Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Tài sản riêng của vợ, chồng trong Luật Hôn nhân gia đình 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.6 KB, 27 trang )

MỤC LỤC


A. MỞ ĐẦU
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con
người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân
cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia
đình được hình thành từ nhiều quan hệ khác nhau gồm quan hệ
hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng. Tuy
nhiên, gia đình được hình thành từ quan hệ hôn nhân chiếm đại
đa số trong đời sống hiện nay.
Nội dung của quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng bao gồm
quyền và nghĩa vụ về nhân thân; quyền và nghĩa vụ về tài sản.
Đối với gia đình hiện đại, sự gắn bó giữa vợ chồng là một điều
rất quan trọng, tuy nhiên để có thể hướng tới một hôn nhân ổn
định, lâu dài, bền vững thì vấn đề cần phải quan tâm đến chính
là đời sống vật chất, tiền bạc, tài sản của vợ chồng. Vì vậy, các
điều luật quy định về chế độ tài sản giữa vợ và chồng đóng vai
trò hết sức quan trọng và là một chế định pháp lý không thể
thiếu trong Luật Hôn nhân và gia đình.
Mặt khác, Lênin đã từng nói rằng: “Bản chất con người là
tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Do đó, mỗi một cá nhân trong
xã hội không chỉ gắn bó với gia đình của mình mà còn thể hiện
tính độc lập trong cộng đồng với tư cách là thành viên của xã
hội. Những quan hệ xã hội độc lập này về mặt nào đó cần phải
dựa trên những điều kiện vật chất nhất định. Do đó, Luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam bên cạnh việc quy định tài sản chung
của vợ chồng còn thừa nhận quyền được có tài sản riêng của
vợ, chồng. Việc quy định về tài sản riêng của vợ chồng trong
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam là một điều cần thiết để
bảo vệ quyền lợi của mỗi cá nhân đồng thời là cơ sở giải quyết


những tranh chấp có thể xảy ra trong thực tế.
2


Chính vì lẽ đó, trong phạm vi bài tiểu luận này em xin đề
cập, phân tích quá trình hình thành và phát triển của chế định
tài sản riêng của vợ chồng trong lịch sử, đồng thời phân tích chế
định tài sản riêng trong Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành –
Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

B. NỘI DUNG
I. Khái quát chung về chế định tài sản riêng của vợ,
chồng
1.1. Một số khái niệm chung
1.1.1. Tài sản
Theo nghĩa từ điển, tài sản được hiểu là “của cải, vật chất
dùng vào mục đích sản xuất và tiêu dùng”. Theo Điều 105 Bộ
luật dân sự 2015 (BLDS 2015): “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có
giá và quyền tài sản”; “Tài sản bao gồm bất động sản và động
sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài
sản hình thành trong tương lai”.
1.1.2. Chế độ tài sản giữa vợ và chồng
Chế độ tài giữa vợ và chồng là toàn bộ những quy định về
việc xác định tài sản chung, tài sản riêng, quyền và nghĩa vụ đối
với tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng, các thành viên
khác trong gia đình và người thứ ba ngay tình.
Luật Hôn nhân và gia đình 2014 ra đời lần đầu tiên ghi
nhận 2 chế độ tài sản giữa vợ và chồng, đó là: Chế độ tài sản
theo thỏa thuận và Chế độ tài sản theo luật định.
Chế độ tài sản giữa vợ và chồng được thực hiện theo

Nguyên tắc chung được quy định tại Điều 29 Luật Hôn nhân
và gia đình 2014 (Luật HNGĐ 2014) như sau:
“1. Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong
việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;
3


không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu
nhập.
2. Vợ, chồng có nghĩa vụ bảo đảm điều kiện để đáp ứng
nhu cầu thiết yếu của gia đình.
3. Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng
mà xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, gia
đình và của người khác thì phải bồi thường”.
1.1.3 Tài sản riêng của vợ, chồng
Điều 43 Luật HNGĐ 2014 quy định Tài sản riêng của vợ,
chồng như sau:
“1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người
có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho
riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ,
chồng theo quy định tại các Điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài
sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ chồng và tài sản khác
theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.
2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng
cũng là tài sản riêng của vợ chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ
tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy
định tại Khoản 1 Điều 33 và Khoản 1 Điều 40 của Luật này.”
1.2. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển chế định
tài sản riêng của vợ, chồng trong Pháp luật Việt Nam
1.2.1. Thời kỳ phong kiến

Lịch sử Việt Nam gắn liền với chế độ Phong kiến kéo dài
hàng nghìn năm, pháp luật nước ta thời kỳ này chịu ảnh hưởng
rất lớn của tư tưởng Nho giáo với quan niệm “trọng nam khinh
nữ”, “xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”, “ngũ luân”,… Những tư
tưởng này đã đi sâu vào trong tiềm thức của người dân Việt
Nam.
4


Nếu xét đến cả một thời kỳ phong kiến, nói chung pháp
luật nước ta thời kỳ này vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào
quy định một cách cụ thể và rõ ràng về tài sản riêng, quyền
được có tài sản riêng của vợ và chồng. Bởi lẽ chính tư tưởng Nho
giáo “trọng nam khinh nữ” cho rằng người chồng là người trụ
cột trong gia đình, là chủ của gia đình nên đồng thời cũng là chủ
sở hữu các tài sản trong gia đình, có mọi quyền quyết định đối
với những tài sản đó vì lợi ích của gia đình nên hệ thống pháp
luật không đề cập đến tài sản chung hay riêng của vợ, chồng
trong thời kỳ hôn nhân.
Tuy nhiên, trong một thời kỳ phong kiến này, đã có một vài
Bộ luật đề cập đến chế độ tài sản giữa vợ chồng, quyền được có
tài sản riêng của vợ, chồng. Điển hình có thể kể đến là Bộ Quốc
triều Hình luật, Bộ luật này đã thiết lập một chế độ tài sản
tương đối bình đẳng giữa vợ và chồng. Quyền bình đẳng thể
hiện qua các quyền sở hữu tài sản chung và tài sản riêng của
vợ, chồng.
Đối với tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân, Bộ Quốc triều
Hình luật đã thừa nhận vợ chồng đều có quyền sở hữu với tài
sản riêng. Tài sản riêng của vợ, chồng là tài sản có trước khi kết
hôn, được thừa kế từ gia đình của mỗi người. Đối với tài sản

này, vợ chồng đều có quyền sở hữu riêng, mặc dù tài sản này
được quản lý chung bởi vợ chồng và các lợi tức có được từ tài
sản đó mang lại là tài sản chung. Như vậy, có thể hiểu rằng nếu
là tài sản riêng của vợ, chồng thì cả hai đều có quyền chiếm
hữu, sử dụng trong thời kỳ hôn nhân nhưng không có quyền
định đoạt đối với tài sản riêng của người khác. Do đó khi họ ly
hôn thì tài sản riêng của ai vẫn thuộc về người đó, họ có quyền
mang theo trừ trường hợp ly hôn do vợ gian dâm. Việc thừa
5


nhận vợ có quyền sở hữu tài sản riêng chính là điểm đặc sắc
của pháp luật phong kiến nhà Lê, điều này đã tạo cho người vợ
có vị thế ngang bằng nhất định với người chồng.
1.2.2. Thời kỳ Pháp thuộc
Dưới thời kỳ Pháp thuộc, nước ta chia làm ba miền, mỗi
miền có bộ luật riêng để áp dụng. Có thể nhận thấy rằng, quan
hệ hôn nhân và gia đình trong thời kỳ này được quy định trong
các Bộ dân luật.
Ở Nam kỳ, Bộ luật được ban hành sớm nhất ở Việt Nam
thời kỳ Pháp thuộc là Bộ dân luật giản yếu (năm 1883) được áp
dụng ở Miền Nam, không thừa nhận người vợ có tài sản riêng,
pháp luật quy định “tất cả tài sản trong gia đình đều thuộc
quyền sở hữu và quyền quản lý của người chồng trong thời kỳ
hôn nhân cũng như sau khi người vợ chết. Trong trường hợp
người vợ chết thì chồng là chủ sở hữu đối với toàn bộ tài sản
của gia đình do hiệu lực của hôn nhân chứ không phải là hưởng
gia tài từ người vợ, nhưng nếu người chồng chết trước thì người
vợ có quyền hưởng dụng thu lợi trên toàn bộ tài sản của gia
đình khi còn ở goá”. Tuy nhiên án lệ lại công nhận trong một số

trường hợp người vợ có thể có quyền có tài sản riêng, bao gồm:
các đồ tư trang, tài sản được gia đình tặng cho hoặc được thừa
kế, bất động sản đã ghi rõ tên vợ là chủ sở hữu trong sổ địa
chính nhưng sau đó những án lệ này lại chuyển sang không
công nhận quyền này của người vợ.
Ở Bắc kỳ và Trung kỳ, do ảnh hưởng của Bộ luật dân sự
Pháp (1804) nến trong hai Bộ luật là Bộ dân luật Bắc kỳ và Bộ
dân luật Trung kỳ quy định “Vợ chồng có thể có tài sản riêng từ
trước khi kết hôn, nhưng kể từ khi kết hôn và trong thời kỳ hôn
nhân thì các tài sản riêng đó (bao gồm cả bất động sản và động
6


sản) được hợp nhất thành khối tài sản chung của vợ chồng. Tuy
nhiên đó chỉ là sự hợp nhất tạm thời trong thời kỳ hôn nhân, chỉ
có những tài sản do hai vợ chồng làm ra trong thời ky hôn nhân
mới là tài sản chung chính thức”.
Ngoài ra ở hai Bộ luật này còn có quy định, “Sau khi chồng
chết, người vợ góa mà kết hôn với người khác sẽ mất quyền gia
trưởng, phải đi khỏi gia đình, chỉ được mang theo tài sản riêng
và chỉ có quyền nhận một nửa khối tài sản chung của vợ chồng
nếu chồng không có con (Điều 360 Bộ dân luật Bắc kỳ và Điều
369 Bộ dân luật Trung kỳ). “Nếu không có tài sản riêng thì người
vợ góa kết hôn lại có thể được hội đồng gia tộc bên chồng cấp
cho một ít tài sản thuộc khối tài sản chung tùy theo công sức
đóng góp của người vợ vào khối tài sản ấy” (Điều 359 Bộ dân
luật Trung kỳ). Như vậy, trong các Bộ luật trên, quyền có tài sản
riêng của mỗi bên vợ, chồng không trực tiếp được nhắc đến như
một điều luật độc lập.
1.2.3. Trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam giai đoạn 1955

– 1975
Ở Miền Bắc, sau thành công của Cách mạng tháng Tám,
Nhà nước ta đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng hệ thống
pháp luật, trong đó có pháp luật điều chỉnh về lĩnh vực hôn
nhân và gia đình. Thời kỳ này, đạo luật đầu tiên của Nhà nước
ta về hôn nhân và gia đình đã được ban hành, đó là Luật Hôn
nhân và gia đình năm 1959. Tại Điều 15 Luật Hôn nhân và
gia đình 1959 quy định: “Vợ chồng đều có quyền sở hữu,
hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và
sau khi cưới”. Như vậy quy định này thể hiện rằng: toàn bộ tài
sản của vợ chồng dù có trước khi kết hôn hoặc tạo ra trong thời
kỳ hôn nhân, dù vợ, chồng được tặng cho riêng, được thừa kế
7


riêng hoặc cả hai vợ chồng được tặng cho chung hay được thừa
thừa kế chung không phân biệt nguồn gốc tài sản và công sức
đóng góp đều thuộc khối tài sản chung của hai vợ chồng. Do
điều kiện hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ (hầu hết các tư liệu sản
xuất đều thuộc sở hữu Nhà nước hoặc được tập thể hóa, sở hữu
tư nhân chỉ bao gồm các tư liệu tiêu dùng) nên Luật Hôn nhân
và gia đình 1959 không ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi
bên vợ chồng cũng như quyền chia tài sản chung khi hôn nhân
còn tồn tại.
Ở Miền Nam, từ năm 1954 – 1975, Miền Nam Việt Nam
nằm dưới chế độ ngụy quyền Sài Gòn, bên cạnh việc ghi nhận
tài sản chung của vợ chồng trong hệ thống pháp luật, còn có
những quy định về tài sản riêng cụ thể tại Điều 55 Sắc luật số
15/64 và Điều 152 BLDS 1972 đã dự liệu cho mỗi bên vợ
chồng có một khối tài sản riêng bao gồm: “Những bất động sản

thuộc quyền sở hữu của mỗi bên vợ, chồng khi kết hôn (tức là
các bất động sản mà vợ hay chồng đã có từ trước khi kết hôn);
Những bất động sản mà mỗi bên vợ, chồng có được trong thời
kỳ hôn nhân do được tặng cho riêng hoặc thừa kế riêng”.
1.2.4. Trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam từ năm 1976
đến nay
Đất nước thống nhất, đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật
thống nhất. Trong hoàn cảnh kinh tế - xã hội có nhiều biến
động, Luật Hôn nhân và gia đình 1959 không còn phù hợp.
Trước tình hình đó, Nhà nước ta trong giai đoạn này đã ban hành
3 đạo luật: Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2000, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
(Đạo luật hiện hành).

8


Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 ra đời trong thời
kỳ đổi mới đất nước, Luật này đã quy định đầy đủ về nghĩa vụ,
quyền nhân thân và tài sản vợ, chồng. Luật Hôn nhân và gia
đình năm 1986 tiếp tục thừa nhận trên nguyên tắc tài sản của
vợ chồng là tài sản chung và được sử dụng vì lợi ích chung của
gia đình, quy định cụ thể hơn những tài sản nào được coi là tài
sản chung, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản
chung đó. Điểm mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 là
thừa nhận quyền có tài sản riêng và quyền định đoạt tài sản
riêng của vợ, chồng, quy định việc chia tài sản khi hôn nhân còn
tồn tại. Theo Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986:
“Vợ chồng có quyền có tài sản riêng, bao gồm các tài sản mà
vợ, chồng có được từ trước khi kết hôn, các tài sản mà vợ hoặc

chồng được tặng cho riêng hay được thừa kế riêng trong thời kỳ
hôn nhân, người vợ hoặc chồng có tài sản riêng có quyền nhập
hay không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng”.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 ra đời trong bối
cảnh Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 không còn phù hợp
với sự vận động của quan hệ hôn nhân và gia đình trong sự
phát triển của nền kinh tế và sự giao lưu quốc tế. Kế thừa và
phát triển các quy định về tài sản riêng của vợ, chồng trong
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 (Điều 16), Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2000 đã quy định chế độ sở hữu đối với tài sản
riêng của vợ, chồng cụ thể hơn. Điều 32 Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000 đã khẳng định:
“1. Vợ chồng có quyền có tài sản riêng.
Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có
trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho
riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ,
9


chồng theo quy định tại Khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật
này; đồ dùng, tư trang cá nhân.
2. Vợ chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng
vào khối tài sản chung”
Điều 33, 29, 30 của Luật này còn quy định cụ thể về chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt riêng của mỗi bên vợ chồng, về việc
chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân còn tồn tại:
“Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì hoa lợi,
lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của
mỗi người”.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (Đạo luật hiện

hành) ra đời trong bối cảnh đất nước bước sang giai đoạn phát
triển mới, quan hệ hôn nhân gia đình có nhiều thay đổi, trong
khi đó Luật Hôn nhân và gia đình 2000 bộc lộ nhiều điểm hạn
chế, bất hợp lý. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 lần đầu
tiên ghi nhận chế độ tài sản theo thỏa thuận. Theo đó, trong
văn bản chế độ tài sản theo thỏa thuận (được lập trước khi kết
hôn), vợ chồng có thể thỏa thuận với nhau tài sản nào là tài sản
riêng và tài sản nào là tài sản chung. Đối với những trường hợp
vợ chồng không thỏa thuận đối với những tài sản đó (thỏa thuận
không đầy đủ) hoặc vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo luật
định thì Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã kế thừa những
quy định về tài sản riêng của vợ chồng trong Luật Hôn nhân và
gia đình 2000, Điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 quy định đầy đủ, cụ thể hơn như sau:
“1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người
có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho
riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ,
chồng theo quy định tại các Điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài
10


sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ chồng và tài sản khác
theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.
2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng
cũng là tài sản riêng của vợ chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ
tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy
định tại Khoản 1 Điều 33 và Khoản 1 Điều 40 của Luật này.”
Ngoài ra, Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 đã quy định cụ
thể hơn về việc Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng
(Điều 44), Nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng (Điều 45)

và Nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung (Điều
46).
1.3. Những lý do mà pháp luật phải ghi nhận tài sản
riêng của vợ, chồng và quyền được có tài sản riêng của
vợ, chồng
Thứ nhất, do sự phát triển của nền kinh tế mà khối tài sản
của mỗi người không ngừng tăng lên, theo đó nhu cầu độc lập
về tài sản riêng của mỗi người cũng tăng lên do nhu cầu phục
vụ đời sống riêng, nghề nghiệp, sinh hoạt cá nhân, tham gia các
hoạt động xã hội khác,… Do đó, nếu chỉ quy định chế độ tài sản
chung của vợ chồng mà không quy định tài sản riêng sẽ gây
cản trở đến nhu cầu chính đáng của họ. Trên thực tế, xảy ra rất
nhiều tình trạng vợ, chồng giúp đỡ người thân, bạn bè,… phải
dấu diếm vì không muốn mang tiếng động chạm vào tài sản
chung.
Thứ hai, nếu trước khi kết hôn mà mỗi bên vợ, chồng tạo
được một khối tài sản lớn do chính lao động của mình mà có
được. Đến khi kết hôn theo luật định nếu trở thành tài sản
chung của vợ chồng, nghĩa là người kia đương nhiên trở thành
chủ sở hữu của tài sản đó. Điều này dẫn đến mâu thuẫn với
nguyên tắc Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản của Bộ luật dân
11


sự (Điều 170 BLDS 2005 – vì Luật Hôn nhân và gia đình 2014 ra
đời trước khi BLDS 2015 có hiệu lực thi hành nên phải căn cứ
vào BLDS 2005).
Thứ ba, việc xác định tài sản có được trước khi cưới là tài
sản chung của vợ chồng như những đạo luật trước đây dẫn đến
khuynh hướng xấu khi hình thành quan hệ hôn nhân. Điều này

dẫn đến việc không ít trường hợp kết hôn vì tiền tài, không xuất
phát từ tình yêu chân chính, do đó không chỉ vi phạm về điều
kiện kết hôn mà còn tác động xấu đến mục đích nguyên thủy
của hôn nhân và gia đình,
Thứ tư, khi người thân, bạn bè của một trong hai bên vợ
chồng chỉ tặng cho riêng, để lại thừa kế riêng cho người đó
nhưng nếu tất cả đều trở thành tài sản chung như quy định của
những đạo luật trước đây thì sẽ trái với nguyện vọng, ý chí của
những người tặng cho, để lại tài sản thừa kế, xâm phạm đến lợi
ích của người nhận cũng như nguyên tắc tự nguyện, tự do ý chí
của BLDS.
1.4. Ý nghĩa của việc ghi nhận tài sản riêng và quyền
được có tài sản riêng của vợ, chồng
Thứ nhất, việc ghi nhận cho vợ, chồng có tài sản riêng đã
tạo ra được cơ sở pháp lý vững chắc cho vợ, chồng chủ động
tham gia vào các giao dịch dân sự, bảo đảm thỏa mãn nhu cầu
vật chất, tinh thần của vợ, chồng và của các thành viên khác
trong gia đình.
Thứ hai, pháp luật đã phân định rõ quyền và nghĩa vụ của
vợ, chồng trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
riêng giúp minh bạch hóa các giao dịch dân sự mà mỗi bên vợ,
chồng tham gia. Qua đó, pháp luật đã tạo ra cơ sở pháp lý rõ
ràng để giải quyết những tranh chấp liên quan đến tài sản của
12


vợ chồng, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
cũng như người thứ ba ngay tình.
Thứ ba, việc ghi nhận tài sản riêng của vợ, chồng hạn chế
được tình trạng kết hôn vì vật chất, không xuất phát từ tình cảm

chân thành từ hai bên vợ, chồng. Qua đó, đảm bảo phát huy
được vai trò, chức năng quan trọng của gia đình trong xã hội.
II. Những quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 về tài sản riêng của vợ, chồng
2.1. Cơ sở pháp lý của việc quy định tài sản riêng, quyền
có tài sản riêng của vợ, chồng
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về tài sản
riêng của vợ, chồng; quyền có tài sản riêng của vợ, chồng căn
cứ vào những cơ sở pháp lý sau:
Thứ nhất, Điều 16 Hiến pháp 2013 ghi nhận: “Mọi người
đều bình đẳng trước pháp luật”, Điều 26 Hiến pháp 2013 khẳng
định: “Nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách
bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới”. Hiến pháp 2013 còn
thừa nhận cá nhân có quyền có tài sản hợp pháp tại Điều 32:
“Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để
dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp
trong doanh nghiệp hoặc các tổ chức kinh tế khác”; “Quyền sở
hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ”.
Trước khi kết hôn, hai bên nam nữ là những công dân bình
thường của xã hội. Theo tính chất nghề nghiệp, mỗi người tạo ra
tài sản của mình thông qua thu nhập hợp pháp, sức lao động
của mình và đều thuộc quyền sở hữu của mỗi bên vợ, chồng.
Đảng và Nhà nước ta thông qua pháp luật đã khuyến khích, tạo
điều kiện bằng nhiều biện pháp cho công dân tạo ra thu nhập,
tài sản làm giàu cho chính bản thân, gia đình và xã hội. Chính vì

13


lí do đó, những văn bản luật đã cụ thể hóa Hiến pháp quy định

về bảo đảm sở hữu riêng của công dân.
Thứ hai, BLDS Việt Nam 2005 (vì Luật Hôn nhân và gia
đình 2014 ra đời trước khi BLDS 2015 có hiệu lực thi hành nên
phải căn cứ vào BLDS 2005) Điều 211, Điều 212 và Điều 213
quy định về tài sản thuộc sở hữu tư nhân. Điều 212 BLDS 2005
ghi nhận tài sản thuộc sở hữu tư nhân bao gồm: “Thu nhập hợp
pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất,
vốn, hoa lợi, lợi tức và các tài sản hợp pháp khác của cá nhân” .
Như vậy, trong hôn nhân, vợ chồng có quyền sử dụng tài sản
thuộc sở hữu riêng phục vụ nhu cầu của mình với bất kì mục
đích gì miễn không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Vì vậy, việc ghi nhận tài sản riêng, quyền có tài sản riêng
của mỗi bên vợ, chồng trong Luật Hôn nhân và gia đình 2014
không chỉ phù hợp với Hiến pháp và BLDS mà còn phù hợp với
nhu cầu, nguyện vọng của người dân. Xuất phát từ những nhu
cầu thực tế của đời sống, mỗi bên vợ, chồng vẫn là những công
dân độc lập, mỗi bên cần những khoảng trời riêng để giải quyết
những vấn đề của chính mình.
2.2. Căn cứ để xác định tài sản riêng của vợ, chồng
Trên cơ sở kế thừa và phát huy những quy định về tài sản
riêng của vợ, chồng được quy định tại Điều 32 Luật HNGĐ 2000,
Điều 43 Luật HNGĐ 2014 quy định: ““1. Tài sản riêng của vợ,
chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản
được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân;
tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các Điều
38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu
của vợ chồng và tài sản khác theo quy định của pháp luật thuộc
sở hữu riêng của vợ, chồng.
14



2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng
cũng là tài sản riêng của vợ chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ
tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy
định tại Khoản 1 Điều 33 và Khoản 1 Điều 40 của Luật này.”
Như vậy, Luật HNGĐ 2014 đã xác định tài sản riêng của
vợ, chồng dựa vào thời điểm phát sinh trước khi kết hôn; dựa
vào sự định đoạt của người để lại di sản thừa kế hoặc của người
tặng cho tài sản; dựa vào sự kiện chia tài sản chung trong thời
kỳ hôn nhân và các căn cứ khác. Cụ thể như sau:
2.2.1. Tài sản của vợ, chồng có được trước khi kết hôn
Trước khi kết hôn, mỗi bên vợ chồng vẫn là những cá nhân
của xã hội, chưa có sự ràng buộc pháp lý với đối phương như
sau khi kết hôn. Tài sản của mỗi bên vợ chồng có được trước khi
kết hôn có thể là những thu nhập từ lao động, từ hoạt động sản
xuất kinh doanh hợp pháp. Về bản chất pháp lý, những tài sản
đó phải thuộc sở hữu riêng của vợ chồng bởi những tài sản đó
có được từ chính sức lao động của họ.
2.2.2. Tài sản mà vợ, chồng có được từ thừa kế riêng hoặc tặng
cho riêng trong thời kì hôn nhân
Trước hết, những tài sản mà mỗi bên vợ, chồng có được từ
thừa kế riêng, tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân không phải
do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân, theo công sức và
thu nhập của vợ, chồng, nên không thể tính vào khối tài sản
chung của vợ chồng
Ngoài ra, Luật HNGĐ 2014 quy định những tài sản có được
từ thừa kế riêng hoặc tặng cho riêng trong thời kì hôn nhân là
tài sản riêng của vợ chồng để đảm bảo tôn trọng nguyện vọng,
ý chí của những người tặng cho, để lại thừa kế, đảm bảo quyền
tự định đoạt của những người là chủ sở hữu của tài sản. Thực tế,

15


những tài sản mà mỗi bên vợ, chồng được thừa kế riêng, tặng
cho riêng trong thời kỳ hôn nhân thường do những người thân
thích, bạn bè của vợ, chồng cho mỗi bên vợ, chồng được hưởng
giá trị tài sản đó. Hoặc có thể do cha mẹ tặng cho riêng con
trong ngày cưới; cha mẹ chồng (vợ) chết để lại di sản thừa kế
cho con mình,…
2.2.3. Tài sản mà vợ, chồng được chia khi chia tài sản chung
của vợ và chồng trong thời kỳ hôn nhân và hoa lợi, lợi tức phát
sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là
một trường hợp đặc biệt được ghi nhận từ Luật HNGĐ 1986
(Điều 18), được phát triển ở Điều 29, 30 của Luật HNGĐ 2000
và được kế thừa, cụ thể hóa ở Điều 38, 39, 40 của Luật HNGĐ
2014.
Tại Điều 38 Luật HNGĐ 2014 ghi nhận rằng: Vợ chồng có
quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân trừ những trường hợp thỏa thuận chia bị
vô hiệu; việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân phải
được lập thành văn bản và có công chứng theo yêu cầu của hai
bên vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật.
Trên cơ sở đó, Điều 40 Luật HNGĐ 2014 chỉ rõ: “Trong
trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì phần tài sản
được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên
sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ chồng, trừ
trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Phần tài sản còn lại
không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng”.
Qua đó, có thể xác định rằng trong trường hợp chia tài sản

chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản riêng của
vợ, chồng bao gồm phần tài sản của mỗi bên sau khi chia và
16


hoa lợi, lợi tức phát sinh từ chính tài sản riêng của mỗi bên sau
khi chia trừ trường hợp vợ, chồng có thỏa thuận khác.
2.2.4. Tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ chồng
Đây là điểm mới của Luật HNGĐ 2014 so với Luật HNGĐ
2000. Theo đó, Điều 32 Luật HNGĐ 2000 chỉ quy định đồ dùng,
tư trang cá nhân là tài sản riêng của vợ, chồng mà không có
quy định nào hạn chế giá trị tài sản của đồ dùng, tư trang đó,
đồng thời pháp luật cũng không xem xét nguồn gốc của đồ
dùng, tư trang đó có được là từ tài sản chung hay tài sản riêng.
Do đó, trên thực tế điều luật này gây nhiều khó khăn cho cơ
quan tố tụng. Luật HNGĐ 2014 đã thay đổi từ “đồ dùng, tư
trang cá nhân” thành “tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ
chồng”.
Theo Khoản 20 Điều 3 Luật HNGĐ 2014 quy định: “Nhu
cầu thiết yếu là nhu cầu thông thường về ăn, mặc, ở, học tập,
khám bệnh, chữa bệnh và nhu cầu sinh hoạt thông thường khác
không thể thiếu cho cuộc sống mỗi người, mỗi gia đình”.
Mặc dù Luật HNGĐ 2014 đã quy định như thế nào là “Nhu
cầu thiết yếu”, tuy nhiên vấn đề này vẫn chưa được làm rõ ở
chỗ: Đối với những người, những gia đình với mức sống khác
nhau thì khái niệm đồ dùng thiết yếu là không giống nhau. Ví
dụ, đối với một người này, gia đình này thì chỉ các đồ dùng sinh
hoạt hằng ngày là giày, dép, quần, áo,… là đồ dùng thiết yếu
nhưng đối với những người khác, gia đình khác lại xem máy
tính, điện thoại là những tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của

bản thân,… Tuy nhiên, trong thực tế, nếu xảy ra tranh chấp thì
Luật HNGĐ 2014 đã dự liệu trước tình huống này, tại Khoản 3
Điều 33 Luât HNGĐ 2014 quy định: “Trong trường hợp không
có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh
17


chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài
sản chung”. Do đó, trong thực tế, nếu mỗi bên vợ chồng muốn
xác nhận tài sản đó là tài sản riêng của mình thì phải có nghĩa
vụ chứng minh, nếu không chứng minh được thì tài sản đó được
quy về là tài sản chung của vợ chồng.
2.2.5. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng
Tài sản riêng của vợ chồng trong trường hợp này chính là
những tài sản thuộc những căn cứ xác định tài sản riêng của vợ,
chồng trên đây. Tài sản riêng này có thể có được trước khi kết
hôn; do được tặng cho riêng, thừa kế riêng, được chia trong thời
kỳ hôn nhân,…
Tài sản được hình thành từ tài sản riêng có thể được hình
thành thông qua mua, bán, được Nhà nước đền bù khi thu hồi,…
Ví dụ: A (chồng) – B (vợ). Anh A có được mẹ để lại thừa kế
ngôi nhà tại Phố C trước khi kết hôn với chị B. Nay anh A bán
căn nhà tại phố C được 1 tỷ. Như vậy, theo quy định của Luật
HNGĐ 2014, số tiền 1 tỷ mà anh A có được là tài sản riêng của
anh A (vì được hình thành từ tài sản riêng của anh A) nên 1 tỷ
này là tài sản riêng của anh A.
2.2.6. Tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở
hữu riêng của vợ, chồng
Những tài sản khác theo quy định của pháp luật thuộc sở
hữu riêng của vợ, chồng được quy định rõ ràng tại Điều 11

Nghị định số 126/2014/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều
và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình bao gồm:
Thứ nhất, quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ
theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ. Ví dụ: Quyền cho
thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình
máy tính của mỗi bên vợ, chồng,…
18


Thứ hai, tài sản mà vợ, chồng xác lập quyền sở hữu riêng
theo bản án, quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm
quyền khác.
Thứ ba, khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng được nhận
theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách
mạng; quyền tài sản khác gắn liền với nhân thân của vợ, chồng.
Ngoài ra, những tài sản mà vợ, chồng thỏa thuận là tài sản
riêng của vợ, chồng trong văn bản chế độ tài sản theo thỏa
thuận cũng là tài sản riêng của vợ chồng. Bởi vì lần đầu tiên
Luật HNGĐ 2014 ghi nhận chế độ tài sản theo thỏa thuận của
vợ chồng. Và việc thỏa thuận này phải lập bằng văn bản có
công chứng, chứng thực trước khi vợ chồng kết hôn và được xác
lập kể từ ngày kết hôn.
2.3. Quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản
riêng
2.3.1. Quyền của vợ, chồng đối với tài sản riêng
Với tư cách là chủ sở hữu tài sản, vợ chồng có đầy đủ các
quyền của chủ sở hữu, đó là các quyền chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt tài sản riêng của mình, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác, được quy định tại Điều 44 Luật HNGĐ 2014.
Đối với quyền chiếm hữu: Vợ, chồng tự quản lý tài sản

riêng. Trong trường hợp vợ hoặc chồng không thể tự mình quản
lý tài sản riêng và cũng không ủy quyền cho người khác quản lý
thì bên kia có quyền quản lý tài sản đó. Việc quản lý phải bảo
đảm lợi ích cho người có tài sản.
Đối với quyền sử dụng: Vợ, chồng có quyền sử dụng tài sản
của mình để đáp ứng nhu cầu cá nhân. Tuy nhiên, theo quy định
của BLDS thì quyền sử dụng tài sản có thể chuyển giao cho
người khác thông qua hợp đồng hoặc do pháp luật quy định. Do
vậy, trong thời gian vợ chồng chung sống, họ có thể thỏa thuận
19


cùng sử dụng tài sản riêng của mỗi bên sao cho có thể khai
thác được tốt nhất giá trị sử dụng của tài sản, góp phần đáp ứng
lợi ích chung của gia đình. Như vậy, tài sản riêng của vợ chồng
vẫn có thể được đưa vào sử dụng chung nhằm đáp ứng các nhu
cầu chung của gia đình. Ngoài ra, vì lợi ích chung của gia đình,
Khoản 2 Điểu 30 Luật HNGĐ 2014 quy định “Trong trường hợp
vợ chồng không có tài sản chung hoặc tài sản chung không đủ
để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ, chồng có
nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng theo khả năng kinh tế của mỗi
bên”. Những tài sản đã chi cho gia đình thì người có tài sản
không được đòi lại. Qua đó có thể thấy rằng, việc pháp luật
công nhận vợ, chồng có quyền có tài sản riêng không ảnh
hưởng đến lợi ích chung của gia đình.
Đối với quyền định đoạt: Về nguyên tắc, vợ chồng có
quyền tự mình định đoạt tài sản riêng mà không phụ thuộc vào
ý chí của người kia. Tuy nhiên, xuất phát từ việc bảo đảm cuộc
sống chung của gia đình, quyền định đoạt tài sản riêng của vợ,
chồng có thể bị hạn chế trong trường hợp “hoa lợi, lợi tức phát

sinh từ tài sản riêng là nguồn sống duy nhất của gia đình thì
việc định đoạt tài sản này phải có sự đồng ý của chồng, vợ”.
2.3.2. Nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ và chồng
Tài sản riêng của vợ chồng được dùng để thanh toán nghĩa
vụ riêng về tài sản của mỗi người. Điều 45 Luật HNGĐ 2014 quy
định Nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng bao gồm:
-

Nghĩa vụ của mỗi bên vợ, chồng có trước khi kết hôn;
Ví dụ: A vay B 10 triệu từ trước khi kết hôn. A phải dùng tài
sản riêng của mình để trả nợ cho B chứ không thể thấy từ tài

-

sản chung.
Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài
sản riêng (trừ trường hợp nghĩa vụ phát sinh trong việc bảo
20


quản, duy trì, tu sửa tài sản riêng của vợ, chồng mà hoa lợi, lợi
tức phát sinh từ tài sản đó là nguồn sống duy nhất của gia đình
và nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì,
phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập
chủ yếu của gia đình).
Ví dụ: A chạy xe ôm, vợ của A chỉ ở nhà nội trợ và nuôi con.
Một ngày xe của A bị hỏng, không chạy được. Vì công việc của A
tạo ra nguồn thu nhập chính của gia đình nên tiền bảo dưỡng,
sửa chữa xe máy phải xuất phát từ tài sản chung của A và B chứ
-


không phải từ tài sản riêng của A.
Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do bên một xác lập, thực hiện
không vì nhu cầu của gia đình;
Ví dụ: A vay B 5 triệu để đánh bạc. A phải trực triếp sử
dụng tài sản riêng của mình để trả nợ cho B (vì giao dịch này

-

không vì nhu cầu của gia đình).
Nghĩa vụ phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật của vợ hoặc
chồng.
Ví dụ: A là người quản lý di sản thừa kế. A phải sử dụng tài
sản riêng của mình để bồi thường thiệt hại do có hành vi thực
hiện các giao dịch nhằm phá tán di sản.
2.4. Nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung
Điều 46 Luật HNGĐ 2014 quy định:
“1. Việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản
chung được thực hiện theo thỏa thuận của vợ chồng.
2. Tài sản được nhập vào tài sản chung mà theo quy định
của pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải tuân theo
hình thức nhất định thì thỏa thuận phải bảo đảm hình thức đó.
3. Nghĩa vụ liên quan đến tài sản riêng đã nhập vào tài sản
chung được thực hiện bằng tài sản chung, trừ trường hợp vợ
chồng có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”

21


Sau khi kết hôn, nếu vợ, chồng không muốn có sự phân

biệt giữa tài sản chung và tài sản riêng thì có thể thỏa thuận
nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung của vợ chồng. Việc
nhập tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất hoặc những tài sản có
giá trị lớn thuộc sở hữu riêng của mỗi bên vào tài sản chung
phải được lập thành văn bản, có chữ ký của vợ và chồng, văn
bản đó được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của
pháp luật.
Nếu người có tài sản riêng nhập tài sản của mình vào tài
sản chung nhằm trốn tránh nghĩa vụ về tài sản thì việc nhập tài
sản đó sẽ vô hiệu.
III. Thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện chế định
tài sản riêng của vợ và chồng
3.1 Thực tiễn áp dụng
Mặc dù Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam đã quy định
một cách cụ thể về tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng
nhưng trong thực tiễn xét xử, vẫn có những vướng mắc và sai
lầm trong việc xác định khối tài sản chung và tài sản riêng của
mỗi bên vợ chồng. Vướng mắc thường gặp nhất là đối với tài
sản được tặng cho riêng, thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân.
Có rất nhiều trường hợp vợ chồng được cha mẹ bên vợ hoặc bên
chồng tặng cho tài sản, vợ chồng đã cùng nhau sử dụng trong
nhiều năm nhưng khi vợ chồng li hôn thì cha mẹ lại nói rằng cho
riêng con trai, con gái chứ không phải cho cả hai vợ chồng.
Ví dụ: Năm 2005, A mua căn nhà tại Quận Hà Đông, TP Hà
Nội. Toàn bộ số tiền mua nhà do cha mẹ anh A cho, thời điểm
đó giữa bên mua và bên bán chỉ làm giấy tờ tay. Năm 2006, anh
A kết hôn. Năm 2007, anh A hợp thức hóa căn nhà. Khi làm hồ
sơ, cán bộ nhà đất đã nhập tên cả 2 vợ chồng vào giấy chứng

22



nhận quyền sử dụng đất. Năm 2017, anh A chị B ly hôn, chị B
đòi chia đôi căn nhà.
Căn cứ vào Điều 43 Luật HNGĐ 2014 “tài sản được thừa kế
riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân” là tài sản
riêng của vợ, chồng. Theo Khoản 1 Điều 33 Luật HNGĐ 2014,
quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được trước khi kết hôn chỉ là
tài sản chung khi giữa vợ và chồng có thỏa thuận.
Trong trường hợp này, nhà đất của anh A tạo lập trước khi
kết hôn là tài sản riêng của anh A. Tài sản đó chỉ là tài sản
chung khi vợ chồng có thỏa thuận bằng văn bản và được công
chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp vì lý do khách quan mà giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất ghi tên cả vợ và chồng và hiện nay giữa 2
bên đang có tranh chấp thì các bên phải có nghĩa vụ chứng
minh. Nếu anh A có đủ bằng chứng để chứng minh căn nhà đó
là do mình tạo lập trước khi kết hôn thông qua giấy tờ mua bán,
sang nhượng với chủ cũ năm 2005, tờ khai đăng ký nhà đất,…
thì căn nhà đó sẽ là tài sản riêng của anh A.
3.2. Kiến nghị hoàn thiện chế định tài sản riêng
Mặc dù chế định tài sản riêng được quy định tại Luật HNGĐ
2014 cụ thể, rõ ràng hơn so với Luật HNGĐ 2000, tuy nhiên quá
trình thực hiện trên thực tế còn khá nhiều vướng mắc và chưa
thống nhất. Vì vậy, cần phải bổ sung một số vấn đề sau:
Thứ nhất, Luật cần quy định cụ thể hơn về “tài sản phục vụ
nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng”, đặc biệt chính là nguồn gốc
của tài sản đó. Tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu đó có nguồn
gốc phát sinh từ tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng
trong thời kỳ hôn nhân. Ngoài ra, với những hoàn cảnh của cá

nhân, của gia đình thì tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của họ
rất khác nhau. Có những gia đình có hoàn cảnh bình thường thì
23


họ xem áo, quần, giày, dép là tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu
của họ. Nhưng có những gia đình khá giả hơn, những cá nhân có
công việc đòi hỏi yếu tố công nghệ thì họ xem máy tính, điện
thoại,… là những tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của mình.
Bên cạnh đó, khi có tranh chấp về tài sản này, cần xem xét
những tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng có
nguồn gốc, giá trị như thế nào đối với khối tài sản chung của vợ
chồng.
Về vấn đề này, pháp luật HNGĐ của nhiều nước quy định
khá cụ thể như Điều 1404 BLDS Pháp ghi nhận về loại tài sản
này phải là những tài sản thông thường mà không phải là những
đồ vật quý, xa xỉ hoặc có giá trị lớn so với thu nhập và khối tài
sản chung của vợ chồng.
Thứ hai, đối với những đồ nữ trang trong ngày cưới mà cha
mẹ cho con (vàng, kim quý,…). Nếu cha mẹ tuyên bố cho chung
thì đó là tài sản chung, nếu tuyên bố cho riêng thì đó là tài sản
riêng. Nếu giữa vợ và chồng có tranh chấp, thì chia cho người
đang chiếm hữu tài sản đó (Căn cứ vào Điều 184 quy định về
Chiếm hữu thực tế). Quy định này là rất cần thiết để bảo đảm
tính nhất quán khi Tòa án giải quyết những tranh chấp về tài
sản là những đồ nữ trang mà cha mẹ tuyên bố cho con trong
ngày cưới.
C. KẾT LUẬN
Tóm lại, Luật HNGĐ 2014 đã ghi nhận chế định tài sản
riêng và quyền có tài sản riêng của vợ, chồng tại các Điều 43,

44, 45 và 46. Việc quy định như vậy là hoàn toàn phù hợp với
quy định về quyền sở hữu tài sản riêng của công dân đã được
Hiến pháp thừa nhận tại Điều 32, đồng thời cũng phù hợp với
những quy định về xác lập quyền sở hữu trong BLDS. Pháp luật
24


quy định vợ, chồng có quyền có tài sản riêng nhằm đảm bảo
quyền của vợ, chồng. Quy định vợ, chồng có tài sản riêng không
làm ảnh hưởng đến hạnh phúc của vợ, chồng và lợi ích của gia
đình mà nhằm đảm bảo cho mỗi bên vợ chồng thực hiện các
quyền và nghĩa vụ về tài sản một cách độc lập. Mặt khác, việc
ghi nhận tài sản riêng của vợ, chồng cũng góp phần hạn chế
các quan hệ hôn nhân thực dụng. Ngoài ra, việc ghi nhận chế
định tài sản riêng này đã thể hiện sâu sắc quan điểm của Đảng
và Nhà nước về vai trò, vị trí của người phụ nữ trong xã hội,
khẳng định việc tiếp cận bình đẳng giới một cách rõ ràng và
triệt để cả về mặt lý luận và thực tiễn cuộc sống.

25


×