Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

TIỂU LUẬN MÔN HỆ THỐNG THÔNG TIN QUẢN LÝ GIÁO DỤC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.34 KB, 10 trang )

BÀI KIỂM TRA
MÔN HỆ THỐNG THÔNG TIN QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Câu 1. Vai trò của thông tin trong quản lý? Phân tích tại sao thông tin
lại là nguồn lực của một tổ chức?
1. Vai trò của thông tin trong quản lý
Trước khi nêu vai trò của thông tin trong quản lý, chúng ta có thể hiểu một
số khái niệm như sau:
* Quản lý: Hiểu một cách khái quát là sự tác động hợp quy luật, có chủ đích,
có định hướng của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu
của tổ chức đã đề ra. Hay: Quản lý là quá trình đạt tới mục tiêu của tổ chức bằng
cách vận dụng các chức năng: Kế hoạch – Tổ chức – Chỉ đạo – Kiểm tra.
* Quản lý nhà trường: là hệ thống những tác động có chủ đích, có kế hoạch,
hợp quy luật của chủ thể quản lý nhà trường làm cho nhà trường vận hành theo
đường lối, quan điểm giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà
trường, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học – giáo dục, đưa nhà trường tới mục
tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất, góp phần thực hiện mục tiêu chung của
giáo dục: Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
* Thông tin: có thể được hiểu là nội dung những trao đổi giữa hệ thống và
môi trường được sử dụng nhằm mục đích điều khiển hoạt động của hệ thống đó.
Thông tin được coi là những tín hiệu mới được thu nhận, được hiểu và được
đánh giá là có ích cho việc ra các quyết định quản lý.
Hay, thông tin chính là những hiểu biết về tự nhiên, con người và xã hội; về
những sự kiện diễn ra trong không gian, thời gian; là những dự đoán, dự kiến, kế
hoạch… là những gì mà con người cần biết cho hoạt động của mình.
Mỗi loại thông tin có tính chất riêng. Có những thông tin nội dung chậm thay
đổi theo thời gian (nhà xưởng, thiết bị, máy móc…) có những thông tin nội dung
thay đổi hàng ngày (lượng sản phẩm đã sản xuất, đã tiêu thụ…)

1



* Thông tin quản lý: là tất cả những tin tức nảy sinh trong quá trình cũng như
trong môi trường quản lý và cần thiết cho việc ra quyết định hoặc để giải quyết một
vấn đề nào đó trong hoạt động quản lý ở một tổ chức nào đó.
* Thông tin quản lý giáo dục: là thông tin khoa học phản ánh trạng thái của
hệ giáo dục (hiện tại và quá khứ) phục vụ cho việc ra các quyết định quản lý để
thực hiện các chức năng quản lý.
* Vai trò của thông tin trong quản lý
Thông tin có vai trò hết sức to lớn trong quản lý. Nhiều công trình nghiên
cứu đã chỉ ra rằng, trong mỗi tổ chức muốn các hoạt động quản lý có hiệu quả thì
điều không thể thiếu được là xây dựng một hệ thống thông tin tốt. Hơn thế nữa hiệu
quả của quản lý phụ thuộc vào việc đầu tư cho hệ thống thông tin. Chính vì thế
ngày nay hầu như mọi tổ chức đều cố gắng trang bị những phương tiện kỹ thuật
điện tử hiện đại nhất nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng hệ thống thông tin
trong quản lý của mình. Vai trò hết sức quan trọng của thông tin trong quản lý thể
hiện rất rõ ở những phương diện sau:
a.Trong việc ra quyết định
Ra quyết định là một công việc khá phức tạp, khó khăn và hết sức quan trọng
của các nhà quản lý. Để ra được một quyết định đúng đắn, các nhà quản lý cần rất
nhiều thông tin. Thông tin ở đây sẽ giúp cho các nhà quản lý giải quyết đúng đắn và
có hiệu quả các vấn đề sau: Nhận thức về vấn đề cần phải ra quyết định; xác định
cơ hội và các mối hiểm nguy trong hoạt động của tổ chức; xác định các cơ sở, tiền
đề khoa học cần thiết để ra quyết định; lựa chọn các phương án.
b. Trong thực hiện các chức năng quản lý: Thông tin có vị trí trung tâm trong
các chức năng quản lý

KẾ HOẠCH
2

KIỂM TRA


THÔNG
TIN

TỔ CHỨC


CHỈ ĐẠO

- Vai trò của thông tin trong chức năng kế hoạch:
Chức năng kế hoạch là chức năng đầu tiên trong quá trình quản lý, ý nghĩa
tiên quyết đối với các nhà quản lý. Để có được những kế hoạch và những quyết
định đúng đắn, các nhà quản lý cần rất nhiều thông tin. Nhờ có thông tin mà các
nhà quản lý có thể giải quyết đúng đắn và hiệu quả các vấn đề sau:
+ Nhận thức vấn đề cần phải lập kế hoạch và ra quyết định.
+ Xác định cơ hội cũng như thách thức đối với tổ chức.
+ Xác lập các cơ sở tiền đề khoa học cần thiết để xây dựng các mục tiêu.
+ Lựa chọn các phương án để thực hiện kế hoạch quản lý.
- Vai trò của thông tin trong chức năng tổ chức:
Trong quá trình thực hiện chức năng tổ chức, thông tin có vai trò quan trọng
ở các phương diện sau:
+ Nhận thức các vấn đề liên quan tới việc thiết kế mô hình cơ cấu tổ chức,
phân công phân nhiệm và giao quyền.
+ Cung cấp các dữ liệu cần thiết về nhân lực, vật lực, tài lực.
+ Xây dựng các phương án để bố trí, sắp xếp, sử dụng nhân lực và phân bổ
các nguồn lực khác
+ Giải quyết các vấn đề liên quan tới công tác tổ chức.
+ Cung cấp các dữ liệu để làm cơ sở cho việc xây dựng nội quy, quy chế và
chính sách của tổ chức.
+ Lựa chọn các phương pháp và phong cách quản lý hiệu quả.

- Vai trò của thông tin trong chức năng chỉ đạo:
Khi thực hiện chức năng chỉ đạo, thông tin giúp các nhà quản lý giải quyết
đúng đắn và hiệu quả các nội dung sau:
+ Nhận thức các vấn đề liên quan tới động cơ thúc đẩy nhân viên.
+ Biết được những điểm mạnh, điểm yếu cũng như những khó khăn, vướng
mắc của nhân viên trong quá trình thực hiện cong việc.
- Vai trò của thông tin trong hức năng kiểm tra:
Trong lĩnh vực kiểm tra, thông tin có vai trò quan trọng trên các phương
diện:
3


+ Nhận thức vấn đề cần phải kiểm tra.
+ Cung cấp dữ liệu cho việc xây dựng các tiêu chuẩn.
+ Xây dựng các phương án để đo lường và các giải pháp sửa chữa, điều
chinh kịp thời những sai lệch.
- Trong phân tích, dự báo và phòng ngừa rủi ro: Trong các hoạt động giáo
dục, việc phòng ngừa rủi ro có tầm quan trọng đặc biệt. Để phòng ngừa rủi ro có
hiệu quả thì thông tin lại có một ý nghĩa hết sức lớn lao trong việc phân tích, dự
báo và xây dựng phương án phòng ngừa rủi ro.
- Trong quản lý trường học: thông tin có vai trò để: Để làm báo cáo, lưu trữ
cho các hoạt động sau này; Để phục vụ công tác dạy – học của nhà trường; Để phục
vụ cho các quyết định quản lý.
2. Thông tin là nguồn lực của một tổ chức
Nguồn lực có thể được hiểu là những điều kiện mà người quản lý có thể khai
thác, sử dụng để hoàn thành mục tiêu. Trong một tổ chức có 5 nguồn lực cơ bản:
Nhân lực, vật lực, tài lực, tin lực, thời lực.
+ Nhân lực trong nhà trường là lực lượng giáo viên, cán bộ nhân viên, với
năng lực chuyên môn của từng người được bố trí những vị trí công tác nhất định,
tham gia quá trình dạy học và phục vụ dạy học của nhà trường.

+ Vật lực là toàn bộ cơ sở vật chất của nhà trường bao gồm: đất đai, phòng
học lý thuyết, tài sản, trang thiết bị, công cụ, dụng cụ, sân chơi, bãi tập, thư viện,
các tài sản hữu hình,… và phần mềm, các bản quyền sáng chế, phát minh, danh
tiếng, uy tín của nhà trường.
+ Tài lực là nguồn tài chính của nhà trường. Nguồn tài chính của nhà trường
bao gồm ngân sách nhà nước cấp và nguồn ngoài ngân sách nhà nước.
+ Tin lực (nguồn lực thông tin) là những dữ liệu đã được phân tích, xử lý để
phục vụ cho việc ra quyết định hoặc giải quyết các nhiệm vụ nhằm phát triển nhà
trường.
+ Thời lực: Là những thời điểm, thời cơ của nhà trường trong những bối
cảnh nhất định.
- Đặc trưng cơ bản của thông tin:
+ Dung lượng thông tin phản ánh nhiều về đối tượng.
4


+ Chất lượng thông tin phản ánh những mặt bản chất của đối tượng
+ Số lượng thông tin đem lại nhiều hiểu biết mới cho người nhận.
+ Giá trị thông tin: Phản ánh mức độ thỏa mãn nhu cầu của người được nhận
thông tin.
Từ vai trò, đặc trưng của thông tin ta thấy rằng, thông tin chính là một nguồn
lực quan trọng của tổ chức. Thông tin được xem như một công cụ của quản lý, là
mạch máu của tổ chức, là điều kiện, sức mạnh để tổ chức tồn tại, phát triển và hoạt
động hiệu quả. Thông tin có vai trò hết sức quan trọng, không chỉ trong công tác
quản lý mà trong mọi hoạt động của tổ chức. Nếu thiếu thông tin thì tổ chức sẽ hoạt
động không hiệu quả, đưa ra những quyết định thiếu tính chính xác, thậm chí là sai
lệch.
Câu 2. Những lưu ý khi ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà
trường và dạy học (phân tích tại cơ sở giáo dục của anh chị)?
- Công nghệ thông tin được hiểu là: Công nghệ thông tin là tập hợp các

phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ yếu là kĩ
thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các
nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt
động của con người và xã hội.
- Công nghệ thông tin đã ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của hoạt động con
người và đồng thời nó có vai trò hết sức quan trọng trong lĩnh vực dạy, học và giáo
dục. CNTT mang đến những cơ hội và những lợi ích tiềm năng trong việc nâng cao
chất lượng dạy và hiệu quả của việc học. Nó được xem như là một công cụ để quản
lý trường học, giúp người giảng viên xây dựng nên nhưng tiết giảng thú vị, lôi
cuốn, đồng thời nó cũng là một phương tiện giúp người học mở rộng tư duy và
nâng cao khả năng sàng lọc các kiến thức liên quan.
- Tại Trường Cao đẳng Sư phạm Cao Bằng, việc ứng dụng công nghệ thông
tin cơ bản đã thực hiện tốt, góp phần mang lại hiệu quả hoạt động của nhà trường.
Nhà trường ứng dụng công nghệ thông tin trong các mặt sau:
+ Trong công tác quản lý
+ Trong quá trình dạy và học
+ Trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học, quản lý thư viện…
5


+ Trong công tác tổ chức cán bộ, quản lý hồ sơ cán bộ, viên chức,đánh giá
viên chức, thi đua, khen thưởng…
+ Trong công tác tài chính kế toán
- Trong công tác hành chính, quản trị
* Một số hạn chế trong việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý
và giảng dạy
- Trong quản lý: Phương tiện quản lý, phần mềm quản lý đầy đủ và thói quen
sử dụng đã làm cho công tác quản lý trường học trở nên thuận tiện, có thể tiến hành
ở trường, ở nhà ... Công tác thống kê báo cáo, liên hệ nhà trường gia đình thông
qua các hệ thống CNTT là rất nhanh chóng, kịp thời. Tuy nhiên, một số phần mềm

quản lý bộc lộ nhiều hạn chế, không đồng bộ giữa cấp quản lý và trường học; cán
bộ sử dụng quản lý phần mềm là giảng viên kiêm nhiệm, ít được bồi dưỡng, tập
huấn về công nghệ thông tin, sử dụng, nâng cấp phần mềm...
- Trong dạy học:
+ Một số giáo viên vẫn chưa phân biệt rõ giữa phương pháp giảng dạy và
công cụ giảng dạy, họ cho rằng sử dụng CNTT trong giảng dạy là đã áp dụng
phương pháp giảng dạy mới. Nhưng trên thực tế hoàn toàn không phải như vậy, bài
giảng điện tử, giáo án điện tử (CNTT) chỉ là công cụ hỗ trợ cho phương pháp giảng
dạy.
+ Một số giáo viên vẫn còn thói quen dạy học theo kiểu truyền thụ kiến thức
một chiều. Khi tiến hành đổi mới phương pháp dạy học, không ít giáo viên lo lắng,
băn khoăn việc ứng dụng những phương pháp mới có thể không thành công bằng
phương pháp cũ; sợ nêu nhiều câu hỏi cho học sinh trả lời sẽ không đủ thời gian
thực hiện kế hoạch giảng dạy, ngại cho học sinh thảo luận. ..
+ Một số giáo viên khi thiết kế bài giảng bằng PowerPoint chưa đạt yêu cầu,
sử dụng những hình ảnh, font chữ, màu chữ lòe loẹt, hoặc những hiệu ứng ẩn hiện
nhảy múa không hợp lý gây phản cảm và làm cho học sinh chú ý nhiều vào hiệu
ứng mà sao nhãng nội dung.
* Những lưu ý khi ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và giảng
dạy
6


Bên cạnh những ưu điểm vô cùng lớn khi ứng dụng công nghệ thông tin
trong quản lý và giảng dạy tại trường Cao đẳng Sư phạm Cao Bằng thì vẫn tồn tại
một số hạn chế. Để tận dụng được tối đa những ưu điểm của việc ứng dụng công
nghệ thông tin và khắc phục những hạn chế thì cần lưu ý một vài điếm sau:
Thứ nhất, trong công tác quản lý các mảng hoạt động của nhà trường, nhà
trường cần sử dụng có hiệu quả các phần mềm và đồng bộ, kịp thời nâng cấp, đổi
mới. Cán bộ phụ trách các phần mềm phải không ngừng nâng cao khả năng sử

dụng, khai thác công nghệ thông tin một cách hiệu quả, thành thạo.
Thứ hai, để thực hiện tốt những nội dung đã được chuẩn bị trước nhờ công
nghệ thông tin, Trường đòi hỏi phải cơ sở hạ tầng phù hợp như hệ thống máy tính,
máy chiếu, tivi, …. Tuy nhiên, trong quá trình dạy của giáo viên và thuyết trình của
sinh viên, nếu xảy ra các sự cố về điện, về trang thiết bị, người dạy và người học
cần có phương án dự phòng tốt nhất, tránh rơi vào trạng thái thụ động, ảnh hưởng
đến nội dung bài giảng và bài thuyết trình.
Thứ ba, việc soạn các bài giáo án điện tử bằng powerpoint hoặc sử dụng các
phần mềm hỗ trợ trong quá trình chuẩn bị nội dung bài học đòi hỏi người dạy phải
có trình độ tin học khá tốt, kỹ năng thiết kế tốt nếu không sẽ phản lại những tác
dụng khoa học mà CNTT mang lại như nội dung truyền tải quá nhiều trên một
slide, font chữ không đồng nhất, không có hiệu ứng cho các nội dung riêng biệt, …
điều này làm cho người học cảm giác bài học quá dài, “nhàm chán”, ghi chép một
cách máy móc …
Thứ tư những tiện ích tích hợp được từ CNTT có thể khiến người dạy chủ
quan, kém linh động trong việc tạo ra mối tương tác đối với người học, khả năng
quan sát lớp học bị hạn chế. Chẳng hạn như một số giáo viên lười di chuyển, chỉ
“xoay quanh” máy tính trong quá trình giảng dạy; hoặc nếu chỉ sử dụng CNTT với
những nội dung đã được chuẩn bị trước và trình diễn khiến bài học sẽ bị đơn độc,
thiếu chiều sâu khi không được kết hợp với việc giải thích bằng bảng đen. Một số
trường hợp, người dạy thể hiện quá nhiều màu sắc, hiệu ứng đặc biệt là những hiệu
ứng động, bắt mắt, vui nhộn trên slide khiến người học chỉ tập trung quan sát các
hiệu ứng mà “bỏ quên” nội dung chính của bài giảng – mục tiêu chính của tiết học.
Thứ năm việc sử dụng giáo án điện tử khiến một số giáo viên “ỷ lại”, lệ
thuộc trong quá trình cùng giảng dạy một môn học khiến công nghệ “copy, cut và
7


paste” trở nên thông dụng, từ đó hạn chế khả năng tư duy, tính sáng tạo trong việc
dẫn dắt vấn đề khi bắt đầu một bài giảng mới bất kỳ. Bên cạnh đó, việc “vay

mượn” giáo án điện tử của người khác có thể khiến người dạy đó “đi lệch” với ý
tưởng gốc, mục tiêu ban đầu của tác giả hoặc một số trường hợp thực hiện bài
giảng không còn hoàn hảo vì không thể tìm thấy file gốc.
Câu 3. Để thiết kế giáo án điện tử (giáo án dạy học tích cực) một nhà
trường cần chuẩn bị những gì để nâng cao hiệu quả ứng dụng CNTT trong
dạy học?
Để thiết kế được giáo án điện tử (giáo án dạy học tích cực) trước tiên nhà
trường cần phải làm cho giáo viên hiểu rõ khái niệm giáo án điện tử là gì, tránh
những quan niệm sai lầm như:
+ Bất cứ nội dung gì cho vào máy vi tính à kết nối với máy chiếu đa năng à
Chiếu lên à Thế là thành giáo án dạy học tích cực điện tử.
+ Thiết kế Giáo án dạy học tích cực điện tử quá dễ (ai cũng thiết kế được)
hoặc quá khó (chỉ có kỹ sư tin học mới thiết kế được)
Vậy có thể hiểu giáo án dạy học tích cực điện tử là một tập hợp các bài giảng
điện tử được người dạy thiết kế để người học có thể giao tiếp trực tiếp với thiết bị
(ở đây là máy tính) và hoạt động dựa trên những gì đã được người dạy lập trình
trước, và người dạy lúc này không cần phải giao tiếp trực tiếp với người học nữa.
Qua đó người học có thể tự rút ra kiến thức cho bản thân mình.
* Thiết kế giáo án điện tử (giáo án dạy học tích cực)
Mức 1: CNTT ở mức độ cơ bản, mức độ phổ cập (mức độ thấp)
(Bước đầu có sự tích hợp của ảnh, biểu đồ kỹ thuật số, Video Clip…vào giáo
án).
Qua khảo sát thấy rằng: Phần lớn Cán bộ QLGD và Giáo viên có thể thực hiện
tốt việc ứng dụng CNTT này
Mức 2: Ứng dụng CNTT ở mức độ cao (Mức độ nâng cao) Tích hợp được thí
nghiệm ảo, thí nghiệm mô phỏng vào trong giáo án dạy học tích cực. Ứng dụng
CNTT ở mức này đã tạo được sự tương tác cao giữa SV với máy tính, SV với GV
và SV với SV thông qua mạng máy tính LAN của nhà trường. Biến quá trình dạy
học trở thành quá trình Dạy học tích cực điện tử. Một bộ phận Cán bộ quản lý và
8



Giáo viên (20%) có quyết tâm học và sử dụng được phần mềm Macromedia Flash
để thiết kế thí nghiệm ảo, thí nghiệm mô phỏng, tạo sự tương tác của SV với máy
tính (Ví dụ: SV thay đổi dữ liệu: nhiệt độ, ánh sáng… là thay đổi được quá trình
phát triển, sinh trưởng của cây cà chua). Như vậy giáo viên, cán bộ quản lý đã thiết
kế được một Giáo án dạy học tích cực có ứng dụng CNTT ở mức độ cao (Mức độ
nâng cao) được gọi là Giáo án dạy học tích cực điện tử (Giáo án điện tử).
Giáo án dạy học tích cực có ứng dụng CNTT và Giáo án dạy học tích cực điện
tử. Như vậy, Giáo án dạy học tích cực có ứng dụng CNTT và Giáo án dạy học tích
cực điện tử về mặt bản chất là giống nhau (cùng bản chất) đều là Giáo án dạy học
tích cực có ứng dụng CNTT song khác nhau ở các mức độ ứng dụng CNTT.
Để soạn được một bài giảng điện tử đòi hỏi phải tư duy và trang bị rất nhiều
kiến thức. Nội dung đưa lên mỗi slide phải ngắn gọn, xúc tích, có chọn lọc. Ngoài
ra, phải chọn lựa phần mềm, tiện ích phù hợp với nội dung cần truyền đạt và theo
hướng dẫn dắt, minh hoạ hơn là trình chiếu các kết quả tóm tắt. Chú ý tốc độ tiết
giảng cho phù hợp với sự tiếp thu của học sinh và nội dung giáo án phải luôn được
cập nhật. Đồng thời, luôn dự kiến những sự cố có thể xảy ra về mặt kỹ thuật và có
sự chuẩn bị để không ảnh hưởng đến chất lượng bài giảng. Có thể nói việc vận
dụng CNTT đúng lúc, đúng chỗ nhằm tạo hiệu quả cao cho giờ học là cả một nghệ
thuật.
* Để nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học,
nhà trường cần:
- Quán triệt, phổ biến về khái niệm "giáo án dạy học tích cực điện tử" cho
giáo viên. Khuyến khích giáo viên ứng dụng CNTT trong giảng dạy, đưa việc ứng
dụng CNTT trong giảng dạy là một tiêu chí đánh giá, xét khen thưởng.
- Thường xuyên tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về CNTT cho đội ngũ giáo viên.
- Trang bị cho họ một số các công cụ hỗ trợ soạn giáo án dạy học tích cực
điện tử.
- Tăng cường quản lý, kiểm tra đánh giá việc ứng dụng công nghệ thông tin

trong giảng dạy./.
HỌC VIÊN
9


Nông Mỹ Hà

10



×