Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Phân tích phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại và thực tiễn áp dụng tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.93 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các giao dịch thương mại ngày càng trở
nên đa dạng hơn. Điều này tất yếu dẫn đến những tranh chấp phát sinh từ những
quan hệ này trở nên phức tạp. Tranh chấp thương mại là những tranh chấp phát sinh
trong lĩnh vực thương mại như: mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong
mối quan hệ cụ thể, mâu thuẫn phát sinh từ hoạt động thương mại, mâu thuẫn phát
sịnh chủ yếu giữa các thương nhân. Mặc dù tranh chấp không phải là điều mong
muốn của các thương nhân song các bên không thể khẳng định rằng sẽ không có bất
kỳ tranh chấp nào xảy ra trong các thương vụ mà họ tham gia.
Vì vậy, điều quan trọng mà các thương nhân cần nhìn nhận trước đó là giải
pháp nào cần thực hiện nếu có tranh chấp phát sinh. Hiện nay, trên thế giới cũng như
Việt Nam tồn tại bốn phương thức giải quyết tranh chấp thương mại đó là: thương
lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và tòa án. Thực tiễn cho thấy trong những giải
pháp nói trên và trừ những vụ việc đặc biệt thì phương thức trọng tài thương mại
thường được các bên lựa chọn bởi các ưu điểm vượt trội của nó.

NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
1. Khái niệm trọng tài thương mại
Theo khoản 1 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định về trọng tài
thương mại: Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên
thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này.
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại không
mang ý chí quyền lực nhà nước (không nhân danh quyền lực nhà nước như phán
quyết của toà án) mà chủ yếu được giải quyết dựa trên nền tảng ý chí tự định đoạt
của các bên tranh chấp hoặc phán quyết của bên thứ ba độc lập (được các bên lựa
chọn) theo thủ tục linh hoạt, mềm dẻo. Ngoài ra, phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại này còn đảm bảo tối đa uy tín cũng như bí mật của các bên tranh chấp,
góp phần củng cố và duy trì mối quan hệ hợp tác lâu dài giữa các bên.
2. Các hình thức trọng tài thương mại
2.1. Trọng tài vụ việc.


Trọng tài vụ việc là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp thoả thuận
thành lập để giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và trọng tài sẽ tụ chấm dứt tồn tại
khi giải quyết xong vụ việc.
1


Bản chất của trọng tài vụ việc được thể hiện qua các đặc trưng cơ bản sau:
- Trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự chấm dứt hoạt
động (tự giải thể) khi giải quyết xong tranh chấp.
- Trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực, không có bộ máy điều hành (vì chỉ
được thành lập để giải quyết vụ tranh chấp theo sự thoả thuận của các bên) và không
có danh sách trọng tài viên riêng.
- Trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình.
Trọng tài vụ việc lần đầu tiên được quy định tại Pháp lệnh trọng tài thương mại
một cách cụ thể, rõ ràng về cách thức hình thành, quy trình tố tụng cũng như giá trị
của phán quyết và cơ chế bảo đảm thi hành quyết định của trọng tài vụ việc. Trước
khi ban hành Pháp lệnh trọng tài thương mại, hình thức trọng tài vụ việc mới chỉ
được ghi nhận là một phương thức giải quyết tranh chấp mà chưa có bất kì quy định
nào về cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vụ việc. Bởi vậy, pháp luật trọng
tài vụ việc ở Việt Nam suốt thời gian dài vẫn dậm chân tại chỗ, chỉ đến khi ban hành
Pháp lệnh trọng tài thương mại thì diện mạo trọng tài vụ việc ở Việt Nam mới được
khắc họa rõ nét.
So với trọng tài thường trực thì trọng tài vụ việc có một số ưu thế:
- Có thể giải quyết nhanh chóng vụ tranh chấp và ít tốn kém, bởi xét trong cùng
trọng tài vụ việc vẫn chủ yếu dựa vào ý chí của các bên tranh chấp;
- Quyền lựa chọn trọng tài viên của các bên đương sự không bị giới hạn bởi danh
sách trọng tài viên sẵn có như hình thức trọng tài thường trực mà có thể lựa chọn bất
kì trọng tài viên nào trong và ngoài danh sách trọng tài viên của bất kì trung tâm
nào;
- Các bên tranh chấp có quyền rộng rãi trong việc xác định quy tắc tố tụng để giải

quyết tranh chấp giữa các bên. Trong khi đó, ở hình thức trọng tài thường trực, các
bên chủ yếu ràng buộc bằng quy tắc tố tụng của chính trung tâm trọng tài mà các
bên đã lựa chọn.
2.2. Trọng tài thường trực
Ở các nước trên thế giới, trọng tài thường trực thường được tổ chức dưới những
hình thức đa dạng như: các trung tâm trọng tài, các hiệp hội trọng tài hay các viện
trọng tài, nhưng chủ yếu và phổ biến được tổ chức dưới dạng trung tâm trọng tài.
Về bản chất, trọng tài ở các nước trên thế giới đều tồn tại dưới hình thức trọng
tài phi chính phủ, không nằm trong bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, vẫn có những
2


ngoại lệ mang sắc thái riêng trong pháp luật trọng tài ở một số nước Châu Á như:
Trung Quốc, Thái Lan.
Theo pháp luật Việt Nam, trọng tài thường trực được tổ chức dưới dạng các trung
tâm trọng tài. Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp nhân, có
con dấu, có tài khoản riêng và trụ sở giao dịch ổn định.
Các trung tâm trọng tài có một số đặc trưng cơ bản sau đây:
- Các trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, không nằm trong hệ thống cơ
quan nhà nước.
Các trung tâm trọng tài được thành lập theo sáng kiến của các trọng tài viên sau
khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép, chứ không phải được thành lập
bởi nhà nước. Các trung tâm trọng tài không nằm trong hệ thống cơ quan quản lý
nhà nước, cũng không thuộc hệ thống cơ quan xét xử nhà nước. Hoạt động của trung
tâm trọng tài theo nguyên tắc tự trang trải mà không cấp kinh phí hoạt động từ ngân
sách nhà nước.
- Các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, tồn tại độc lập với nhau.
Trung tâm trọng tài là tổ chức thỏa mãn đầy đủ các điều kiện của pháp nhân,
bao gồm: được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc lập
với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh mình

tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Mỗi trung tâm trọng tài là một pháp nhân, tồn tại bình đẳng và độc lập với các
trung tâm khác. Ngoài sự độc lập bình đẳng và quan hệ hợp tác, giữa các trung tâm
trọng tài không tồn tại quan hệ phụ thuộc cấp trên, cấp dưới như hệ thống các cơ
quan tài phán nhà nước.
- Tổ chức và quản lý ở các trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ.
Cơ cấu tổ chức của trung tâm trọng tài gồm có ban điều hành và các trọng tài
viên của trung tâm.
Ban điều hành của trung tâm trọng tài gồm có chủ tịch, một hoặc các phó chủ
tịch trung tâm trọng tài và có thể có tổng thư kí trung tâm trọng tài do chủ tịch trung
tâm trọng tài cử.
Bên cạnh ban điều hành, trung tâm trọng tài còn có các trọng tài viên trong
danh sách trọng tài viên của trung tâm trọng tài. Các trọng tài viên tham gia vào việc
giải quyết tranh chấp khi đươc chọn hoặc chỉ định.
- Mỗi trung tâm trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và có quy tắc tố tụng
riêng.
3


Mỗi trung tâm trọng tài tự xác định lĩnh vực hoạt động của mình tùy thuộc vào
khả năng chuyên của đội ngũ trọng tài viên và phải được ghi rõ trong điều lệ của
trung tâm trọng tài. Trong quá trình hoạt động, các trung tâm trọng tài có quyền mở
rộng hoặc thu hẹp phạm vi lĩnh vực hoạt động nhưng phải được sự chuẩn thuận của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài được tiến hành bởi các trọng tài viên của
trung tâm.
Mỗi trung tâm trọng tài đều có danh sách riêng về trọng tài viên trung tâm. Việc
chọn hoặc chỉ định trọng tài viên tham gia hội đồng trọng tài hoặc trọng tài viên duy
nhất để giải quyết vụ tranh chấp chỉ được giới hạn trong danh sách trọng tài viên của
trung tâm trọng tài. Vì vậy, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài chỉ được tiến

hành bởi các trọng tài viên của chính trung tâm.
3. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại
3.1. Nguyên tắc thỏa thuận trọng tài
Nguyên tắc này được hiểu như sau: tranh chấp thương mại chỉ được giải quyết
bằng trọng tài nếu các bên có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài có thể lập
trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp (Khoản 1 Điều 5 Luật trọng tài thương mại
2010). Khác với giải quyết tranh chấp tại tòa án, việc giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài đòi hỏi phải có sự thỏa thuận giữa các bên. Đây là cơ sở cho các bên tiến
hành giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại. Thỏa thuận trọng
tài không chỉ là hình thức pháp lý ghi nhận sự thỏa thuận của các bên mà còn là một
căn cứ pháp lý để dựa vào đó bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm thực
hiện nghĩa vụ. Đây là nguyên tắc quan trọng và có tính quyết định đối với việc có
hay không áp dụng hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Nếu không có
nguyên tắc này thì những nguyên tắc sau cũng trở nên vô nghĩa và không cần thiết.
Chính vì vậy mà nó được đưa lên làm nguyên tắc đầu tiên khi tiến hành xem xét một
vụ tranh chấp bằng hình thức trọng tài thương mại.
3.2. Nguyên tắc trọng tài viên độc lập, vô tư, khách quan
Khi giải quyết tranh chấp, trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và
tuân thủ quy định của pháp luật (Khoản 2, Điều 4 Luật trọng tài thương mại 2010).
Đây là nguyên tắc trung tâm của trọng tài thương mại, đồng thời cũng là yêu cầu đặt
ra đối với các chủ thể giải quyết tranh chấp vì điều đó có thể làm ảnh hưởng đến tính
đúng đắn, chính xác, khách quan và khả năng thi hành phán quyết của trọng tài.
4


Để đảm bảo nguyên tắc này, Luật trọng tài thương mại năm 2010 đã quy định
khá cụ thể về tiêu chuẩn trọng tài viên (Điều 20), Quyền, nghĩa vụ của trọng tài viên
(Điều 21). Những quy định này giúp cho việc đảm bảo vụ tranh chấp được giải
quyết một cách công bằng, chính xác và hợp lý đảm bảo tốt nhất quyền lợi cho các
bên tranh chấp.

3.3. Nguyên tắc tự định đoạt
Trong thỏa thuận trọng tài các bên được đảm bảo quyền tự định đoạt tối đa.
Trước tiên, các bên có thể thỏa thuận lựa chọn bất kỳ Trung tâm trọng tài nào hoặc
tự thành lập Hội đồng trọng tài để giải quyết các tranh chấp của mình, các bên có
quyền chỉ định trọng tài viên, địa điểm, thời gian, ngôn ngữ giải quyết tranh chấp.
3.4. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được tiến hành công khai, trừ trường
hợp các bên có thỏa thuận khác (khoản 4, Điiều 4 Luật trọng tài thương mại năm
2010)
Nguyên tắc này xuất phát từ tính đặc thù của hoạt động kinh doanh. Theo
nguyên tắc này, các buổi xét xử trọng tài chỉ gồm trọng tài viên, các đương sự và các
bên có liên quan đến vụ tranh chấp. Những người không có trách nhiệm và không
liên quan đến vụ tranh chấp không được tham dự. Và quyết định của trọng tài cũng
như các căn cứ để trọng tài đưa ra phán quyết sẽ không được công bố công khai nếu
các bên đương sự không có yêu cầu.
3.5. Phán quyết trọng tài là chung thẩm (khoản 5, điều 4 Luật trọng tài thương
mại năm 2010)
Nguyên tắc này bắt nguồn từ bản chất của thỏa thuận trọng tài là nhân danh ý
chí, quyền tự định đoạt của đương sự. Để đảm bảo việc các bên phải có nghĩa vụ thi
hành phán quyết trọng tài thì Luật trọng tài thương mại 2010 có quy định phán quyết
của trọng tài được thi hành ngay (trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày ra phán quyết).
Tóm lại, tất cả những nguyên tắc giải quyết tranh chấp mà Luật trọng tài thương
mại năm 2010 đã đặt ra đều nhằm mục đích giúp cho các bên giải quyết tranh chấp
một cách hiệu quả và đảm bảo tốt nhất nhu cầu về một cơ chế giải quyết tranh chấp
tối ưu cho doanh nghiệp.
II. THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI CỦA
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
Trọng tài thương mại được thành lập là để giải quyết các tranh chấp thương
mại. Nhưng tranh chấp thương mại cũng chỉ có thể thuộc thẩm quyền giải quyết của
5



trọng tài thương mại nếu các bên có tranh chấp có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận
trọng tài này có hiệu lực.
Khác với thẩm quyền của tòa án, thẩm quyền của trọng tài chỉ là thẩm quyền
vụ việc, nếu được các bên có “vụ việc” lựa chọn đích danh. Các nguyên tắc phân
định thẩm quyền theo lãnh thổ, theo trụ sở hoặc chỗ ở của bị đơn và theo sự thỏa
thuận của nguyên đơn không được áp dụng trong tố tụng trọng tài. Thẩm quyền của
trọng tài không được phân định theo lãnh thổ vì các bên có tranh chấp có quyền thỏa
thuận, lựa chọn bất kì một tổ chức trọng tài nào để giải quyết tranh chấp cho họ,
không phụ thuộc vào nơi cũng như trụ sở của nguyên đơn hay bị đơn, cũng không
phân định theo cấp xét xử, vì chỉ có một cấp trọng tài và lại càng không phân định
theo sự lựa chọn của nguyên đơn, vì trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết nếu các
bên có thỏa thuận trọng tài.
Khi các bên đã thỏa thuận đưa vụ tranh chấp ra giải quyết bằng con đường
trọng tài, tức là họ đã trao cho hội đồng trọng tài thẩm quyền giải quyết tranh chấp
và phủ định thẩm quyền xét xử đó của Tòa án trừ khi thỏa thuận trọng tài vô hiệu
hoặc các bên hủy thỏa thuận trọng tài.
Nói tóm lại, trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp nào
được pháp luật quy định là tranh chấp thương mại, tranh chấp này phát sinh trong
hoạt động thương mại giữa cá nhân kinh doanh và tổ chức kinh doanh và các bên có
thỏa thuận trọng tài. Nếu thiếu một trong hai điều kiện trên, vụ việc sẽ không thuộc
thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại.
III. ƯU ĐIỂM VÀ NHƯỢC ĐIỂM CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI KHI
GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI
1. Ưu điểm
Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp kết hợp được các ưu điểm của
phương thức thương lượng, hòa giải và tòa án, bởi vậy rất phù hợp để giải quyết các
tranh chấp phát sinh từ quan hệ thương mại. Bản thân các nhà kinh doanh cũng rất
ưa chuộng phương thức trọng tài. So với thương lượng, trung gian hòa giải và tòa án
thì thủ tục trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh có nhiều

ưu điểm.
Thứ nhất, quyết định của Trọng tài là chung thẩm và vì vậy nó có giá trị bắt
buộc đối với các bên, các bên không thể chống án hay kháng cáo. Việc xét xử tại
Trọng tài chỉ diễn ra ở một cấp xét xử, đó cũng chính là điều khác biệt cơ bản so với
xét xử tại Tòa án bởi thông thường xét xử tại Tòa án diễn ra ở hai cấp. Hội đồng
6


trọng tài sau khi tuyên phán quyết xong là đã hoàn thành nhiệm vụ của mình và
chấm dứt sự tồn tại.
Thứ hai, hoạt động của Trọng tài diễn ra liên tục vì Hội đồng Trọng tài xét xử
vụ kiện là do các bên thỏa thuận lựa chọn, hoặc được chỉ định để giải quyết vụ kiện,
do đó các trọng tài viên là người theo vụ kiện từ đầu đến cuối, vì vậy họ có điều kiện
để nắm bắt và tìm hiểu thấu đáo các tình tiết của vụ việc. Chính điều này có lợi ngay
cả khi các bên luôn hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán, trọng
tài có thể hỗ trợ các bên đạt tới một thỏa thuận, điều mà ít khi xảy ra ở Tòa án.
Thứ ba, trọng tài xét xử bí mật bởi tiến trình giải quyết của Trọng tài có tính
riêng biệt. Hầu hết các quy định pháp luật về Trọng tài của các quốc gia đều thừa
nhận nguyên tắc Trọng tài xử kín nếu các bên không có thỏa thuận khác. Đây là một
ưu điểm quan trọng bởi các doanh nghiệp không muốn các chi tiết của vụ tranh chấp
bị đem ra công khai trước Tòa án, điều mà các doanh nghiệp luôn coi là tối kỵ trong
hoạt động kinh doanh của mình.
Thứ tư, khi xét xử, trọng tài cho phép các bên được sử dụng kinh nghiệm của
các chuyên gia và điều này được thể hiện ở quyền chọn Trọng tài viên của các bên.
Các bên có thể chọn một Hội đồng Trọng tài dựa trên trình độ, năng lực, sự hiểu biết
vững vàng của họ về pháp luật thương mại quốc tế, về các lĩnh vực chuyên biệt như
licensing, leasing, xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ, sở hữu trí tuệ, chứng
khoán...
Thứ năm, hoạt động xét xử của Trọng tài liên tục do đó tiết kiệm thời gian, chi
phí và tiền bạc cho doanh nghiệp. Trong khi đó giải quyết tranh chấp bằng Tòa án

thường rất khó đạt được điều này bởi Tòa án phải giải quyết nhiều tranh chấp cùng
một lúc, do đó tình trạng án tồn đọng là điều không thể tránh khỏi.
Thứ sáu, giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thể hiện tính năng động, linh hoạt
và mềm dẻo, do đó để thích ứng hơn so với giải quyết tranh chấp bằng Tòa án. Tòa
án khi xét xử phải tuân thủ một cách đầy đủ và nghiêm ngặt các quy định có tính
chất quy trình, thủ tục, trình tự được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự 2004 và
các văn bản hướng dẫn liên quan. Thực tiễn cho thấy giải quyết tranh chấp bằng
Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) thường kéo dài tối đa là 6 tháng,
trong khi đó giải quyết tranh chấp tại Tòa án có trường hợp kéo dài mấy năm.
Thứ bảy, việc xét xử tranh chấp bằng Trọng tài đảm bảo tính bí mật cao và vì
vậy sẽ tránh cho các bên nguy cơ làm tổn thương đến mối quan hệ hợp tác làm ăn
vốn có, trong khi đó việc xét xử công khai tại Tòa án thường dễ làm cho các bên rơi
7


vào thế đối đầu nhau với kết cục là một bên được thừa nhận như một người chiến
thắng, còn bên kia thấy mình là một kẻ thua cuộc.
Việc xét xử tranh chấp bằng Trọng tài trên thực tế đã làm giảm đáng kể mức độ
xung đột, căng thẳng của những bất đồng bởi nó diễn ra trong một không gian kín,
nhẹ nhàng, mang nặng tính trao đổi đề tìm ra sự thật khách quan của vụ việc. Đó
chính là những yếu tố tạo điều kiện để các bên duy trì được quan hệ đối tác, quan hệ
thiện chí đối với nhau. Hơn nữa, sự tự nguyện thi hành quyết định của một bên sẽ
làm cho bên kia có sự tin tưởng tốt hơn trong quan hệ làm ăn có thể diễn ra trong
tương lai.
2. Nhược điểm
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu thế, phương thức giải quyết tranh chấp thương
mại bằng trọng tài thương mại cũng có những khó khăn, trở ngại khó tránh khỏi, đó
là:
Thứ nhất, sự thành công của quá trình giải quyết tranh chấp bằng con đường
trọng tài thương mại chủ yếu phụ thuộc vào thái độ thiện chí và hợp tác của các bên

tranh chấp. Mà các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay vẫn chưa thực sự quan tâm
nhiều đến việc lường trước các tranh chấp sẽ phát sinh nên vẫn còn tình trạng mơ hồ
về hình thức trọng tài thương mại nói riêng, cũng như các phương thức giải quyết
tranh chấp khác nói chung.
Thứ hai, việc thực thi các kết quả đã đạt được trong quá trình giải quyết tranh
chấp bằng con đường trọng tài phần lớn phụ thuộc vào sự tự nguyện thi hành của
bên có nghĩa vụ thi hành mà không hề có cơ chế pháp lý vững chắc để đảm bảo thi
hành và nếu có thì việc thực thi đó thường phức tạp và tốn kém.
IV. THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI TRONG VIỆC GIẢI
QUYẾT CÁC TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
1. Thực trạng về việc giải quyết các tranh chấp thương mại bằng trọng tài
thương mại ở Việt Nam
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp khá hiệu quả và khá
thông dụng trên thế giới, song tại Việt Nam thì trọng tài thương mại lại rất mờ nhạt.
Con đường tài phán này hiện không nhận được sự quan tâm của doanh nghiệp. Điểm
qua hoạt động của các trung tâm trọng tài trong thời gian gần đây, ta có thể thấy
được thực trạng trong việc áp dụng hình thức trọng tài thương mại trong việc giải
quyết tranh chấp ở Việt Nam hiện nay, đó là:
8


- Thứ nhất, về phía các trung tâm trọng tài: Theo kết quả nghiên cứu về sự cần
thiết và việc sử dụng trọng tài trong giải quyết tranh chấp thương mại Việt Nam do
Bộ tư pháp ban hành mới đây cho thấy có đến 75% ý kiến cho rằng cần thiết thành
lập trung tâm trọng tài, tuy nhiên hiện nay trên cả nước mới có 6 trung tâm trọng tài
(3 trung tâm ở Hà Nội, 2 trung tâm ở Tp.HCM, 1 trung tâm tại Cần Thơ). Thực ra
trước đó cũng có một trung tâm trọng tài tại Bắc Giang, tuy nhiên trung tâm này
thành lập ra khó khăn về trụ sở rồi cũng giải tán. Tuy nhiên, ngoài Trung tâm trọng
tài Quốc tế Việt Nam (bên cạnh phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam VIAC) là còn có doanh nghiệp gõ cửa, các trung tâm trọng tài khác hầu như “ngồi
chơi xơi nước”.

- Thứ hai, về phía các doanh nghiệp: Theo tài liệu thống kê, có tói 84% doanh
nghiệp không biết đến việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Điều này cũng dễ
hiểu bởi còn nhiều doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh theo lối cũ, khi xảy ra tranh
chấp thì “nhờ” cơ quan chủ quản hoặc Bộ chủ quản giải quyết.
Bên cạnh đó, theo thống kê của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, những năm
gần đây, trong các vụ tranh chấp thương mại, có đến gần 60% vụ việc xảy ra giữa
các doanh nghiệp trong nước với các đối tác nước ngoài. Và doanh nghiệp Việt Nam
thường thua thiệt trước các doanh nghiệp nước ngoài do thiếu kinh nghiệm thương
trường và kém hiểu biết về trọng tài thương mại. Có thể xem ví dụ sau như một điển
hình cho việc thiếu hiểu biết về trọng tài thương mại:
Ví dụ 1: VIAC đã từng phải từ chối giải quyết tranh chấp mua bán hàng hóa
giữa một công ty Đài Loan và chi nhánh công ty A có trụ sở tại Bà Rịa – Vũng Tàu
với lý do điều khoản về cơ quan giải quyết tranh chấp trong hợp đồng ghi rất chung
chung là “nếu có tranh chấp sẽ nhờ trọng tại Việt Nam giải quyết”. Do mất nhiều
thời gian để nhờ trọng tài phân xử, cuối cùng vụ việc được đưa ra Tòa án nhân dân
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu giải quyết nhưng cũng bị đình chỉ vì đã quá thời hiệu khởi
kiện.
Ví dụ 2: Vừa qua, công ty Dâu tằm tơ Việt Nam đã bị trọng tài Geneva (Thụy
Sĩ) buộc phải thanh toán gần nửa triệu USD cho công ty Kyunggi Silk (Hàn Quốc)
trong một vụ tranh chấp kéo dài 3 năm, kèm theo đó Công ty Dâu tằm tơ Việt Nam
Việt Nam phải thanh toán gần 40.000 USD tiền phí trọng tài.
- Thứ ba, về phía trọng tài viên: Các trọng tài viên hiện nay đều là những người
kiêm nhiệm trong các lĩnh vực thương mại. Vì vậy, một số trọng tài viên còn chưa
chuyên nghiệp. Cùng với đó, các tranh chấp ngày càng sâu và phức tạp, nhất là
9


những tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Hiện nay, cũng tồn tại thực trạng có một số
ít trọng tài viên chưa nắm chắc kiến thức pháp luật quốc tế bao gồm luật các nước và
các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã là thành viên hoặc sắp là thành viên, từ đó sẽ

ảnh hưởng đến chất lượng xét xử.
- Thứ tư, về phía các quy định của pháp luật hiện hành: Bức xúc lớn nhất hiện
nay còn vướng mắc là trong việc thi hành phán quyết trọng tài. Mặc dù, theo Luật
trọng tài thương mại và bộ luật tố tụng dân sự, quyết định của trọng tài có giá trị như
một bản án nhưng Pháp lệnh thi hành án lại không quy định điểm này. Từ đó cơ
quan thi hành án có thể dựa vào đây để không thi hành các quyết định của trọng tài.
Và như vậy, các bên tranh chấp bị mất long tin vào trọng tài và lại tin tưởng vào Tòa
án nhiều hơn.
2. Nguyên nhân
Nhìn chung, các Trung tâm Trọng tài hoạt động chưa hiệu quả vì trọng tài tuy
không phải là một chế định quá mới mẻ, nhưng các doanh nghiệp của Việt Nam
chưa có thói quen sử dụng dịch vụ trọng tài như là một trong những phương thức cơ
bản để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình hoạt động. Đến nay, số
lượng giải quyết tranh chấp qua trọng tài kinh tế hết sức nhỏ. Tại thành phố Hà Nội,
tranh chấp kinh tế bằng hình thức trọng tài năm 2005, chỉ có 13 vụ, năm 2004,
khoảng 10 vụ. Ở TP Hồ Chí Minh - nơi có nền kinh tế sôi động, số lượng doanh
nghiệp chiếm phần lớn so với cả nước, tuy nhiên, số vụ đưa ra giải quyết bằng trọng
tài chiếm một tỷ lệ nhỏ so với số lượng tranh chấp xảy ra trong đời sống thương mại
ở nước ta. Sở dĩ như vậy có thể kể ra một số nguyên nhân chủ yếu như sau:
- Ý thức về pháp luật của các doanh nghiệp và việc kinh doanh trong điều kiện
cạnh tranh khốc liệt làm cho các chủ thể trong quan hệ đều vi phạm hợp đồng. Trong
một giao dịch, bên này vi phạm việc này, bên kia sai việc khác; hoặc hôm nay, bên
này sai, thì ngày mai, bên kia sai; người ta tìm cách thương thuyết “tay đôi” để giải
quyết ổn thoả, nhằm giữ quan hệ làm ăn lâu dài. Vì lẽ đó, việc đưa nhau ra xử lý
bằng trọng tài hoặc toà án các bên đều không muốn. Theo số liệu của Phòng kinh tế
thương mại Việt Nam, giải quyết tranh chấp kinh tế qua toà án và trọng tài chỉ chiếm
khoảng 49% số lượng các vụ tranh chấp trong thực tế.
- Nhiều doanh nghiệp, cá nhân không am hiểu những vấn đề liên quan đến tố
tụng thông qua con đường trọng tài thương mại. Trước đây, trong thời kỳ bao cấp, ở
nước ta có trọng tài kinh tế nhà nước - cơ quan này quản lý hợp đồng kinh tế giữa

các chủ thể kinh tế nhà nước. Nhưng việc đó đã bãi bỏ lâu. Từ đó, các doanh nghiệp
10


và nhân dân chỉ quen tranh chấp bằng con đường tố tụng tại toà kinh tế. Nghiên cứu
cho thấy, hầu hết các hợp đồng kinh tế chỉ có quy định hai biện pháp tranh chấp là tự
thương lượng giải quyết, nếu không giải quyết được thì đưa ra giải quyết tại toà án
có thẩm quyền. Trong một ngàn hợp đồng, chỉ có một vài hợp đồng chế định việc
tranh chấp bằng trọng tài thương mại. Như vậy, phương pháp tự xử và xử lý tranh
chấp tại toà đã ăn sâu vào tiềm thức của các doanh nghiệp.
- Trọng tài thương mại là tổ chức phi Chính phủ. Chúng ta sống trong hệ thống
chính trị mà người dân nghĩ rằng chỉ có các quyết định của Đảng và Nhà nước mới
có hiệu lực và tính khả thi. Với chiều dài của lịch sử, với thực tiễn cuộc sống đã làm
cho dân ta nhận thức một cách không đầy đủ về xã hội dân sự. Đây là nhận thức về
bề nổi, nhưng lại ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động của tổ chức phi Chính phủ.
Thực trạng này, phần lớn cũng do các yếu tố pháp lý gây nên. Pháp lệnh về trọng tài
vẫn còn có những hạn chế, làm giảm hiệu lực hoạt động của các trung tâm trọng tài.
Một phán quyết của trọng tài dù có chính xác đến đâu cũng cần phải có một quyết
định công nhận và cho thi hành của Toà án hoặc quyết định của cơ quan thi hành án.
Quy định này, làm tăng thêm tâm lý e ngại của các doanh nghiệp khi sử dụng trọng
tài để phân xử tranh chấp.
- Còn nhiều tồn tại trong bản thân của các trung tâm trọng tài. Thực tiễn là như
vậy, nhưng mạng lưới trọng tài của chúng ta lại quá thưa thớt. Đến thời điểm hiện
nay, chúng ta chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay. Hoạt động của các trung tâm trọng
tài chỉ dựa vào nguồn vốn tự có của các nhà sáng lập, nguồn thu từ các vụ tranh
chấp. Nhưng các vụ tranh chấp quá ít ỏi, nguồn thu quá hạn hẹp, hạn chế khả năng
phát triển công nghệ, mạng lưới, tuyên truyền, đào tạo…
3. Những điểm mới cơ bản của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 so với
Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003
Thứ nhất, Luật Trọng tài thương mại đã khắc phục những tồn tại của Pháp

lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 (Pháp lệnh TTTM): khắc phục việc phân định
không rõ ràng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài đối với các tranh chấp thương
mại, trên cơ sở đó bảo đảm sự tương thích giữa các văn bản pháp luật hiện hành như
Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Thương mại, Luật Đầu tư và các luật
chuyên ngành khác với Luật Trọng tài thương mại (Luật TTTM). Luật TTTM đã dỡ
bỏ hạn chế của Pháp lệnh TTTM về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp thương
mại của Trọng tài thông qua việc mở rộng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài tới
nhiều loại tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích của các bên (Điều 2 Luật
11


TTTM). Đây là một trong những điểm mới quan trọng nhất của Luật TTTM so với
Pháp lệnh TTTM và hoàn toàn phù hợp với thực tiễn sử dụng Trọng tài của các nước
trên thế giới.
Thứ hai, khắc phục sự không rõ ràng của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm
2003 về các tình huống có thể làm vô hiệu thoả thuận trọng tài. Điều 18 của Luật
TTTM giới hạn 6 tình huống theo đó thoả thuận trọng tài vô hiệu. Đặc biệt, còn có
quy định trường hợp thỏa thuận trọng tài không rõ ràng thì bên khởi kiện (nguyên
đơn) có quyền được tự do lựa chọn tổ chức trọng tài thích hợp để khởi kiện nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Với quy định này sẽ ngăn chặn và giảm
bớt tình trạng thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu hoặc tình trạng không xác định được cơ
quan nào giải quyết tranh chấp.
Thứ ba, tại Điều 17 của Luật TTTM 2010 đã bổ sung quy định nhằm bảo vệ
người tiêu dùng trong việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp. Theo đó,
đối với các tranh chấp giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng, mặc
dù điều khoản trọng tài đã được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp
hàng hóa, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn thỏa thuận trọng tài thì người tiêu dùng
vẫn được quyền lựa chọn Trọng tài hoặc Tòa án để giải quyết tranh chấp. Nhà cung
cấp hàng hóa, dịch vụ chỉ được quyền khởi kiện tại Trọng tài nếu được người tiêu
dùng chấp thuận. Quy định này thể hiện rõ thái độ bảo vệ người tiêu dùng trong

trường hợp người tiêu dùng bị đặt vào thế bị động trong các giao dịch dựa trên
những hợp đồng in sẵn từ phía nhà cung cấp dịch vụ, đồng thời nó cũng là biện pháp
để hạn chế những phương thức giải quyết tranh chấp không có lợi cho khách hàng
hay bị người cung cấp dịch vụ cài sẵn trong các hợp đồng và ép buộc bên sử dụng
dịch vụ phải chấp nhận.
Thứ tư, kế thừa Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, Điều 20 Luật
TTTM có các quy định về tiêu chuẩn tối thiểu đối với Trọng tài viên nhằm hình
thành ở nước ta một đội ngũ trọng tài viên nòng cốt có năng lực, có tính chuyên
nghiệp, có chuyên môn và uy tín xã hội.
Khắc phục những hạn chế của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003,
Luật Trọng tài thương mại 2010 không yêu cầu Trọng tài viên phải có quốc tịch Việt
Nam. Điều đó có nghĩa là người nước ngoài cũng có thể được chỉ định làm trọng tài
viên ở Việt Nam nếu các bên tranh chấp hoặc tổ chức trọng tài tín nhiệm họ. Quy
định này đáp ứng nhu cầu thực tế trong giai đoạn Việt Nam tăng cường hội nhập
kinh tế quốc tế.
12


Thứ năm, về trọng tài quy chế, so với Pháp lệnh TTTM 2003, Luật
TTTM 2010 bổ sung một số điểm mới sau đây:
+ Luật đã đưa ra định nghĩa pháp lý về Trọng tài quy chế để thay cho khái niệm
“Hội đồng trọng tài được thành lập tại Trung tâm trọng tài” do Pháp lệnh năm 2003
quy định. Theo đó, Trọng tài quy chế là hình thức trọng tài được tiến hành tại Trung
tâm trọng tài và theo quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài (khoản 6 Điều 3 Luật
TTTM).
+ Luật cho phép các Trung tâm trọng tài được ban hành quy tắc tố tụng trọng tài phù
hợp với quy định của Luật và đảm bảo đặc thù của mỗi Trung tâm để tăng thêm tính
hấp dẫn đối với các bên tranh chấp.
Thứ sáu, cho phép các tổ chức trọng tài nước ngoài được mở chi nhánh, văn
phòng đại diện tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước

quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Thứ bảy, nâng cao vị thế của Trọng tài thông qua việc cho phép Hội đồng
Trọng tài được thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng, áp dụng một số biện pháp
khẩn cấp tạm thời (Điều 47, 48, 49 và 50). Quy định của Luật đã tiếp thu quy định
của Luật mẫu UNCITRAL được thông qua năm 2006 nhằm giúp cho tố tụng trọng
tài vận hành có hiệu quả hơn.
Thứ tám, hạn chế nguy cơ phán quyết của Trọng tài bị Tòa án tuyên hủy bởi
quy định không phù hợp của Pháp lệnh TTTM như quy định về quyền của một bên
được gửi đơn lên Toà án yêu cầu huỷ quyết định trọng tài nếu “không đồng ý với
quyết định trọng tài”, bởi vì các quy định này của Pháp lệnh đã làm cho tố tụng
trọng tài trở nên rất rủi ro và làm mất đi tính chung thẩm của phán quyết trọng tài
mà pháp luật của hầu hết các nước đều công nhận.
Thứ chín, Luật TTTM là đã tiếp thu nguyên tắc cấm hành vi mâu thuẫn trong
tố tụng là nguyên tắc rất quan trọng đã hình thành lâu đời trong pháp luật tố tụng
của các nước phát triển. Quy định mới của Luật (Điều 13) xác định, khi một bên
nhận thấy những quy định của Luật hoặc của thoả thuận trọng tài bị vi phạm mà vẫn
tiếp tục thực hiện tố tụng trọng tài và không phản đối vi phạm đó trong thời hạn luật
định thì mất quyền phản đối tại Trọng tài hoặc Toà án. Quy định này nhằm ngăn
chặn một cách có hiệu quả các hành vi cơ hội trong tố tụng trọng tài.
Thứ mười, một trong những điểm quan trọng nhất của Luật TTTM là thể hiện
rõ nét mối quan hệ giữa Trọng tài với Toà án trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ
tranh chấp của các bên. Luật đã đưa ra một loạt các quy định mới nhằm xác định
13


mối quan hệ pháp lý quan trọng này: xác định rõ Tòa án có thẩm quyền đối với hoạt
động trọng tài và liệt kê 8 nội dung thẩm quyền của Toà án trong quan hệ với Trọng
tài bao gồm: thu thập chứng cứ, lưu giữ chứng cứ; đăng ký phán quyết trọng tài;
tuyên thoả thuận trọng tài vô hiệu; xác định thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; giải
quyết và yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài; bảo đảm sự có mặt của người làm chứng;

áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; chỉ định, thay đổi trọng tài viên. Quy định tại
các điều luật khác liên quan đã cụ thể hoá nội dung những thẩm quyền này của Toà
án. Quy định này đã khắc phục được những bất cập của Pháp lệnh TTTM, tạo điều
kiện để các Tòa án và Hội đồng trọng tài cũng như các bên tranh chấp tránh được
lúng túng trong các trường hợp cụ thể, góp phần tạo điều kiện thuận lợi để trọng tài
hoạt động có hiệu quả.
V. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC GIẢI
QUYẾT CÁC TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG
MẠI
Thứ nhất, cần có cơ chế hỗ trợ pháp lý từ phía Nhà nước đối với các tổ chức
phi Chính phủ, trong đó có trọng tài thương mại. Đây là một giải pháp quan trọng.
Nếu có sự hỗ trợ thích đáng thì trọng tài thương mại có thể phát huy mạnh được
chức năng và vai trò của mình.
Thứ hai, bên cạnh việc hỗ trợ về mặt pháp lý, nhà nước cũng cần hỗ trợ cho
các tổ chức Trọng tài thương mại về mặt vật chất. Đó có thể là ban hành cơ chế cho
thuê trụ sở hay cơ chế để các tổ chức được tự khai thác và quản lý nguồn tài chính
viện trợ của các tổ chức Chính phủ, phi chính phủ và quốc tê.
Thứ ba, cần tổ chức nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao hơn nữa trình
độ, năng lực của đội ngũ Trọng tài viên. Hiện nay, một trong những hạn chế của tổ
chức trọng tài là vấn đề con người, đặc biệt là những thành phố không thuộc trung
ương. Đội ngũ trọng tài viên hiện đa phần trình độ chuyên môn chưa cao, nhất là
trong lĩnh vực thương mại quốc tế nên đã ảnh hưởng rất nhiều đến xét xử. Do đó, để
phát triển phương thức trọng tài nhà nước cần có chính sách hỗ trợ đào tạo trọng tài
viên thông qua các chương trình đào tạo trong nước, nước ngoài với sự hướng dẫn
của những trọng tài viên, chuyên gia có uy tín.
Thứ tư, cần tuyên truyền pháp luật về trọng tài. Đây là một giải pháp rất quan
trọng để pháp luật trọng tài nhanh đi vào thực tiễn và việc giải quyết các tranh chấp
thương mại tại trọng tài có hiệu quả.
14



Thứ năm, trong 82 điều khoản trong Luật trọng tài thương mại 2010 không có
một quy định nào về trách nhiệm của trọng tài về phán quyết của mình. Tất nhiên
chúng ta để hiểu trọng tài phải chịu trách nhiệm toàn bộ về phán quyết của mình
nhưng trách nhiệm này cụ thể như thế nào, hình thức xử phạt hoặc kỉ luật ra sao đối
với các trường hợp vi phạm thì chưa rõ. Do đó, Luật trọng tài thương mại 2010 cần
quy định thêm về vấn đề này nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm, đồng thời tăng
độ tin cậy, uy tín của trọng tài, tránh các trường hợp sai phạm do mong muốn chủ
quan của một bên tranh chấp hoặc của trọng tài.

KẾT LUẬN
Thực tiễn đã chứng minh việc áp dụng giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại ngày càng phổ biến và mang lại nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp
trong việc giải quyết tranh chấp được nhanh gọn, công bằng, bình đẳng và thiết lập
được mối quan hệ của các doanh nghiệp. Ngoài ra việc giải quyết tranh chấp thương
mại bằng trọng tài thương mại còn rút ngắn tiến tình hội nhấp kinh tế quốc tế của
nước ta. Với những tiện ích rõ rệt của mình và với xu hướng được ưa thích, việc giải
quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài sẽ hứa hẹn một bước phát triển trong
những năm tới.
Cần đẩy mạnh và phát huy hơn nữa ưu thế của trọng tài thương mại ở Việt
Nam, đòi hỏi phải có sự quan tâm cũng như nỗ lực của toàn Đảng, Nhà nước và các
Bộ, ngành có liên quan, kết hợp với việc trang bị kiến thức cơ bản cho các doanh
nghiệp về trọng tài thương mại. Có như vậy, hoạt động trọng tài thương mại của ta
mới có thể phát triển một cách phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế, từ đó tạo
nền tảng pháp lý vững chắc cho các doanh nghiệp bước vào sân chơi hội nhập.

15




×