Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong việc kiểm soát lạm phát bằng chính sách tiền tệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.4 KB, 12 trang )

chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát ở một số
nớc trên thế giới và bài học kinh nghiệm

1.3.1. Chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm
phát ở Hàn Quốc
1.3.1.1. Cơ quan xác định mục tiêu và tình hình
kinh tế chính trị tại thời điểm công bố mục tiêu
Chính sách mục tiêu lạm phát đợc áp dụng tại Hàn Quốc
theo các điều khoản của Luật Ngân hàng 1997. Đây là Bộ
luật đã đợc sửa đổi để trao quyền tự quyết cao hơn cho
NHTW Hàn Quốc trong việc điều chỉnh và thực thi chính
sách tiền tệ. Luật này nhằm tạo ra chính sách tiền tệ trung
lập và độc lập tuyên bố ổn định giá cả là mục đích duy
nhất của NHTW Hàn Quốc. Theo các điều khoản của luật
này, NHTW Hàn Quốc phải xây dựng một mục tiêu lạm phát
hàng năm theo tín hiệu thị trờng và thực hiện các biện
pháp để đạt đợc các mục tiêu đó. Chính sách mục tiêu lạm
phát đợc áp dụng bắt đầu từ năm 1998. Trớc khi mỗi năm
kết thúc, NHTW Hàn Quốc sẽ định ra một mục tiêu ổn
định giá cả cho năm sau, sau khi đã tham vấn ý kiến của
Chính phủ, và sau đó tự mình thiết lập và phổ biến một
kế hoạch điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tín
dụng bao gồm cả mục tiêu ổn định giá cả. Cuối cùng, hàng
tháng Uỷ ban chính sách tiền tệ của NHTW Hàn Quốc quyết
định định hớng của chính sách tiền tệ hàng tháng và sau
đó NHTW Hàn Quốc điều hành các chính sách tiền tệ theo
định hớng này.


1.3.1.2. Cơ chế hoạt động của chính sách mục
tiêu kiểm soát lạm phát


+ Thứ nhất: Mục tiêu đợc quản lý theo một khung dao
động xung quanh một mức lạm phát trung tâm( ví dụ mức
lạm phát cơ sở là 2% và khung mục tiêu sẽ là 2%-3%).Để thực
hiện mục tiêu đề ra, NHTW Hàn Quốc xem lãi suất huy động
với vai trò mục tiêu điều hành mà không có mục tiêu trung
gian, điều này có nghĩa là NHTW Hàn Quốc sẽ căn cứ vào
xu hớng biến động của giá cả để điều chỉnh mức lãi suất
sao cho đạt đợc mục tiêu đề ra. Nguyên nhân của việc lựa
chọn này là do các nghiên cứu ở đây chỉ ra rằng lãi suất
huy động có tác dụng nhân quả trực tuyến đối với lãi suất
ngắn hạn và các biến số kinh tế.
+Thứ hai: Chỉ số thích hợp để thiết kế mục tiêu là chỉ
số giá CPI. NHTW Hàn Quốc cho rằng CPI là chỉ số phù hợp
nhất để điều hành chính sách tiền tệ. Chỉ số CPI của Hàn
Quốc có loại trừ các biến động do các nguyên nhân bất khả
kháng nh biến động của giá nông sản do thiên tai, thay đổi
giá cả do Chính phủ điều chỉnh thuế gây ra.
+Thứ ba: NHTW Hàn Quốc tơng đối độc lập trong việc
hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ. Trớc hết, khi hết
năm NHTW Hàn Quốc xây dựng mục tiêu ổn định giá cả
cho năm tới sau khi đã tham vấn Chính phủ và thiết lập một
kế hoạch điều hành các chính sách tiền tệ và tín dụng có
tính đến mục tiêu này trong vòng 15 ngày sau khi xây
dựng đợc các mục tiêu ổn định giá cả. Thứ hai, hàng tháng,
NHTW Hàn Quốc sẽ thông báo phơng hớng của chính sách


tiền tệ trong tháng đó ngay sau khi Uỷ ban Chính sách tiền
tệ của NHTW quyết định và Chính phủ sẽ có văn bản giải
thích chi tiết phơng hớng này. Thứ ba, thờng kỳ 03 tháng

sau mỗi cuộc họp, NHTW Hàn Quốc sẽ xuất trình bản báo
cáo chính sách tiền tệ và tín dụng lên Quốc hội 02 lần/
năm, thờng vào tháng 03 và tháng 10, và Chính phủ có trách
nhiệm trả lời các chất vấn của các đại biểu quốc hội về bản
báo cáo đó.
1.3.1.3. Mục tiêu kiểm soát lạm phát và quá trình
thực hiện
Năm 1998, mục tiêu lạm phát đợc thiết kế nh sau: Mức
lạm phát trung bình là 9% và khung mục tiêu dao động 1%
xung quanh mức trung bình.
Do sự bùng nổ khủng hoảng tiền tệ, sau khi tham khảo
ý kiến của IMF, NHTW Hàn Quốc đã thực hiện chính sách lãi
suất cao. Chính sách lãi suất cao là sự lựa chọn duy nhất để
đảm bảo khả năng thanh khoản ngoại tệ và ổn định tỷ giá
đối phó với luồng ngoại tệ bị chuyển ra ngoài do mất lòng
tin của các nhà đầu t quốc tế. Tuy nhiên, có rất nhiều tác
dụng phụ xấu đi kèm với chính sách lãi suất cao. Nó làm tăng
sự trì trệ trong các hoạt động kinh tế do thắt chặt tiêu
dùng, đầu t, đồng thời, làm tăng sự đóng cửa đồng loạt của
một số doanh nghiệp và tăng số lợng các khoản nợ xấu của
các tổ chức tài chính. Do vậy, nhằm hạn chế việc quá thắt
chặt nền kinh tế, vào quý 2/1998, NHTW Hàn Quốc đã dần
giảm bớt sự can thiệp vào thị trờng khi các điều kiện của
thị trờng hối đoái đã đợc cải thiện nhờ vào cán cân thơng


mại thặng d,các khoản trợ giúp của các tổ chức tài chính
quốc tế và dòng vốn đầu t mới chuyển vào. Cuối cùng lãi
suất huy động giảm xuống 8,5% vào cuối tháng 8 năm
1998. Do NHTW Hàn Quốc dần giảm bớt tỷ lệ can thiệp vào

thị trờng, lãi suất huy động thị trờng chỉ còn 6,5% vào cuối
tháng 12.Và kết quả của hàng loạt những nỗ lực can thiệp
đến cuối năm tỷ lệ lạm phát là 7,5% thấp hơn nhiều so với
mục tiêu đề ra.
+ Năm 1999, mục tiêu lạm phát đợc thiết kế nh sau: mức
lạm phát trung tâm là 3% và khung mục tiêu dao động là 1%
xung quanh mức trung tâm.
Trong nửa đầu năm 1999, thị trờng tài chính và hối
đoái tơng đối ổn định. Ngợc lại, bất ổn tăng lên trên thị trờng tài chính vào nửa cuối năm 1999 và việc tái ổn định
lại thị trờng này là mối quan tâm hàng đầu của các nhà
làm chính sách. NHTW Hàn Quốc coi việc ổn định thị trờng tài chính là quan trọng nhất, do vậy, đã từng bớc giảm
dần lãi suất huy động, xuống mức 4,75% vào tháng 5/1999
và duy trì mức lãi suất này tới tận tháng 01/2000.
+ Mục tiêu lạm phát cho năm 2000 đợc thiết lập nh sau:
NHTW xây dựng mức lạm phát trung tâm của mục tiêu lạm
phát năm 2000 là 2,5% với biên độ dao động +/-1%. Với sự
hỗ trợ của chính sách lãi suất thấp, nền kinh tế thực tế đã
phát triển theo chiều hớng đi lên với tỷ lệ tăng trởng 10,7%
năm 1999. Giá cổ phiếu tăng mạnh trong thời gian ngắn. Lãi
suất dài hạn cũng tăng lên do sự tăng mở rộng nhanh chóng
của nền kinh tế và nỗi lo sợ thị trờng tài chính bất ổn định
do vậy làm tăng chênh lệch giữa lãi suất dài hạn và ngắn


hạn. Xuất phát từ những điểm trên, NHTW Hàn Quốc quyết
định tăng mục tiêu cho lãi suất huy động qua đêm lên
khoảng 4,75%- 5% trong tháng 02. Tác động của những
biện pháp trên làm cho áp lực lạm phát tăng lên. Gía cả tiêu
dùng tăng nhanh trong 4 tháng bắt đầu từ tháng 6 do giá
dầu quốc tế, giá dịch vụ công cộng và giá thuỷ sản tơi sống

tăng. Mặt khác, thị trờng tài chính biến động mạnh do giá
dầu quốc tế tăng, giá hàng cha thành phẩm giảm và do sự
đổ vỡ trong các kế hoạch kinh doanh của Daewoo Motor.
NHTW Hàn Quốc quyết định tăng lãi suất huy động qua
đêm lên 5%-5.25% vào tháng 10 năm 2000.
Nh vậy, NHTW Hàn Quốc sử dụng mục tiêu lạm phát
ngắn hạn trong vòng 01 năm khi xây dựng mục tiêu lạm phát
cho năm 1998 và năm 1999. Tuy nhiên, cần có một khoảng
thời gian trớc khi chính sách tiền tệ có tác động đến các
lĩnh vực kinh tế và một khi các tác động này đã xảy ra,
chúng sẽ diễn ra trong thời gian dài. Kết quả nghiên cứu này
cho thấy NHTW sẽ gặp khó khăn khi xây dựng và điều
hành chính sách tiền tệ chỉ dựa trên mục tiêu lạm phát
ngắn hạn trong 01 năm. Hơn nữa, chính sách tiền tệ thiển
cận này sẽ không đạt đợc một trong những thành quả chính
của hệ thống mục tiêu lạm phát đó là đạt đợc lòng tin của
dân chúng vào việc NHTW sẽ xây dựng và điều hành
chính sách tiền tệ nhất quán để giữ cho tỷ lệ lạm phát ổn
định trong khoảng thời gian trung hạn và dân chúng không
phải lo lắng đến sự trợt giá đồng bộ do lạm phát.
Vì vậy, bên cạnh mục tiêu lạm phát hàng năm, từ năm
2001 NHTW Hàn Quốc còn xây dựng thêm mục tiêu lạm phát


trung hạn để đảm bảo tính nhất quán của chính sách tiền
tệ trong trung hạn. Mục tiêu lạm phát trung hạn đợc xác định
ở mức bằng hoặc thấp hơn mục tiêu lạm phát hằng năm để
đảm bảo rằng NHTW sẽ giữ đợc lạm phát ở mức thấp và ổn
định trong dài hạn. Mục tiêu trung hạn đợc coi là mục tiêu
quan trọng không có thời gian ân hạn do nó chủ yếu để

thể hiện cam kết của NHTW nhằm hạn chế dự đoán lạm
phát lan rộng trong dân chúng. NHTW Hàn Quốc xây dựng
mục tiêu lạm phát trung hạn từ năm 2001 là 2,5% trên cơ sở
mức trung bình hằng năm từ sau năm 2001 [53].
1.3.2. Chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm
phát ở Newzealand
1.3.2.1. Cơ quan xác định mục tiêu và tình hình
kinh tế chính trị tại thời điểm công bố mục tiêu
Hệ thống điều hành chính sách tiền tệ của New
Zealand đợc quy định trong Đạo luật Ngân hàng Dự trữ
New Zealand đợc nghị viện thông qua vào tháng 12 năm
1989 và có hiệu lực vào tháng 1 năm 1990. Theo Đạo luật
này, Ngân hàng Dự trữ New Zealand có nghĩa vụ xây
dựng và điều hành chính sách tiền tệ nhằm đạt đợc và
duy trì sự ổn định của mức giá chung nhng không quy
định một mức chỉ tiêu lạm phát cụ thể. Chỉ tiêu này đợc Bộ
trởng Bộ Tài chính và Thống đốc NHTW thống nhất theo
thoả ớc mục tiêu chính sách (Policy Targets Agreement- PTA)
một cách công khai hoá và là định hớng đồng thời là căn cứ
để đánh giá quá trình điều hành chính sách tiền tệ trong
nhiệm kỳ thống đốc. PTA đầu tiên đợc ký vào 2/3/1990 đã


lợng hoá đợc mục tiêu lạm phát và thời hạn đạt đợc mục tiêu
đó.
Quyết định thông báo mục tiêu lạm phát của New
Zealand đợc thực hiện sau chiến dịch chống lạm phát thành
công. Việc công khai hoá mục tiêu lạm phát góp phần giảm
bớt tâm lý trông đợi lạm phát và làm cho mục tiêu của chính
sách tiền tệ đợc đáp ứng dễ dàng hơn.

1.3.2.2. Cơ chế hoạt động của chính sách mục
tiêu kiểm soát lạm phát
Có thể nói phần lớn cơ chế mục tiêu lạm phát của New
Zealand đợc quản lý bởi các PTA vì các thoả ớc này thể hiện
sự tuân thủ của Ngân hàng Dự trữ đối với Đạo luật 1989 về
mục tiêu chính sách tiền tệ. Mục tiêu chính sách tiền tệ của
New Zealand là đạt đợc và duy trì sự ổn định của mức giá
chung. Để đạt đợc mục tiêu cuối cùng này, Ngân hàng Dự
trữ New Zealand không sử dụng bất kỳ một mục tiêu trung
gian nào khác ngoài mục tiêu lạm phát và đồng thời không
chú ý nhiều lắm đến tốc độ tăng của tổng mức cung tiền
tệ và tín dụng khi nhận ra mối quan hệ thiếu hiệu quả
giữa các chỉ tiêu này với tỷ lệ lạm phát.
Cơ chế hoạt động nh sau:
+ Thứ nhất, mục tiêu đợc quản lý theo một khung dao
động mà không kiểm soát một mức lạm phát cụ thể.
+ Thứ hai, chỉ số thích hợp để thiết kế mục tiêu là chỉ
số giá CPI, và nó cũng là thớc đo căn bản để đánh giá hoạt
động của NHTW. Trong khung mục tiêu đề ra, NHTW tập
trung đến việc kiểm soát lạm phát cơ bản tức là tỷ lệ lạm


phát đã đợc điều hoà( điều chỉnh một cách đều đặn)
theo các yếu tố sức ép bên cầu và những kỳ vọng vào tơng
lai có loại bỏ những biến động lớn gây shock bên cung.
Trong cách tính CPI của mình, NHTW New Zealand loại trừ
sự biến động của lãi suất, những thay đổi trong kim ngạch
xuất nhập khẩu phát sinh từ sự tăng lên hay giảm xuống của
giá cả xuất hoặc nhập khẩu, sự thay đổi của thuế hàng hoá
và dịch vụ hoặc sự thay đổi các loại thuế gián thu khác, các

thảm hoạ tự nhiên hoặc các dịch bệnh lớn làm thiệt hại môi trờng sinh thái và gây nguy cơ tăng giá, những thay đổi của
mức đóng góp nghĩa vụ cho Chính phủ hoặc chính quyền
địa phơng làm ảnh hởng đáng kể đến mức giá.
+ Thứ ba: trong quá trình xây dựng thực thi chính sách
tiền tệ, do tác động của các biện pháp, chính sách luôn có
một độ trễ so với thời điểm đa ra chính sách, nên NHTW
cũng đã tính toán khoảng thời gian để đạt đợc mục tiêu và
sự khác biệt về thời gian để đạt đợc hai chỉ tiêu lạm phát
cơ bản và lạm phát mục tiêu.
+ Thứ t: NHTW là một cơ quan của Chính phủ, không
độc lập trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền
tệ nhng phải chịu trách nhiệm trớc Chính phủ trớc hoạt
động của mình. Đồng thời, tất cả các số liệu và dự đoán
liên quan đến lạm phát đợc cung cấp cho công chúng.
Về mặt kỹ thuật, tình trạng của nền kinh tế là một yếu
tố quan trọng trong việc đánh giá áp lực lạm phát và trong
nhiều trờng hợp, mâu thuẫn giữa tăng trởng và ổn định đợc giải quyết trong các quyết định về điều chỉnh mức độ


lạm phát. Điều này có nghĩa là mặc dù Ngân hàng Dự trữ
New Zealand tuyên bố theo đuổi mục tiêu duy nhất là ổn
định giá cả nhng trong hoạt động thực tế nó vẫn phải cân
nhắc đến các vấn đề khác của nền kinh tế.
1.3.2.3. Mục tiêu kiểm soát lạm phát và quá trình
thực hiện
Mục tiêu lạm phát đợc đa ra trong các PTA qua các năm
nh sau: 1990: 3-5%, năm 1991: 2,4- 4,5%, năm 1992: 1,53,5%, năm 1933-1996: 0-2%; từ năm 1997- nay: 0-3%.
Thời kỳ từ 3/1990 đến 3/1992: Tỷ lệ lạm phát giảm mạnh
trong phạm vi từ 0-2%, mức lãi suất cao ban đầu và sau đó
giảm mạnh, tỷ giá giảm dần, tăng trởng kinh tế âm và tỷ lệ

thất nghiệp tăng lên. Chính vì vậy, NHTW New Zealand đã
thực hiện một loạt các biện pháp nhằm nới lỏng chính sách
tiền tệ nh: Điều chỉnh giảm lãi suất hối phiếu ngân hàng
90 ngày từ 14,6% vào giữa tháng 8/ 1990 xuống 11,5% vào
giữa tháng 1/1991 và còn 8,8% vào cuối tháng 12/1991
đồng thời, tỷ giá cũng giảm một cách đáng kể.
Thời kỳ 6/1992 đến 3/1994: Ngân hàng tập trung vào
việc ổn định giá cả thay cho việc cố gắng làm giảm tỷ lệ
lạm phát. Từ tháng 3/1991 đến tháng 3/1992, chỉ số CPI và
mức lạm phát cơ bản giảm xuống 0,8% và 1,3% tơng ứng,
kinh tế New Zealand bắt đầu đợc khôi phục và nhiệm vụ
của NHTW là ổn định giá cả cho môi trờng phát triển.
Chính sách tiền tệ đợc nới lỏng hơn nữa khi lãi suất hối
phiếu 90 ngày giảm xuống còn 6,6%. Đến tháng 12/1992,
chính sách tiền tệ lại đợc thắt chặt, mức lãi suất hối phiếu


90 ngày lại tăng lên đến 7,8% do đó có sự xáo trộn nhỏ trên
thị trờng tài chính. Giai đoạn sau đó, kinh tế trong nớc tăng
trởng trong điều kiện kinh tế ổn định, lãi suất hối phiếu
90 ngày giảm xuống 5% vào tháng 12/1993, tâm lý trông
đợi lạm phát của công chúng giảm xuống.
Thời kỳ từ 6/1994 đến nay: Lạm phát và lãi suất tăng lên,
tỷ giá biến động theo chiều hớng cũ, tốc độ tăng trởng kinh
tế cao và tỷ lệ thất nghiệp tiếp tục giảm. Thời gian này,
khung mục tiêu hai lần bị vi phạm và sau đó đợc thiết kế lại
nh là kết quả của cuộc bầu cử.
áp lực lạm phát bắt đầu tăng lên từ năm 1994. Vấn đề
nổi lên là Ngân hàng Dự trữ không xác định đợc một cách
chắc chắn mức tăng trởng kinh tế tiềm năng của New

Zealand mà tại đó sự tăng trởng không tạo nên áp lực lạm
phát. Tốc độ tăng GDP là 6%- cao hơn dự tính đã tạo nên sự
nghi ngờ về việc khung mục tiêu lạm phát có thể bị phá vỡ,
mà điều này lại gây lên tâm lý trông chờ lạm phát của công
chúng. Để phản ứng lại, chính sách tiền tệ đã bắt đầu có
những điều chỉnh vào tháng 6/1994: lãi suất hối phiếu 90
ngày đợc điều chỉnh tăng lên, đến tháng 12/1994 đạt
9,5%, tỷ giá tăng lên khoảng 4,5% trong năm 1994. Đến thời
điểm gần cuối năm 1995, việc thắt chặt chính sách tiền
tệ vào cuối năm 1994 mới có hiệu quả: lạm phát danh nghĩa
giảm xuống nhanh vì sự tăng lên của lãi suất cho vay cầm
cố bất động sản tăng. Mặc dù vậy, mức lạm phát cơ bản chỉ
giảm xuống 2% dù NHTW mong muốn tỷ lệ này giảm xuống
còn 1,2%.


Với cơ chế hoạt động của New Zealand thì các quyết
định liên quan đến chính sách tiền tệ mang tính chất
chính trị khá rõ rệt. Tháng 12/1996, một liên hiệp nghị
viện giữa Đảng Dân tộc và Đảng thứ nhất New Zealand đã
đợc thống nhất trong thời hạn ba năm. Thông báo đầu tiên là
mục tiêu lạm phát có thể linh hoạt. PTA mới đợc ký giữa Bộ trởng Bộ Tài chính và Thống đốc vào ngày 10/12/1996 đã nới
rộng khung mục tiêu lạm phát là từ 0-3%. Việc mở rộng
khung mục tiêu làm cho NHTW bớt gặp khó khăn trong việc
kiểm soát mục tiêu và hạn chế đợc những mối đe doạ đối với
uy tín của nó [1, tr.37].
1.3.3. Chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát
lạm phát ở Việt Nam
Hiện nay, việc theo đuổi chính sách mục tiêu kiểm
soát lạm phát tại Việt Nam cha đợc thực hiện. Việt Nam

đang theo đuổi chính sách đa mục tiêu: ổn định giá trị
đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh và nâng
cao đời sống của nhân dân. Tuỳ từng thời điểm khác nhau
mà một mục tiêu nào đó trong hệ thống các mục tiêu trên
đợc coi trọng hơn; ví dụ nh trong những năm đầu của thập
kỷ 90 mục tiêu ổn định giá cả, kiểm soát lạm phát đợc coi
trọng nhất, còn những năm 1998-2000 thì ổn định tỷ giá
đợc coi trong hơn. Việc theo đuổi chính sách tiền tệ đa
mục tiêu trong điều kiện chuyển đổi kinh tế là tơng đối
hợp lý do cơ cấu kinh tế cha hoàn thiện, hệ thống ngân
hàng tài chính cha phát triển, đồng thời nhu cầu hỗ trợ vốn


cho các doanh nghiệp duy trì hoạt động và phát triển là
cần thiết.Từ việc lựa chọn mục tiêu CSTT nh trên, việc điều
hành CSTT trong thời gian qua đã đạt đợc những thành
công đáng kể.
Đánh giá chung về việc điều hành chính sách tiền
tệ của Việt Nam trong thời gian qua.
* Những thành công:
- Thứ nhất là sự góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy
lùi và kiểm soát đợc lạm phát, ổn định sức mua của đồng
Việt Nam. Sự ổn định trong việc điều hành kinh tế vĩ mô
đã tạo điều kiện giúp nền kinh tế Việt Nam đạt đợc tốc độ
tăng trởng cao và ổn định: năm 1995 tăng 9,54%, năm
1996 tăng 9,34%, năm 1997 tăng 8,15%, năm 1998 tăng
5,8%, năm 1999 tăng 4,8%; năm 2000 tăng 6,7%; năm 2001
tăng


6,85%;

năm

2002

tăng

7,04%;

năm

2003

tăng

7,24%.Các mục tiêu kinh tế xã hội khác nh chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm, thực hiện chính
sách xoá đói giảm nghèo... cũng đợc hỗ trợ bằng các biện
pháp cụ thể nh: tỷ trọng cho vay đối với các thành phần kinh
tế ngoài quốc doanh tăng lên, u tiên đầu t tín dụng vào các
ngành trọng điểm, mũi nhọn, cho vay ngời nghèo...
- Thành công thứ hai: Các công cụ của CSTT đợc xây dựng
tơng đối hoàn chỉnh chuyển dần từ sử dụng các công cụ trực
tiếp sang các công cụ gián tiếp. Cho đến nay, các công cụ
trực tiếp đợc sử dụng ít đi. NHNN chủ yếu điều hành CSTT
bằng các công cụ gián tiếp nh DTBB, chiết khấu, TCK, NVTT.
* Những tồn tại và hạn chế:



Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt đợc trong việc
thực hiện CSTT đa mục tiêu, thì Việt Nam còn có những
hạn chế tồn tại nhất định nh:
Do CSTT của Việt Nam theo đuổi đa mục tiêu nên đôi
khi mục tiêu này lại triệt tiêu mục tiêu kia, trong giai đoạn
vừa qua, một số chỉ tiêu không đạt yêu cầu Chính phủ đề
ra, đặc biệt là mục tiêu lạm phát.
Bảng 1.1: Tình hình thực hiện chính sách mục tiêu
lạm phát
Đơn vi tính: %
Năm

19
95

19
96

19
97

Chỉ tiêu
%

10

10

7


Thực
hiện%

12,
7

4,5

3,6

19
98

19
99

20
00

20
01

20
02

20
03

20
04


7-8

10

6

5

5-6

4-5

<5

9,0

0,1

-0,6

0,8

4

3

8,8

Nguồn: Báo cáo thờng niên NHNN Việt Nam các năm từ năm

1997-2003
Mặc dù không đạt chỉ tiêu đề ra nhng có những năm
lạm phát lại ở mức hợp lý góp phần thúc đẩy tăng trởng kinh
tế nh năm 1996 1997. Tuy nhiên, vấn đề dự báo và các
biện pháp nhằm kiểm soát lạm phát của nền kinh tế nói
chung và của NHNN nói riêng, thì rõ ràng rằng khả năng dự
báo lạm phát (cả về phơng pháp tính và vấn đề thu thập,
xử lý thông tin về diễn biến trên thị trờng) còn yếu kém,
đồng thời,sự chỉ đạo và điều hành giá cả tiêu dùng của


nền kinh tế còn mang tính thụ động và hiệu quả không
cao. Chính điều này đã làm cho lạm phát thực tế những
năm 1999- 2001 quá xa với chỉ tiêu đề ra và trở thành lạm
phát, còn năm 2004 lại vợt quá chỉ tiêu đề ra, gây nên
những ảnh hởng không nhỏ tới sự phát triển kinh tế.
Trong những năm gần đây, tỷ lệ tăng trong từng khối lợng tiền nh tỷ lệ tăng của M2 và M3 đôi khi thể hiện những
biến động khác nhau.Do đó, hiệu quả của tỷ lệ tăng M 2 với
vai trò là một mục tiêu trung gian của CSTT đợc coi là bị
giảm xuống. Hơn nữa, mối quan hệ chi phối giữa mục tiêu
hoạt động cơ sở MB với M2 ngày càng thiếu ổn định làm
cho việc sử dụng mục tiêu trung gian là M 2 để điều hành
CSTT bắt đầu có dấu hiệu kém hiệu quả.
Một vấn đề cần quan tâm nữa là, hiện nay mức độ
đô la hoá ở Việt Nam tơng đối cao đã có ảnh hởng không
nhỏ tới sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế cũng nh tới
việc hoạch định và điều hành CSTT, CSTG. Đồng thời đô la
hoá là làm cho mối quan hệ giữa TPTTT M 2 với giá cả và sản
lợng đôi khi không tuân thủ theo những quy luật vốn có. Vì
vậy, mục tiêu trung gian là M 2 đã không phát huy hết tác

dụng.
Về những hạn chế trong việc sử dụng các công cụ CSTT:
Có thể nói hạn chế lớn nhất trong việc thực thi CSTT ở Việt
Nam thời gian qua là việc xây dựng và sử dụng các công cụ
của CSTT. Hệ thống các công cụ, đặc biệt là các công cụ
gián tiếp, mới đợc xây dựng và cha có đủ điều kiện hoàn
thiện, sự phối kết hợp các công cụ cha thờng xuyên và thiếu
hiệu quả. Một số hạn chế khác nh việc xác định lợng tiền


cung ứng hàng năm cha chính xác và cha kịp thời so với các
biến động kinh tế, chính trị: Khối lợng cung ứng hàng năm
cha chính xác và cha kịp thời so với các biến động kinh tế,
chính trị, khối lợng cung ứng đợc dự đoán thờng quá lớn so
với nhu cầu thực tế, gây khó khăn trong việc kiểm soát tốc
độ tăng của TPTTT, tạo ra áp lực lạm phát đối với nền kinh tế
hay sự phối kết hợp trong việc sử dụng các chính sách cha
cao.
Kinh nghiệm của các nớc cũng chỉ ra rằng, các nớc theo
đuổi chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát thờng sử dụng
lãi suất ngắn hạn làm mục tiêu điều hành, bởi kênh truyền
dẫn này, có ảnh hởng rất hiệu quả đối với giá cả.Tuy nhiên,
muốn sử dụng lãi suất ngắn hạn là mục tiêu điều hành cần
phải thoả mãn các điều kiện sau: (i). Phải tồn tại một cơ chế
mà lãi suất ngắn hạn có thể đơn phơng quyết định lãi suất
dài hạn mà không có cơ chế ngợc lại; (ii). Cần thiết phải có sự
kiểm soát nhờ đó NHTW có thể sử dụng các công cụ chính
sách thích hợp để điều chỉnh lãi suất ngắn hạn; (iii). NHTW
có thể thông báo một cách có hiệu quả dự định của mình
tới dân chúng dới góc độ là sự thay đổi trong mục tiêu điều

chỉnh sẽ tác động tới lãi suất ngắn hạn và sau đó tới lãi suất
dài hạn thông qua sự thay đổi trong dự đoán lạm phát. ở
Việt Nam rõ ràng lãi suất trên thị trờng tiền tệ vẫn cha phải
là một công cụ quyền lực của NHNN và phần nào gây ra sự
suy giảm hiệu lực của CSTT. NHNN vẫn cha xác định đợc cơ
chế điều hành lãi suất ngắn hạn trên thị trờng tiền tệ một
cách chuẩn mực. Đồng thời, quan hệ giữa các loại lãi suất cha
diễn ra theo đúng quy luật cung cầu và lãi suất ngắn hạn


hầu nh không có ảnh hởng đến thị trờng vốn chung và dài
hạn [16, tr.91].
Một lý do nữa cũng không kém phần quan trọng trong
đó là việc xây dựng và điều hành CSTT của Việt Nam thời
gian qua còn nhiều bất cập và cha thực sự tạo đợc niềm tin
của công chúng.
* Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế nh sau: (1).
Do nền kinh tế Việt Nam đang trong thời kỳ chuyển đổi
và mở cửa với điểm xuất phát là một nền kinh tế yếu
kém.Lạc hậu chính vì vậy việc tiếp cận với những nền kinh
tế thị trờng nói chung còn gặp nhiều khó khăn. Riêng đối
với chính sách tiền tệ mới đợc xây dựng và thực thi trong
hơn 10 năm qua nền kinh tế còn nhiều bỡ ngỡ cả về phơng
diện lý thuyết lẫn thực tế; (2). Thị trờng tài chính, tiền tệ
kém phát triển làm cho công cụ của CSTT khó có điều kiện
phát huy hiệu quả. (3). Nền kinh tế Việt Nam đang ở trong
giai đoạn đầu nền kinh tế thị trờng cha ổn định. Chính
vì vậy, quy luật thị trờng vẫn cha phát huy hết tác dụng
của nó, quan hệ cung cầu trên thị trờng còn bị tác động
và can thiệp bởi nhiều yếu tố chủ quan không theo quy luật

thị trờng; (4). Ngân hàng nhà nớc cha thực sự là cơ quan
hoạch định CSTT mà về cơ bản chỉ là cơ quan thực thi
CSTT, thậm chí quá trình điều hành còn bị chi phối bởi các
quyết định của Chính phủ. CSTT phụ thuộc quá nhiều vào
các chính sách khác, thậm chí làm hộ công việc của các cơ
quan khác nh chính sách hội chợ và thông qua lãi suất, tỷ giá.
Khoanh nợ, xoá nợ của các NHTM thêm vào đó còn có khá
nhiều các cơ quan, tổ chức tham gia chỉ đạo và giám sát


việc xây dựng thực thi CSTT. (5). Sự thiếu hụt về thông tin
cũng nh những khó khăn trong việc thu thập dữ liệu cũng ảnh
hởng không nhỏ đến quy trình xây dựng; (6). Sự phối hợp
giữa các bộ ngành cha làm tốt và chặt chẽ, có những hạn chế
trong việc ban hành các chính sách, văn bản hớng dẫn thực
thi; (7). Trình độ cán bộ điều hành thực thi CSTT còn cha
đồng đều về mặt chuyên môn và kinh nghiệm.
1.3.4. Bài học kinh nghiệm đối với Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào
Lào là một nớc kém phát triển, nền kinh tế lạc hậu, chủ
yếu là kinh tế nông nghiệp chiếm 80%,và mới chuyển đổi từ
nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trờng. Vì vậy, Lào muốn theo đuổi đợc chính sách mục tiêu
kiểm soát lạm phát cần phải đạt đợc một số vấn đề cơ bản
sâu đây:
1.Việc xác định thời điểm tốt nhất để tiến hành thực
hiện mục tiêu là thời điểm nào?. Có thể nói đây là yếu tố
ảnh hởng đến sự thành công hay thất bại của CSTT.Thông
thờng thời điểm tốt nhất để tiến hành là sau khi đạt đợc
một số thành công ban đầu trong việc kiểm soát lạm phát.

2. Tính công khai minh bạch và sự giải thích có hiệu
quả của chiến lợc CSTT.Chính là mục tiêu lạm phát phải đợc
chuyển tải rộng rãi đến công chúng và thị trờng thông qua
các phơng tiện hợp lý nhất, kết hợp với việc chỉ dẫn tập
quán..., NHTW cũng phải thờng xuyên phổ biến CSTT tới dân
chúng để tạo lập đợc sự hỗ trợ và sự hiểu biết mục tiêu, phải
xác định cơ quan thiết lập và thực hiện mục tiêu nhằm xác


định rõ trách nhiệm của NHTW, Bộ tài chính. Có thể là
NHTW, Chính phủ hoặc cả hai cơ quan thiết lập mục tiêu,
điều này có nghĩa là mục tiêu lạm phát đợc xác định trên
cơ sở cấu trúc hoặc là áp lực chính trị.Nhng dù sao thì
NHTW cũng cần phải có đợc sự độc lập tơng đối của mình
trong việc thực thi chính sách này.
3. Việc lợng hoá chỉ tiêu, chỉ số lạm phát phải đợc công
chúng quan tâm và hiểu đợc một cách rõ ràng, chính xác,
đúng lúc,đồng thời nó cũng phải loại trừ đợc những ảnh hởng của những cú shock giá cả và những ảnh hởng từ các
hoạt động của CSTT đợc thực hiện trớc đây.
4. Việc xác định mức độ linh hoạt của CSTT, trong đó
phải xác định đợc mục tiêu lạm phát là một con số cụ thể
hay đợc giới hạn trong một khung mục tiêu nhất định? Độ
lệch ngoài mục tiêu lạm phát đợc phép là bao nhiêu? Mục tiêu
lạm phát có đợc thay đổi theo thời gian hay không?.
Nh chúng ta đã biết những cú sốc có thể ảnh hởng đến
tỷ lệ lạm phát bất cứ lúc nào và những ảnh hởng của CSTT là
không ổn định, cho nên tỷ lệ lạm phát thờng có biến động
lớn.Vì vậy, mục tiêu lạm phát nên đợc xác định bằng một
khung nhất định để có thể thích nghi với sự biến động
của lạm phát. Đồng thời kinh nghiệm các nớc cũng chỉ ra

rằng, việc duy trì một khung lạm phát hẹp, có thể dẫn tới sự
biến động của các công cụ hành chính mạnh hơn mức mà
NHNN mong muốn và có thể dẫn tới sự thiếu ổn định của
các công cụ nếu những biến động này quá mạnh. Tuy nhiên,
với một khung lạm phát rộng sẽ làm cho công chúng nghi ngờ
về cam kết của NHNN trong việc thực thi mục tiêu lạm phát.


Điều này làm phát sinh phơng án tiếp cận thứ hai là mục tiêu
lạm phát là một con số cụ thể.Cách tiếp cận này là hạn chế
tính linh hoạt của CSTT trong việc đáp ứng lại các cú sốc, mà
hiệu quả của chúng là làm cho tỷ lệ lạm phát bị lệch ngoài
mục tiêu đề ra. Một vấn đề nữa cần phải quan tâm là mục
tiêu lạm phát có thể thay đổi theo thời gian, có nghĩa là sử
dụng thời gian nh một công cụ để làm tăng tính linh hoạt
của chính sách mục tiêu lạm phát.
5. Việc xác định khung thời gian hợp lý đối với mục tiêu
lạm phát: thờng thì khi theo đuổi chính sách này, NHTW
khi thiết lập chính sách cần phải tính toán khung thời gian
nh thế nào cho hợp lý; bởi vì, CSTT ảnh hởng lên lạm phát với
độ lệch về thời gian tơng đối dài; do đó, CSTT không thể
đạt đợc mục tiêu lạm phát cụ thể ngay lập tức mà chỉ có thể
đạt đợc sau một thời gian nhất định. Ngoài ra các cú sốc kinh
tế có thể xuất hiện trong khoảng thời gian giữa thời điểm
khởi xớng CSTT và thời điểm phát huy tác dụng của nó.



×