việt Nam từ năm
1945 đến năm 1954 thuộc chương III, phần hai: Lịch sử Việt Nam từ năm 1919
đến năm 2000, được phản ánh trong 4 bài (từ bài 17 đến bài 20). Nó cung cấp
cho HS những hiểu biết cơ bản, hệ thống, toàn diện về các sự kiện của dân tộc từ
sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp
định Giơnevơ về Đông Dương được kí kết (1954), kết thúc cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp.
Lịch sử Việt Nam trong giai đoạn này được tiếp nối bởi chương II: Việt
Nam từ 1930 đến 1945 và trước chương IV: Việt Nam từ 1954 đến 1975. Đây là
chặng đường 9 năm kháng chiến trường kì kháng chiến chống thực dân Pháp và
14


can thiệp Mĩ, bảo vệ nền độc lập dân tộc, xây dựng chính quyền dân chủ nhân
dân và đã giành thắng lợi bằng chiến thắng Điện Biên Phủ và việc kí kết hiệp
định Giơ ne vơ 1954 về lập lại hòa bình ở Đông Dương.
2.2.1.2. Mục tiêu.
*Về kiến thức.
Trong thời kì Lịch sử từ 1945 đến 1954 học sinh cần:
+ Biết được những thuận lợi và khó khăn của nước ta trong hơn năm đầu
sau Cách mạng tháng Tám 1945 đặc biệt là hiểu rõ tình thế “ngàn cân treo sợi
tóc” của cách mạng nước ta trong thời kì này.
+ Hiểu được những biện pháp giải quyết khó khăn trước mắt và chuẩn bị

cho kháng chiến: bước đầu xây dựng chính quyền cách mạng, giải quyết nạn
đói, nạn dốt và khó khăn về tài chính...trong năm đầu sau Cách mạng tháng Tám
1945. Trên cơ sở đó đánh giá được tình hình đất nước hiện nay và đưa ra được
một số biện pháp để giải quyết khó khăn của đất nước hiện nay.
+ Hiểu rõ được sự sáng suốt mềm dẻo về chủ trương và sách lược của
Đảng, Chính phủ và chủ tịch Hồ Chí Minh trong công cuộc chống ngoại xâm,
nội phản, bảo vệ chính quyền cách mạng : chống thực dân Pháp trở lại xâm lược
ở miền Nam. Đấu tranh với Trung Hoa Dân Quốc và bọn phản cách mạng ở
miền Bắc ( từ sau 29-1945 đến 6-3-1946 ). Tiếp đó lại hòa hoãn với Pháp nhằm
đẩy quân Trung Hoa Dân Quốc ra khỏi nước ta (từ 6-3-1946 đến trước 19-12-1946).
+ Hiểu rõ hoàn cảnh dẫn đến việc Đảng, Chính phủ phát động toàn quốc
kháng chiến, chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và
những nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của
Đảng, chính phủ.
+ Biết được những thắng lợi quân sự tiêu biểu của quân dân ta trong
kháng chiến chống Pháp (1946-1954): cuộc chiến đấu anh dũng của quân dân
15


thủ đô Hà Nội và các đô thị Bắc vĩ tuyến 16, chiến thắng Việt Bắc thu đông
1947, chiến dịch Biên Giới thu đông năm 1950, cuộc tiến công chiến lược
Đông- Xuân (1953- 1954) và đặc biệt là chiến thắng đỉnh cao trong chiến dịch
Điện Biên Phủ 1954.
+ Hiểu được những chính sách xây dựng hậu phương và những kết quả
chính đã đạt được trong công cuộc xây dựng hậu phương về mọi mặt (Chính trị,
quân sự, kinh tế, giáo dục). Đánh giá được tác dụng đối với cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp (1946-1954)
+ Hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn của thực dân Pháp và can thiệp Mĩ trong
cuộc chiến tranh Đông Dương thông qua các kế hoạch Rơ ve (1949), Đờ lát đờ
Tátxinhi ( 1950), kế hoạch Na va (1953) cũng như sự thất bại của Pháp - Mĩ

trong các kế hoạch đó.
+ Biết được những nội dung cơ bản của Hiệp định Giơ - ne - vơ về kết
thúc chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương (1954). Đánh giá được mặt tích
cực và hạn chế của Hiệp định, giải thích được nguyên nhân của những hạn chế.
+ Hiểu rõ được ý nghĩa lịch sử và nguyên nhân thắng lợi cuộc kháng
chiến chống Pháp (1945-1954).
*Về kĩ năng
+ Giúp học sinh rèn luyện các kĩ năng của bộ môn như: sử dụng SGK để
tìm tòi kiến thức, phát triển óc quan sát gắn liền với kĩ năng sử dụng tranh ảnh,
bản đồ, sơ đồ, phim tài liệu...
+ Phát triển kĩ năng phân tích, tổng hợp sự kiện, hiện tượng để rút ra bản
chất, kĩ năng đánh giá sự kiện, nhân vật lịch sử.
*Về thái độ
+ Khơi dậy trong học sinh lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, biết ơn,
khâm phục tinh thần chiến đấu anh dũng của cha ông đã xả thân vì nền độc lập
16


dân tộc. Giúp học sinh hiểu rõ giá trị cao quý của độc lập dân tộc từ đó có ý thức
giữ gìn, bảo vệ độc lập.
+ Củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng.
+ Giáo dục học sinh lòng căm thù các thế lực ngoại xâm (Pháp, Mĩ và tay
sai), khâm phục quyết tâm chiến đấu chống ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc,
tinh thần lao động cần cù, sáng tạo xây dựng chính quyền dân chủ của nhân dân
*Về năng lực
Dạy học lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954 cần phát triển cho
học sinh các năng lực sau:
+ Năng lực tự học với SGK, sưu tầm tài liệu, năng lực giải quyết vấn đề,
năng lực ngôn ngữ, tư duy
+ Năng lực trình bày, tái hiện sự kiện lịch sử, năng lực giải thích, phân

tích, đánh giá vấn đề lịch sử, năng lực so sánh, phân tích, nhận xét, đánh giá, vận
dụng liên hệ kiến thức lịch sử đã học để giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra,
đưa ra quan điểm lịch sử, rút ra các bài học lịch sử.
2.2.1.3. Nội dung chủ yếu của lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.
Trong hơn năm đầu sau cách mạng tháng Tám, đất nước gặp muôn vàn
khó khăn, thử thách, những khó khăn chồng chất về giặc đói, giặc dốt, thiếu thốn
về tài chính đặc biệt là sự đe dọa của giặc ngoại xâm- phía Bắc, quân Trung Hoa
Dân quốc kéo vào dưới danh nghĩa đồng minh vào giải pháp quân phát xít Nhật,
phía Nam quân Anh dọn đường cho thực dân Pháp quay lại xâm lược. Tất cả đe
dọa nghiêm trọng đến chính quyền non trẻ mà ta vừa giành được. Tình thế hết
sức hiểm nghèo, khác nào “ngàn cân treo sợi tóc”. Nhân dân ta vừa xây dựng
chính quyền cách mạng, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, giải quyết nạn đói,
nạn dốt và những khó khăn về tài chính, vừa đấu tranh chống ngoại xâm, nội
phản bảo vệ nền độc lập. Với những chính sách đúng đắn, sáng suốt ( vừa cứng
17


rắn về nguyên tắc vừa mềm dẻo về sách lược, biết lợi dụng mâu thuẫn trong
hàng ngũ kẻ thù, không cho chúng tập trung lực lượng để chống ta) Đảng đã tạo
cơ sở thực lực để ta bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Từ cuối năm 1946,
toàn dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp trên phạm vi cả nước.
Cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954) tiến hành trong điều kiện
nước ta đã giành được độc lập và chính quyền, vì vậy vừa kháng chiến vừa kiến
quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta trong thời kỳ này:
+ Trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược, Đảng ta đã đề ra đường
lối kháng chiến: Toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh, tranh thủ sự
ủng hộ của quốc tế. Đường lối kháng chiến trên nhằm phát huy sức mạnh toàn
dân, toàn diện của dân tộc, khắc phục những nhược điểm của ta về vật chất, kĩ
thuật, vừa đánh vừa bồi dưỡng sức ta, làm cho ta càng đánh càng mạnh để cuối
cùng giành thắng lợi hoàn toàn. Đường lối kháng chiến đó đã được thể hiện một

cách rất phong phú sinh động trong thực tiễn kháng chiến của quân và dân ta
trên tất cả mọi mặt hoạt động: quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa... Đường lối
kháng chiến của Đảng là ngọn cờ để đoàn kết toàn Đảng, toàn dân, động viên
cao nhất sức mạnh của toàn dân đánh thắng kẻ thù xâm lược.
+ Trong kháng chiến toàn quốc chống Pháp, quân dân ta đã giành thắng
lợi to lớn trên lĩnh vực quân sự:
Cuộc chiến đấu của quân dân ta ở các đô thị (12-1946 đến 2-1947) đã
đánh bại hoàn toàn âm mưu và kế hoạch của thực dân Pháp nhằm đánh úp cơ
quan đầu não của ta tại Hà Nội, tiêu diệt lực lượng vũ trang của ta ở các thành
thị, có tác dụng giữ chân địch lại, chặn đứng âm mưu “đánh nhanh thắng nhanh”
của thực dân Pháp, tạo điều kiện cho cả nước chuyển vào kháng chiến lâu dài.
Chiến thắng Việt Bắc 1947 đã làm nức lòng quân dân ta trong cả nước,
làm cho uy tín của chính phủ kháng chiến càng được nâng cao. Nó thể hiện sự
trưởng thành của quân đội ta, khẳng định rằng đường lối kháng chiến của ta có
thể đẩy lùi những cuộc tiến công quân sự lớn của địch. Chiến thắng Việt Bắc đã
18


giáng một đòn quyết định vào chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của Pháp,
buộc chúng phải chuyển sang đánh lâu dài với ta, đưa cuộc kháng chiến của ta
chuyển sang giai đoạn mới.
Chiến dịch Biên Giới 1950 là chiến dịch tiến công lớn đầu tiên của ta
trong kháng chiến chống thực dân Pháp giành được thắng lợi. Chiến thắng này
đã đánh dấu sự trưởng thành của quân đội ta về sức chiến đấu, giúp ta giành
được quyền chủ động trên chiến trường chính Bắc Bộ, đẩy địch ngày càng lún
sâu vào thế bị động đối phó.
Trước sự sa lầy và thất bại của quân Pháp, đế quốc Mĩ ra sức can thiệp
sâu vào chiến tranh Đông Dương, ép Pháp phải kéo dài và mở rộng chiến tranh
đồng thời tích cực chuẩn bị thay thế Pháp. Với sự thỏa thuận của Mĩ, Chính phủ
Pháp cử tướng Nava làm tổng chỉ huy quân đội viên chính Pháp ở Đông Dương.

Nava đã vạch ra kế hoạch chiến lược hi vọng trong 18 tháng giành lấy thắng lợi
quân sự quyết định để “kết thúc chiến tranh trong danh dự”. Tuy nhiên cuộc tiến
công chiến lược của ta trong Đông - Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch Điện Biên
Phủ 1954 thắng lợi, làm cho kế hoạch Nava-cố gắng cao nhất của Pháp - Mĩ
hoàn toàn bị phá sản, giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân
Pháp, tạo cơ sở thực lực để đi đến kí kết Hiệp định Giơ-ne-vơ về việc lập lại hòa
bình ở Đông Dương.
+ Ngày 21 - 7 - 1954 Hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, đã buộc Pháp phải
chấm dứt chiến tranh xâm lược rút hết quân đội về nước, đập tan âm mưu kéo
dài, mở rộng, quốc tế hóa chiến tranh xâm lược Đông Dương của đế quốc Mỹ.
+ Song song với việc đẩy mạnh cuộc chiến đấu trên mặt trận quân sự,
công cuộc kiến quốc nhằm xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân, phục vụ
kháng chiến, phục vụ dân sinh, tạo tiền đề tiến lên chủ nghĩa xã hội sau khi
chiến tranh kết thúc được Đảng ta đặc biệt quan tâm. Trên mặt trận này ta cũng
đạt được nhiều thành tựu góp phần củng cố, tăng cường hậu phương, củng cố
tăng cường các nhân tố thắng lợi trên mặt trận quân sự. Những thành tựu góp
19


phần củng cố, tăng cường hậu phương, củng cố tăng cường các nhân tố thắng lợi
trên mặt trận quân sự. Những thành tựu đó không những đáp ứng được nhu cầu
bức thiết của cuộc kháng chiến, đẩy mạnh sự nghiệp phản phong, xây dựng cơ
sở kinh tế-văn hóa cho chế độ dân chủ nhân dân, mà còn gây mầm mống cho
việc tiến lên chủ nghĩa xã hội sau này.
2.2.2. Thiết kế câu hỏi trắc nghiệm theo định hướng năng lực trong dạy học
Lịch sử Việt Nam (1945-1954) lớp 12 THPT – Chương trình chuẩn
2.2.2.1. Bảng mô tả các mức yêu cầu cần đạt theo hướng phát triển năng lực
trong dạy học lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954
Bài 17: NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
TỪ SAU NGÀY 2-9-1945 ĐẾN TRƯỚC NGÀY 19-12-1946

BẢNG MÔ TẢ CÁC CẤP ĐỘ NHẬN THỨC

Nội dung

Nhận biết

Thông hiểu

Vận dụng

Vận dụng cao

I. Tình hình - Nêu được

- Giải thích

-Nhận xét được

nước ta sau những thuận

được sau cách

tình hình nước

Cách

sau Cách mạng

ta sau Cách


tháng Tám năm

mạng tháng

hình nước ta

1945, đất nước

Tám năm 1945

sau Cách

đứng trước tình

mạng tháng

thế “ngàn cân

Tám năm

treo sợi tóc”

mạng lợi và khó

tháng
năm 1945

Tám khăn của tình

1945


- Khái quát
được tình hình
nước ta sau
Cách mạng
tháng Tám năm
1945

II. Bước đầu - Nêu được

- Giải thích
20

- Phân tích

- Liên hệ với


xây

dựng những biện

được lí do vì

được những

công cuộc xây

chính


quyền pháp của

sao Đảng và

chủ trương,

dựng đất nước

cách

mạng, Đảng và

Chính phủ để

biện pháp của

hiện nay.

giải quyết nạn Chính phủ để củng cố và kiện Đảng và Chính
dốt và những củng cố và

toàn chính

phủ trong năm

khó khăn về kiện toàn

quyền cách

đầu xây dựng


tài chính

chính quyền

mạng sau cách

chính quyền

cách mạng.

mạng tháng

cách mạng, giải

- Trình bày

Tám năm 1945. quyết khó khăn
của đất nước

được những

- Lý giải tại sao

biện pháp

Đảng và Chính

giải quyết


phủ, Chủ tịch

khó khăn

Hồ Chí Minh

- Đánh giá

trước mắt và

lại cùng một

được tác động

phần nào

lúc thực hiện

của những biện

chuẩn bị lâu

vừa biện pháp

pháp mà Đảng

dài: diệt giặc

trước mắt và


và Chính phủ ta

dói, giặc dốt

lâu dài trong

đã thực hiện

và giải quyết

việc diệt giặc

trong năm đầu

những khó

dói, giặc dốt và sau Cách mạng

khăn về tài

giải quyết

tháng Tám năm

chính.

những khó

1945.


- Nêu được
những kết

khăn về tài
chính.

quả chủ yếu
đạt được
trong năm
đầu xây dựng
chính quyền
21

sau Cách mạng
tháng Tám.


cách mạng,
giải quyết
khó khăn của
đất nước sau
Cách mạng
tháng Tám.
III. Đấu tranh

- Nêu được

- Giải thích

- Phân tích


- Bày tỏ được ý

chống ngoại

hoàn cảnh

được các biện

được thái độ

kiến về sách

xâm và nội

lịch sử, diễn

pháp của Đảng, chính trị cảu

phản ,bảo vệ

biến của cuộc Chính phủ và

các thế lực

Đảng, Chính

chính quyền

kháng chiến


Chủ tịch Hồ

ngoại xâm

phủ và Chủ tịch

cách mạng.

chống thực

Chí Minh để

đang đe doạ

Hồ Chí Minh

dân Pháp ở

đấu tranh với

nền độc lập dân đối với Pháp và

Nam Bộ.

quân Trung hoa tộc ngay sau

quân Trung hoa

Dân quốc và


khi Cách mạng

Dân quốc và

bọn phản cách

tháng Tám năm bọn phản cách

mạng ở miền

1945 thành

mạng ở miền

Bắc.

công.

Bắc.

Đảng, Chính

- Giải thích

- Chỉ ra được

- Rút ra được

phủ và Chủ


được tại sao ta

mối quan hệ

bài học trong

tịch Hồ Chí

lại hoà hoãn,

giữa hai nhiệm

xây dựng và

Minh để đấu

nhân nhượng

vụ xây dựng và bảo vệ chính

tranh với quân

với quân Trung bảo vệ chính

- Trình bày
được chủ
trương và biện
pháp của


lược của Đảng,

quyền cách

Trung hoa Dân hoa Dân quốc,

quyền cách

mạng thời kì

quốc và bọn

nhưng lại kiên

mạng.

này.

phản cách

quyết kháng

mạng ở miền

chiến chống

Bắc.

Pháp quay trở


- Trình bày

lại xâm lược ở
22

- Nhận xét
được tác động
của việc Hiệp
định Sơ bộ 6-3-


được chủ
trương , sách
lược của
Đảng và
Chính phủ

Nam Bộ.

1946 và Tạm
ước 14-9-1946

- Lí giải

giữa ta với

nguyên nhân

Pháp.


tại sao ta kí

cách mạng

Hiệp định Sơ

đối với Pháp

bộ 6-3-1946 và

trong thời

Tạm ước 14-9-

gian trước

1946 với Pháp.

ngày 6-3-

- Tóm tắt quan

1946 và từ

hệ của Việt

ngày 6-3-

Nam đối với


1946.

Pháp từ tháng

- Nêu được

9-1945 đến

hoàn cảnh,

tháng 12-1946

- Đánh giá ý
nghĩa thắng lợi
mà ta đạt được
trong hơn năm
đầu sau CMT8.
- Liên hệ với
công cuộc xây
dựng và bảo vệ
Tổ quốc hiện
nay

nội dung, ý
nghĩa của
Hiệp định Sơ
bộ 6-3-1946
và Tạm ước
14-9-1946
giữa ta với

Pháp.

BÀI 18: NHỮNG NĂM ĐẦU CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946-1950)
Nội dung

Nhận biết

Thông hiểu
23

Vận dụng

Vận dụng cao


I. Kháng

-Trình bày

-Giải thích

- Phân tich

chiến toàn

được quan hệ

được vì sao


được nội dung

quốc chống

Việt-Pháp từ

cuộc kháng

cơ bản của

thực dân

tháng 9-1946

chiến toàn

đường lối

Pháp xâm

đến 12-1946

quốc chống

kháng chiến

thực dân Pháp

chống thực dân


xâm lựoc bùng

Pháp của

lược bùng nổ
-Nêu được

nổ ngày 19-12- Đảng.

nội dung cơ

1946.

bản của Lời
kêu gọi toàn
quốc kháng
chiến
II. Cuộc

-Trình bày

- Giải thích

- Nhận xét

chiến đấu ở

được diễn

được vì sao


được tác động

các đô thị và

biến chính

cuộc kháng

của cuộc chiến

việc chuẩn bị

của cuộc

chiến toàn

đấu ở các đô

cho cuộc

chiến đấu ở

quốc chống

thị phía Bắc vĩ

kháng chiến

các đô thị


thực dân Pháp

tuyến 16 của

lâu dài .

phía Bắc vĩ

lại diễn ra

quân và dân ta

tuyến 16

trước tiên ở các

đối với kế

đô thị.

hoạch “đánh
nhanh, thắng
nhanh” của
Pháp.

24



×