Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp cơ sở từ thực tiễn quận sơn trà, thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (324.96 KB, 64 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ QUỲNH ANH

CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ
CẤP CƠ SỞ TỪ THỰC TIỄN QUẬN SƠN TRÀ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ QUỲNH ANH

CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ
CẤP CƠ SỞ TỪ THỰC TIỄN QUẬN SƠN TRÀ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 834.04.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

Người Hướng Dẫn Khoa Học


PGS.TS. NGUYỄN KHẮC BÌNH

HÀ NỘI, năm 2018


LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cán bộ là gốc của mọi công việc”
[16, tr269], công việc thành công hay thất bại đều là do cán bộ. Cán bộ phải
giỏi mới thực hiện tốt hoạt động công vụ. Chính vì vậy, đội ngũ CBCC luôn
được Đảng ta quan tâm ĐTBD và có chính sách cụ thể trong mỗi giai đoạn,
mỗi thời kỳ của cách mạng Việt Nam.
Cơ sở vừa là cấp cuối cùng trong quản lý xét theo cấp độ của
hệ thống chính trị, nhưng nó là cấp đầu tiên và trực tiếp nhất, là nền tảng
xây dựng chế độ dân chủ của toàn bộ hệ thống chính trị của nước ta.
Vì cơ sở là nơi diễn ra mọi hoạt động và cuộc sống của nhân dân,
nơi chính quyền gần dân nhất. Nơi tổ chức và triển khai thực hiện
đường lối, chủ trương, chính

sách của Đảng và Nhà nước. Mọi đường

lối, chủ trương có được thực

hiện tốt hay không phụ

thuộc vào chất

cơ sở, mà nhất là phụ thuộc

vàophẩm chất,


lượng hoạt động của cấp

năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ chủ chốt, cán bộ đảng viên trong
các tổ chức đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân ở cơ sở. Chất lượng,
hiệu quả hoạt động của cấp cơ sở có ảnh hưởng rất lớn đến tình cảm, thái độ,
niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý điều hành của Nhà
nước.
Cán bộ cơ sở phải là người có năng lực giỏi, chuyên môn sâu, kỹ năng
xử lý tình huống… để tập hợp được sức mạnh toàn dân hướng vào phát triển
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, họ phải thực sự là những người tận tâm, tận
lực, gương mẫu. Chính vì vậy, việc nâng cao chất lượng đội ngũ CBCCS là
một nhiệm vụ trọng tâm của Đảng, nhà nước và cả hệ thống chính trị trong
công cuộc cải cách hành chính
1


cũng như phát triển đất nước.
Tuy nhiên, ở cấp cơ sở hiện nay, chất lượng đội ngũ CBCC trong cả
nước nói chung và ở quận Sơn Trà, Thành phố Đà Nẵng nói riêng còn bộc lộ
những hạn chế, thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, bất hợp lý về cơ cấu;
tư tưởng bảo thủ, ỷ lại, ngại tiếp thu cái mới, kém năng động, sáng tạo còn
phổ biến trong một bộ phận công chức; một số công chức có biểu hiện dao
động, cơ hội, bè phái, tham ô, sách nhiễu nhân dân… đã làm giảm uy tín trong
nhân dân, hiệu quả quản lý cơ sở thấp. Để nâng cao chất lượng
đội ngũ CBCCS, việc thực hiện chính sách

ĐTBD cho đội ngũ này là

một trong các giải pháp hết sức quan trọng.

Trong bối cảnh trên, cần có một sự nghiên cứu toàn diện về thực hiện
chính sách ĐTBD CBCCS góp nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực của
đội ngũ cán bộ cơ sở của quận Sơn Trà, Thành phố Đà Nẵng trong những năm
tới. Từ những lý do nêu trên tác giả lựa chọn đề tài: Chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ cấp cơ sở từ thực tiễn quận Sơn Trà, Thành Phố Đà Nẵng”
đề làm luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Công tác ĐTBD CBCC tuy không còn xa lạ bởi đã có nhiều công trình
khảo sát nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC được xem là
vấn đề then chốt trong thời kỳ đổi mới. Quan
CBCC những kiến thức về lý luận chính

tâm ĐTBD cho đội ngũ
trị, về lãnh đạo, quản lý, về

khoa học xã hội, nhân văn và những kiến

thức chuyên môn phù hợp

với công việc được giao. Công chức, chất

lượng CBCC là vấn đề

được sự quan tâm của nhiều tác giả, là đề tài được

hội nghịtại nhiều

hội thảo trong và ngoài nước.
Tác giả Nguyễn Phú Trọng và Trần
Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất


2

Xuân Sầm đồng chủ biên:
lượng đội ngũ cán bộ


trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2003. Trong tác phẩm này, các tác giả đã khẳng định
được
rõ vị trí, vai trò và yêu cầu khách quan, cấp bách của việc nâng cao
chất lượng đội ngũ CBCC. Đồng thời, hệ thống hóa các căn
học của việc nâng cao chất lượng chất lượng đội ngũ cán

cứ khoa
bộ, công

chức phù hợp với thời kỳ CNH – HĐH ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên,
nội dung tác phẩm chỉ mới dừng lại ở việc nghiên cứu đối tượng
CBCC nói chung mà chưa đi sâu vào đối tượng đặc thù là CBCCS.
Cuốn sách “Đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý – Kinh nghiệm từ
thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” của TS.Tần Xuân Bảo, Nxb Chính
trị Quốc gia Sự thật, năm 2012 đã khái quát nội dung, đánh giá thực
trạng công tác ĐTBD lãnh đạo quản lý

để làm căn cứ đổi mới công

tác ĐTBD lãnh đạo quản lý đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố hiện
nay.
Luận án tiến sỹ “Hoàn thiện việc xây dựng đội ngũ công chức hành

chính nhà nước chuyên nghiệp ở Việt Nam” Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh của Chu Xuân Khánh, 2010. Luận án đã đề cập đến
những quan điểm về công chức nhà nước của một số quốc gia khác nhau, làm
cơ sở để phân tích, so sánh với thực tiễn công chức ở Việt Nam. Từ đó góp
phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về đội ngũ công chức hành chính nhà nước và
tính chuyên nghiệp của đội ngũ công chức hành chính nhà nước. Tác giả đã
phân tích, đánh giá thực trạng về xây dựng và phát triển đội ngũ công chức
hành chính ở Việt Nam và đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ
công chức hành chính chuyên nghiệp ở Việt Nam. Tuy nhiên, tác giả đã tiếp
cận theo hướng quản lý hành chính mà không trên quan điểm khoa học về
chính sách công.

3


Ngoài ra, còn có một số bài viết, nghiên cứu được đăng trên các
Tạp chí Tổ chức nhà nước, Tạp chí Cộng sản như:
Nguyễn Thị Kim Dung và Nguyễn Thanh Thủy (2013), “Những kỹ
năng cần thiết của nguồn nhân lực hành chính đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế tri thức ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng Sản.
TS Dương Trung Ý (17/7/2013),“Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức xã, phường, thị trấn”, thông tin điện tử nhà xuất bản chính trị quốc
gia - sự thật.
Đoàn Văn Tình (16/3/2015), “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã, góp phần xây dựng chính quyền địa phương vững mạnh”,
Tạp chí Điện tử tổ chức nhà nước.
ThS. Trần Thị Hạnh (3/7/2015),“Chất lượng đội ngũ cán bộ, c á n b ộ c
ấ p c ơ s ở từ sau Hội nghị Trung ương 5 khóa IX và một số kiến nghị”, Tạp
chí Cộng sản.
Như vậy, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh

khác nhau về chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và có những đóng góp
nhất định trong việc đề ra chủ trương, đường lối, chính sách và tìm ra một số
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ công chức ở nước ta. Tuy nhiên,
các công trình nghiên cứu trên tập trung chủ yếu mặt phương pháp luận hoặc
nghiên cứu trong phạm vi rộng dưới góc độ của quản lý công (cả đội ngũ cán
bộ, công chức nhà nước), chưa đi sâu nghiên cứu dưới góc độ về chính sách
công cũng như cụ thể về thực hiện chính sách đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ, CBCCS.
Dưới góc độ khoa học, các công trình nói trên có giá trị đối với những
người đã và đang nghiên cứu về chất lượng cán bộ, công chức. Tuy nhiên, ở
quận Sơn Trà chưa có công trình nghiên cứu nào cụ thể và toàn diện về thực
hiện chính sách ĐTBD CBCCS dưới góc độ khoa học chính sách công. Vì

4


vậy, tác giả nghiên cứu đề tài: Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp cơ
sở từ thực tiễn quận Sơn Trà, Thành Phố Đà Nẵng” góp phần làm sinh
động thực tiễn trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ CBCCS phục vụ sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận về thực hiện chính sách ĐTBD CBCCS và thực
trạng thực hiện chính sách ĐTBD CBCCS tại quận Sơn Trà, Thành phố Đà
Nẵng để đề ra một số giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách ĐTBD
CBCCS tại quận trong những năm tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng khái niệm có liên quan về thực hiện chính sách ĐTBD
CBCCS
- Đánh giá thực trạng công tác thực hiện chính sách ĐTBD CBCCS tại

quận Sơn Trà, Thành phố Đà Nẵng trong những năm gần đây.
- Đề xuất những giải pháp thực hiện chính sách ĐTBD CBCCS tại
quận Sơn Trà trong những năm tiếp theo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp thực hiện chính sách ĐTBD CBCCS tại quận Sơn Trà, Thành
phố Đà Nẵng.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Thực hiện chính sách ĐTBD CBCCS tại quận Sơn Trà, Thành phố Đà
Nẵng.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn đề cập đến thực hiện chính sách ĐTBD CBCCS tại quận Sơn
Trà, Thành phố Đà Nẵng và không đề cập đến những vấn đề hoạch định và

5


đánh giá chính sách.
Về không gian: Các phường thuộc quận Sơn Trà, Thành phố Đà Nẵng.
Về thời gian: số liệu trong khoảng thời gian 5 năm từ năm 2012 –
2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về xây dựng CBCC nói chung và CBCCS nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Các phương pháp cụ thể được sử dụng:
* Phương pháp thống kê - phân tích
- Thu thập tài liệu thức cấp: Thập số liệu từ các tài liệu, báo cáo đã
công khai và trên website của UBND quận Sơn Trà.

- Thu thập tài liệu sơ cấp: Toàn bộ số liệu phục vụ cho nghiên cứu luận
văn tác giả thu thập qua khảo sát, điều tra thông qua phiếu điều tra
* Phương pháp tổng hợp - so sánh
- Phương pháp phân tích: phân tích các báo cáo liên quan đến tình hình
hoạt động của đơn vị và các biện pháp thực hiện chính sách ĐTBD CBCCS.
- Phương pháp so sánh: sử dụng so sánh để đối chiếu giữa các năm hoạt
động của đơn vị.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn hệ thống hóa và làm rõ các khái niệm, các vấn đề lý luận cơ
bản liên quan đến thực hiện chính sách ĐTBD đội ngũ CBCCS, phân tích các
yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách ĐTBD đội ngũ CBCCS.

6


6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Dựa trên kết quả nghiên cứu thực tế về thực hiện chính sách ĐTBD đội
ngũ CBCCS tại quận Sơn Trà, Luận văn nêu lên thực trạng thực hiện chính
sách ĐTBD đội ngũ CBCCS để đề xuất các giải pháp thực hiện chính sách
ĐTBD đội ngũ CBCCS tại quận Sơn Trà. Đây là những tư liệu kinh nghiệm
cho các nhà quản lý ở các cơ quan hành chính nhà nước, địa phương tham
khảo trong việc thực hiện chính sách ĐTBD đội ngũ CBCCS ở, địa phương
mình.
7. Bố cục của luận văn
Luận văn này ngoài Phần Mở đầu, Kết luận, nội dung chính chia làm 3
chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp
cơ sở
Chương 2. Thực trạng chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp cơ sở

tại quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng
Chương 3. Giải pháp chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp cơ sở tại
quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng

7


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO,
BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Cấp cơ sở
Hệ thống 4 cấp của quản lý hành chính nhà nước của nước ta
hiện nay gồm: Trung ương - tỉnh, thành phố - quận, huyện - xã, phường.
Bốn cấp quản lý này
được tổ chức theo một hệ thống dọc. Từ trên
xuống sẽ là trung ương - địa phương và cơ sở. Nếu nhìn dưới lên sẽ là
cơ sở - địa phương và
chính quyền cấp xã là

toàn quốc. Nói đến cấp xã là nói đến cấp cơ sở,
chính quyền cấp cơ sở.

Cơ sở nhìn chiều từ trên xuống, xét về quy mô và cấp độ tổ chức
là cấp thấp nhất, cấp

cuối cùng. Cũng có thể coi cấp cơ sở là cấp nhỏ

nhất. Nếu trung ương


và toàn quốc được xem là một chỉnh thể, hệ thống

của cái vĩ mô, đứng đầu là

nhà nước trung ương. Cơ sở thường được

xem là cái vi mô, là một tế bào, một phần tử hợp thành của cái vĩ mô
- cả nước và toàn quốc như một cơ thể sống.
Xét theo quan hệ quyền lực, quyền hạn, chức trách của tổ chức nhà nước,
cấp cơ sở là thấp nhất, nhỏ nhất. Chính quyền cấp cơ sở cũng như hệ thống
chính trị cấp cơ sở đương nhiên chịu sự chỉ đạo, kiểm soát của cấp trên, từ
huyện, tỉnh tới Trung ương. Cái nhỏ nhất, thấp nhất đó còn được minh chứng
bởi quy mô diện tích, địa giới hành chính và số lượng dân cư mà xã/phường
quản lý.
Cấp cơ sở là nơi gần dân nhất, là cầu nối trực tiếp giữa cơ quan quản lý
hành chính nhà nước với nhân dân, hàng ngày lắng nghe, nắm bắt và

8


phản ánh tâm tư, nguyện vọng
chính đáng của nhân dân. Cấp cơ sở có
vai trò quan trọng trong việc triển khai
và vận động nhân dân thực
hiện tốt mọi đường

lối, chủ

trương, chính sách của Đảng, pháp luật của


Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân, huy động mọi nguồn
đảm bảo an

lực để phát triển kinh tế xã hội,

ninh – quốc phòng, trật tự an

Cấp cơ sở còn

toàn xã hội.

là nơi chứng thực đường lối, chính sách, luật pháp của

Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống và được triển khai cụ thể ra sao, bởi
chính sách dù khoa học, đúng đắn đến đâu thì cũng chỉ là những khả
năng khoa học, là chủ

quan của một phía

từ những nghiên cứu, chưa

hiệu quả nếu không

đưa vào thực tiễn cơ sở

được vật chất hoá ở đời

sống người dân, phải được


thể chế hoá chặt chẽ qua hoạt động của

cơ sở. Cấp cơ sở là cấp hành

đủ để

khẳng định

phong phú, phải

động, cấp hoạt động, tổ chức thực hiện đường lối chính sách, nghị quyết của
Đảng và Nhà nước.
Trong luận văn, tác giả sử dụng thuật ngữ cấp cơ sở thay cho cấp xã. Do
đó từ phần nghiên cứu này trở đi, thuật ngữ cấp xã được thay thế bằng thuật
ngữ cấp cơ sở.
1.1.2. Cán bộ cấp cơ sở
Theo khoản 3, Điều 4, Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định: “
Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt
Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ
chức chính trị- xã hội; Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển
dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp
xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”.

9


Theo Nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính
phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với CBCC xã,
phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã:

- CBCCS có các chức danh sau đây:
+ Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy;
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân; Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy
ban nhân dân;
+ Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Chủ tịch Hội Cựu chiến
binh Việt Nam; Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Bí thư Đoàn Thanh
niên cộng sản Hồ Chí Minh; Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối
với xã, phường, thị trấn có hoạt động nông, lâm,
ngư, diêm nghiệp và có Tổ chức Hội Nông dân Việt Nam).
+ Trưởng Công an
+ Chỉ huy trưởng Quân sự
+ Địa chính – xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn)
hoặc địa chính – nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã)
+ Văn phòng - thống kê
+ Tài chính - kế toán
+ Tư pháp - hộ tịch
+ Văn hóa - xã hội
- Số lượng CBCC cấp cơ sở được bố trí theo loại đơn vị hành chính cấp
cơ sở; cụ thể như sau:
+ Cấp cơ sở loại 1: không quá 25 người;
+ Cấp cơ sở loại 2: không quá 23 người;
+ Cấp cơ sở loại 3: không quá 21 người.

10


- Số lượng những người hoạt động không

chuyên trách ở cấp cơ


+ Cấp cơ sở loại 1 được bố trí tối đa không

quá 22 người.

sở:
+ Cấp cơ sở loại 2 được bố trí tối đa không quá 20 người.
+ Cấp cơ sở loại 3 được bố trí tối đa không quá 19 người.
1.1.3. Đặc điểm của cán bộ cấp cơ sở
Đội ngũ CBCCS gồm cán bộ chuyên trách, công chức và những người
hoạt động không chuyên trách có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, là những người thực thi công vụ ở cấp cơ sở
Công vụ là một loại hoạt động mang tính quyền lực – pháp lý được thực
thi bởi những người được nhà nước trao quyền, nhằm thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của nhà nước trong quá trình quản lý toàn diện các mặt hoạt
động của đời sống xã hội. Họ được trao quyền thực thi công vụ. Đồng thời, họ
có trách nhiệm phục vụ xã hội, công dân và chịu trách nhiệm liên quan đến
chức trách mà mình đang đảm nhiệm.
Thứ hai, được nhà nước đảm bảo các điều kiện cần thiết, quyền lợi
chính đáng để có khả năng và yên tâm thực thi công vụ.
CBCCS được nhà nước cung cấp những điều kiện cần thiết để tiến hành
thực thi công vụ như trụ sở, điều kiện, phương tiện làm việc. Họ được đảm
bảo những quyền lợi vật chất và tinh thần như: Hưởng lương từ ngân sách nhà
nước tương xứng với chức trách, công việc được giao, được hưởng các loại
phụ cấp, trợ cấp và hưởng lương hưu khi có đủ thời gian công hiến cho nên
công vụ.
Thứ ba, đội ngũ CBCCS hầu hết là người địa phương, sinh sống tại địa
phương, có quan hệ dòng tộc và gắn bó mật thiết với nhân dân.
Bản thân những cán bộ cấp cơ sở đa phần đều trưởng thành từ các hoạt
động của tổ, khu vực nên mang những đặc tính của người địa


11


phương. Họ vừa là những người đại diện cho lực lượng sản xuất, vừa
là đại diện quyền lực của nhà nước tại địa phương.
Thứ tư, hoạt động công vụ của CBCCS là hoạt động đa dạng và
phức tạp, đòi hỏi phải thực hiện thường xuyên và chuyên nghiệp.
Cấp cơ sở là nơi trực tiếp giải quyết các vấn đề của người dân, so với
các cấp quản lý khác trong bộ máy quản lý nhà nước thì quy mô của cấp cơ sở
nhỏ hơn nhưng các vấn đề cần giải quyết thường phức tạp hơn do mỗi người
dân có hoàn cảnh, nhu cầu và lợi ích khác nhau, họ hành động xuất phát từ lợi
ích của họ nhiều hơn lợi ích của hệ thống. Chính vì vậy, CBCCS phải có
chuyên môn sâu, am hiểu thực tế và có kinh nghiệm giải quyết những tình
huống khác nhau.
1.1.4. Đào tạo, bồi dưỡng
Một số nước trên thế giới quan niệm thuật ngữ “tu nghiệp” thay vì
“ĐTBD”. Bồi dưỡng thường diễn ra sau đào tạo, nghĩa là sau khi người lao
động đã có một nghề về một lĩnh vực chuyên môn để có thể lập nghiệp.
ĐTBD CBCC được xác định như là một quá trình có kế hoạch làm biến đổi
thái độ, kiến thức hoặc kỹ năng thông qua việc học tập rèn luyện để làm việc
có hiệu quả trong một hoạt động hay trong một loạt các hoạt động nào đó,
theo định nghĩa của Ủy ban Nhân lực của Anh. Mục đích của nó, xét theo tình
hình công tác ở tổ chức, là phát triển nâng cao năng lực cá nhân và đáp ứng
nhu cầu nhân lực hiện tại và tương lai của cơ quan. Trong đạo luật Liên bang
của Mỹ, đào tạo được xác định như là một quá trình cung cấp và tạo dựng khả
năng làm việc cho người học và bố trí, đưa họ vào các chương trình, khoá
học, môn học, hệ thống hoặc nói cách khác là huấn luyện và giáo dục được
chuẩn bị, có kế hoạch, có sự kết hợp trong các lĩnh vực khoa học, chuyên
ngành, kỹ thuật, cơ khí, thương mại, văn phòng, tài chính,


12


hành chính hay các lĩnh vực khác nhằm nâng cao kết quả thực hiện công việc
của cá nhân, tổ chức và giúp họ hoàn thành nhiệm vụ và mục tiêu công tác.
Ở Việt Nam, Nghị định 18/2010/NĐ-CP của Chính phủ về ĐTBD
công chức đưa ra định nghĩa đào tạo công chức như sau: Đào tạo là
quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức,
theo quy định của từng cấp học, bậc học.
Nghị

định 18/2010/NĐ-CP của Chính phủ về ĐTBD công chức

đưa ra định nghĩa bồi dưỡng công chức như sau: Bồi dưỡng
động trang

kỹ năng

là hoạt

bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc, gồm :

- Bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch là trang bị kiến thức,
hoạt động theo chương trình quy định

cho ngạch công chức.

- Bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức

vụ lãnh đạo, quản lý là


kỹ năng
trang bị

kiến thức, kỹ năng, phương pháp làm việc theo chương trình quy định cho
từng chức vụ lãnh đạo, quản lý.
- Bồi dưỡng theo vị trí việc làm là trang bị, cập nhật kiến thức, kỹ năng,
phương pháp cần thiết để làm tốt công việc được giao.
Như vậy đào tạo được xem như là một quá trình làm cho người
ta “trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định”, và
bồi dưỡng được xác định là

quá trình làm cho người ta “ tăng thêm

năng lực hoặc phẩm chất”. Một

định nghĩa chung cho ĐTBD có thể

được hiểu như là quá trình làm biến đổi hành vi con người một cách
có hệ thống thông qua việc học tập, việc học tập này có được là kết
quả của giáo dục, hướng dẫn, phát triển, và lĩnh hội kinh nghiệm theo
một cách bài bản, có kế hoạch. Vì vậy, ĐTBD cán bộ chính là việc tổ
chức những cơ hội cho cán bộ học tập nhằm trang bị, cập nhật, nâng cao kiến
thức, kỹ năng, thái độ, tăng cường năng lực làm việc để họ

13


thực hiện công việc được giao tốt hơn, hiệu quả hơn; qua đó giúp tổ chức đạt
được mục tiêu của mình.

Mục đích của việc ĐTBD cán bộ:
- Phát triển năng lực làm việc cán bộ và nâng cao khả năng thực hiện
công việc thực tế của họ.
- Giúp cán bộ luôn phát triển để có thể đáp ứng được nhu cầu
nhân lực trong tương lai của tổ chức.
- Giảm thời gian học tập, làm quen với công việc mới của cán bộ
do thuyên chuyển, đề bạt, thay đổi nhiệm vụ và đảm bảo cho họ có
đầy đủ khả năng làm việc một cách nhanh chóng và tiết kiệm.
Nhìn chung, ĐTBD là hoạt động nhằm:
- Trang bị, bổ sung, nâng cao kiến thức, kỹ năng liên quan đến
công việc.
- Thay đổi thái độ và hành vi.
- Nâng cao hiệu quả thực hiện công việc.
- Hoàn thành những mục tiêu của cá nhân và của tổ chức.
1.1.5. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp cơ sở
1.1.5.1. Chính sách công
Thông thường người ta hiểu cụm từ “chính sách” khi nó có vai trò, chức
năng của “khu vực công” thì được gọi là chính sách công. Vì vậy, trong thực
tế nhiều nhà nghiên cứu có những định nghĩa khác nhau về chính sách công
với chức năng, vai trò cũng có sự khác biệt.
B. Guy Peter ( 1990) định nghĩa: “ Chính sách công là toàn bộ các hoạt
động của nhà nước có ảnh hưởng một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc
sống của mọi công dân”.
Ở Việt Nam, tác giả Phạm Quý Thọ cho rằng: “chính sách công là những
định hướng mục tiêu và biện pháp hành động, được Nhà nước lựa chọn và ban

14


hành như một công cụ quản lí của Nhà nước, nhằm giải quyết các vấn đề công

cộng được lựa chọn và được thực thi bởi các chủ thể có thẩm quyền” [24].
Tác giả Nguyễn Khắc Bình đưa ra khái niệm về chính sách công như sau:
Chính sách công là hoạt động mà chính phủ chọn thực hiện hoặc không thực
hiện để điều hòa các xung đột trong xã hội nhằm thúc đẩy xã hội phát
triển theo định hướng nhất định [2].
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng khái niệm về chính sách công
của tác giả Nguyễn Khắc Bình để làm cơ sở cho việc phân tích, đánh giá thực
hiện chính sách ĐTBD CBCCS tại một địa phương
1.1.5.2. Thực hiện chính sách công
Thực hiện chính sách được đưa ra như là việc mang lại quyết định cơ
bản chính sách, thông thường tập hợp nhiều trạng thái nhưng cần hình thức
quản lí trọng tâm, luật pháp. Xác định những hành vi bằng việc hướng tới
mục tiêu thông qua việc đưa ra quyết định công. Thực hiện chính sách là sự
phát triển giữa những gì chính phủ đưa ra tiếp theo là chương trình hành động.
Nghĩa là sau khi ban hành, chính sách phải được triển khai trong đời sống xã
hội. Tác giả Nguyễn Khắc Bình định nghĩa thực hiện chính sách công như
sau:
Thực hiện chính sách là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể
trong chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lí nhằm đạt được
mục tiêu định hướng của Nhà nước [2].
Trong nghiên cứu này chúng tôi theo quan điểm của tác giả Nguyễn
Khắc Bình để phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện chính sách ĐTBD
CBCCS ở địa phương.
1.1.5.3. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp cơ sở
Luật CBCC năm 2008 xác định “ nhà nước có chính sách để phát hiện,
thu hút, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng đối với

15



người có tài năng” [ 21, tr21].
Công tác ĐTBD CBCCS được xem là nhiệm vụ then chốt trong công tác
cán bộ. Do vậy, trên quan điểm về chính sách công nói chung và nhiệm vụ
của ĐTBD CBCCS, có thể đưa ra khái niệm về chính sách ĐTBD cho
CBCCS như sau: Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm: Chính
sách ĐTBD CBCCS là một chính sách trong hệ thống các chính sách nhằm
phát triển đội ngũ CBCCS. Chính sách đó là tập hợp các quyết định chính trị
của Nhà nước tác động đến đối tượng CBCCS bao gồm
nhiều hoạt động từ xây dựng chương trình, kế hoạch ĐTBD, lựa chọn người
đi học, phương pháp tổ chức ĐTBD, chế độ đãi ngộ đối với
người học và công tác kiểm tra
công tác đào tạo cán bộ

công tác cử cán bộ đi học sao

đảm bảo

ch
o
về chất lượng, phù hợp về số

lượng để CBCCS sau khi được ĐTBD đáp ứng được yêu cầu nhiệm
vụ trong tình hình mới.
Chính sách ĐTBD cho CBCCS là phương tiện thể chế hóa đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với công tác ĐTBD
cho CBCCS. Dựa vào văn bản quy phạm pháp luật quy định chính sách
ĐTBD đội ngũ CBCCS để xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
từng ngành, từng cấp, từng cơ quan về ĐTBD đội ngũ CBCCS.
1.1.5.4. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng
a) Đào tạo, bồi dưỡng ở trong nước

(1) Về bồi dưỡng
- Lý luận chính trị: gắn với tiêu chuẩn cán bộ được Đảng xác định mang
tính nguyên tắc, thể hiện tại Quy định số 54-QĐ/TW ngày 12-5-1999 của Bộ
Chính trị về chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng. Việc học tập lý luận
chính trị là trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo,

16


quản lý; việc học tập lý luận chính trị không phải học một lần, học để lấy
bằng cấp mà là việc phải thực hiện thường xuyên để kịp thời bổ sung những
kiến thức mới.
- Kiến thức quản lý nhà nước: Những khóa học này sẽ trang bị, cập nhật
những kiến thức cần thiết về quản lý nhà nước và các kỹ năng thực thi công
việc, đồng thời tăng cường ý thức phục vụ nhân dân, nâng cao năng lực công
tác cho các CBCC trong việc thực hiện nhiệm vụ , quyền hạn và trách nhiệm
được giao.
- Bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh: góp phần đào tạo con
người phát triển toàn diện, hiểu biết một số nội dung cơ bản về quốc phòng,
an ninh; truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc, trách nhiệm và
nghĩa vụ của công dân về bảo vệ Tổ quốc; nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội; có ý thức cảnh giác trước âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù
địch; có kiến thức cơ bản về đường lối quốc phòng, an ninh và công tác quản
lý nhà nước về quốc phòng, an ninh; có kỹ năng quân sự, an ninh cần thiết để
tham gia vào sự nghiệp xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh
nhân dân, sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
- Bồi dưỡng về ngoại ngữ, tin học theo quy định chuẩn của nhà nước.
(2) Về đào tạo
- Đào tạo trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học, sau đại học cho CBCC
phù hợp với điều kiện và yêu cầu phát triển của từng vùng, miền.

- Đào tạo chuyên môn nghiệp vụ sẽ cung cấp cho đội ngũ kiến thức quản
lý kinh tế, kiến thức quản lý nhà nước, kiến thức pháp luật và trình độ lý luận.
Việc đào tạo chuyên môn nghiệp vụ rất cần thiết bởi đây là đội ngũ quyết định
thành bại các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước.
- Đối với cán bộ lãnh đạo cần phải có nội dung đào tạo nhằm phát triển

17


kỹ năng quản lý, điều hành.
b) Đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài:
Đào tạo về khoa học quản lý ở một số ngành kinh tế - xã hội như quản lý
môi trường, quản lý đô thị, quản lý xã hội, quản lý nhân sự…Lĩnh vực quản lý
hành chính công quyền cần phải được tập trung ĐTBD nhằm góp phần
chuyên nghiệp hóa các chính sách ở nước ta.
1.1.6. Các chủ thể thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
- Bộ Nội vụ chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm việc thực hiện quy hoạch, kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở trong nước và ở nước ngoài;
các chính sách liên quan đến CBCC. [9].
- HĐND và UBND thành phố: ban hành các chính sách về CBCCS bên
cạnh các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong Luật tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015 [22].
- Sở Nội vụ trực tiếp tham mưu cho UBND thành phố ban hành kế hoạch
ĐTBD cho CBCC và phối hợp với Sở Tài chính thực hiện kinh phí trợ cấp
cho hoạt động ĐTBD của CBCC theo quy định. Đồng thời hướng dẫn, kiểm
tra, báo cáo kết quả hoạt động ĐTBD cho CBCC hằng năm theo quy định của
Bộ Nội vụ. Sở Nội vụ tổng hợp danh sách do phòng Nội vụ quận cung cấp để
trình UBND thành phố phê duyệt. Sau đó, Sở Nội vụ tiến hành mở các lớp
ĐTBD với sự tham gia các cơ sở đào tạo.

- Phòng Nội vụ quận ban hành các văn bản liên quan đến công tác
ĐTBD gửi cho các cơ quan, đơn vị, UBND cấp cơ sở để khảo sát nhu cầu và
đăng ký danh sách cần ĐTBD. Phòng Nội vụ sẽ tổng hợp, đối chiếu kiểm tra
tình hình thực tế để lập danh sách gửi Sở Nội vụ sau khi được Quận ủy,
UBND quận thống nhất. Sau khi được phê duyệt, phòng Nội vụ sẽ xây dựng
kế hoạch và triển khai công tác ĐTBD cho đội ngũ CBCCS theo quy định.

18


1.2. Nội dung chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp cơ sở
1.2.1. Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
CBCCS là lực lượng nòng cốt, một trong những nhân tố quyết định việc
thực hiện nhiệm vụ chính trị, quản lý xã hội ở xã/phường. Từ đặc điểm đội
ngũ CBCCS đã nêu trên với bối cảnh đất nước phát triển nhanh và hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng, đội ngũ CBCCS phải được thường xuyên ĐTBD
về về lý luận chính trị, nghiệp vụ công tác đảng, chuyên môn nghiệp vụ. Việc
xây dựng kế hoạch phải xác định mục tiêu ĐTBD rất quan trọng, trước hết
phải xuất phát từ yêu cầu công việc, từ mục tiêu của tổ chức và chiến lược
phát triển của tổ chức đó. Mục tiêu của ĐTBD phải nêu một cách rõ ràng,
chính xác và cụ thể của khóa đào tạo muốn đạt được. Phải xác định học viên
đạt được những gì, mức độ kiến thức, kỹ năng và khả năng thực hiện công
việc sau quá trình ĐTBD.
- Xây dựng chương trình và tổ chức ĐTBD
ĐTBD đội ngũ CBCCS thực hiện theo chương trình chung hàng năm của
cơ quan có thẩm quyền ở địa phương quy định. Tuy nhiên ngoài ĐTBD những
kiến thức trong chương trình ĐTBD công chức chung thì cũng cần xây dựng
những nội dung chương trình phù hợp với đặc thù của cơ quan công tác; đặc
biệt phải phù hợp với thực tiễn của từng xã/phường hoặc khu vực thuộc cấp
quận/huyện. Chương trình ĐTBD phải gắn với những vấn đề thực tiễn đang

đặt ra; nhất là những vấn đề liên quan về đất đai, quản lý trật tự xã hội,
tôn giáo, dân tộc.
Báo cáo chính trị tại Đại hội

Đại biểu toàn quốc lần thức

của Đảng đã chỉ rõ: “Công tác giáo

dục lý luận chính trị, học tập

XII
nghị

quyết của Đảng cần được đổi mới mạnh mẽ. Thực hiện nền nếp

việc

bồi dưỡng lý luận,

cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng

viên,

nhất là cán bộ lãnh

đạo, quản lý các cấp….” [11, tr135].

19



Tổ chức ĐTBD cho đội ngũ CBCCS phải căn cứ vào đặc điểm đối tượng
CBCCS như đã nêu ở trên để có phương pháp giảng dạy phù hợp. Tổ chức
ĐTBD phải mềm dẻo về thời gian mặc dù có kế hoạch từ trước. CBCCS là
những người hàng ngày thường xuyên phải giải quyết các công việc ở địa
phương. Do đó, họ vừa học tập vừa phải trực tiếp có mặt để giải quyết những
vấn đề cụ thể ở cơ sở. Vì vậy, các khóa học phải bố trí thời gian hợp lý cho
các đối tượng này. Ví dụ ngoài các khóa học tập trung, công tác bồi dưỡng có
thể tổ chức vào cuối tuần hoặc sau giờ hành chính.
- Kinh phí ĐTBD cho CBCCS thường được sử dụng phần lớn từ nguồn
ngân sách nhà nước, tùy thuộc vào từng giai đoạn, chính sách đào tạo của
từng địa phương mà mức kinh phí này có thể khác nhau, tuy nhiên điểm
chung là kinh phí đào tạo được sử dụng từ ngân sách nhà nước và không vượt
quá phạm vi ngân sách.
- Xây dựng cơ chế chính sách đặc thù đãi ngộ cho người đi học. Bên
cạnh chế độ theo quy định của Chính phủ, địa phương cử cán bộ đi học cần có
cơ chế chính sách đặc thù cho người đi học. Cơ chế đó phải quy định cụ thể
về nhiều mặt nhằm tạo điều kiện cho người học được ĐTBD theo nguyện
vọng cá nhân và yêu cầu công tác của cơ sở.
1.2.2. Phổ biến, tuyên truyền chính sách ĐTBD
Hoạt động này giúp cho đội ngũ CBCC hiểu rõ chính sách và chủ động
tham gia thực hiện chính sách có hiệu quả. Tuyên truyền, phổ biến chính sách
được thực hiện theo nhiều hình thức đa dạng, phong phú như trên đài truyền
thanh, trên trang web, cổng thông tin điện tử, văn bản giấy, tờ rơi…
1.2.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách
Để chính sách có hiệu quả cần phải có sự phối hợp giữa các đơn vị, các
cấp, các ngành có liên quan một cách nhịp nhàng:
- Ban tổ chức Quận ủy và Phòng Nội vụ: tham mưu xây dựng kế hoạch

20



và đảm bảo mọi điều kiện cho tổ chức thực hiện chính sách ĐTBD cho đội
ngũ CBCCS.
- Chính quyền cấp cơ sở: dựa trên nhu cầu thực tế của địa phương tiến
hành rà soát, thống kê về nhu cầu và số lượng cán bộ cần phải ĐTBD. Hỗ trợ
về thời gian, vật chất (nếu có) cho người tham gia ĐTBD.
1.2.4. Kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện
Theo dõi tiến độ thực hiện, đôn đốc nhắc nhở các đơn vị có liên quan nỗ
lực hoàn thành nhiệm vụ.
Kiểm tra là hoạt động nhằm nắm bắt thông tin, diễn biến trong quá trình
thực hiện chính sách ĐTBD cho CBCCS. Kiểm tra việc thực hiện nội dung
chương trình, công tác cử người tham gia ĐTBD, công tác phân công, cử cán
bộ giảng viên tham gia giảng dạy nhằm đảm bảo chất lượng ĐTBD, cử đúng
đối tượng và góp phần nâng cao từng bước đội ngũ CBCCS.
Công tác kiểm tra còn giúp cho CBCCS được cử đi học tập yên tâm về
tư tưởng để hoàn thành chương trình đào tạo. Hoạt động kiểm tra cũng nhằm
kịp thời phát hiện những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện chính sách
trên để kịp thời điều chỉnh những vấn đề mới phát sinh như cử tuyển, nội
dung đào tạo, thời gian thực hiện chương trình. Ở cấp cơ sở mọi hoạt động
thường xuyên diễn ra trong từng giờ. Do đó thực hiện chính sách trên phải có
phương pháp mềm dẻo phù hợp với từng thời kỳ, giai đoạn. Ví dụ địa phương
có vấn đề nóng về khiếu kiện đất đai thì phải để cán bộ đang học tập về địa
phương giải quyết hoặc khi có thiên tai lớn có thể phải dừng học tập để tập
trung sức lực, trí tuệ thực hiện các công tác cấp bách đó.
1.2.5. Đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm
Đánh giá kết quả ĐTBD là một phần quan trọng trong quá trình ĐTBD.
Đánh giá kết quả ĐTBD là để xem xét mức độ thỏa mãn các mục tiêu ĐTBD
và đưa ra những điều chỉnh thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả cho các

21



chương trình ĐTBD sau.
Để đánh giá kết quả ĐTBD cần đánh giá chương trình ĐTBD để xác
định nó có đáp ứng được mục tiêu đề ra hay không nghĩa là hiệu quả làm việc
của học viên có thay đổi theo chiều hướng mong muốn hay không và những
thay đổi đó của học viên có thể kết luận là do chương trình ĐTBD mang lại
hay không. Tiêu chuẩn về hiệu quả cần được đánh giá trong và ngay sau quá
trình ĐTBD.
Hiệu quả của khóa ĐTBD được xác định liệu chương trình ĐTBD có đáp
ứng được các mục tiêu ĐTBD hay không?
Để đánh giá hiệu quả ĐTBD thường được thực hiện qua hai giai đoạn:
- Giai đoạn nhận thức: học viên thích chương trình ĐTBD như thế nào,
tiếp thu, học được gì qua khóa ĐTBD.
- Giai đoạn vận dụng: học viên áp dụng các kiến thức, kỹ năng đã học
vào trong thực tế để thực hiện công việc. So sánh hiệu quả công việc trước và
sau khi được ĐTBD để biết được hiệu quả của chính sách ĐTBD.
Bên cạnh đó, chúng ta có thể đánh giá hiệu quả ĐTBD bằng một số cách
như: thăm dò ý kiến của tất cả những người quan tâm đến chương trình
ĐTBD; trao đổi trực tiếp với những người mới được ĐTBD để biết ý kiến và
đánh giá của họ về chương trình ĐTBD…
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ cấp cơ sở
Thực tiễn trong nhiều năm qua đã cho thấy, thực hiện chính sách ĐTBD
đội ngũ CBCCS nói chung đã đạt được nhiều thành tựu góp phần nâng cao
chất lượng đội ngũ CBCCS ở nước ta. Tuy nhiên, thực hiện chính sách ĐTBD
CBCC nói chung và CBCCS được đánh giá là nặng về lý thuyết, thiếu tính
ứng dụng, chưa chú trọng những đặc thù riêng biệt của từng vị trí việc làm,
từng địa phương; đặc biệt là ở những địa phương có những đặc thù riêng. Để


22


nâng cao hiệu quả trong thực hiện chính sách ĐTBD đội ngũ CBCCS, đòi hỏi
các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách phải thiết kế được chương
trình ĐTBD phù hơp với khung năng lực của từng vị trí việc làm, phù hợp với
điều kiện kinh tế xã hội của cơ sở hoặc vùng. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc
thực hiện chính sách ĐTBD cụ thể sau:
1.3.1. Các yếu tố khách quan
Một là, môi trường thực thi chính sách ĐTBD CBCCS đó là toàn
bộ các thành phần vật chất, phi vật chất tham gia thực hiện chính
sách như: các điều kiện vật chất, kỹ thuật trong nền kinh tế; các nhóm
lợi ích có được từ việc thực thi chính sách này; bầu không khí chính
trị, trật tự xã hội ở địa phương. Nhìn chung

môi trường thực hiện

chính sách ĐTBD ở các địa phương của nước ta có nhiều thuận lợi. Đó
là, hệ thống chính trị ổn định; Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư cơ
ở vật chất, kỹ thuật trong lĩnh vực giáo dục nói chung và ĐTBD CBCCS
nói riêng. Ngoài một số điểm nóng về trật tự trị an do khiếu kiện về đất đai,
nói chung các cơ sở ở nước ta đều ổn định về trật tự xã hôi. Các tổ chức
Đảng, đoàn thể cùng chính quyền địa phương thống nhất trong thực hiện các
nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội và thực hiện đúng chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước. Đây là một yếu tố khách quan thuận lợi để thực hiện
chính sách ĐTBD CBCCS ở nước ta.
Hai là, đối tượng thực hiện chính sách: việc tuyển chọn đội ngũ cán bộ
ngay ban đầu đóng vai trò quyết định. Phải tuyển chọn đúng đối tượng đi học
để ĐTBD CBCCS đạt hiệu lực, hiệu quả.
Nguồn và chất lượng đầu vào của đội ngũ CBCCS sẽ ảnh hưởng đến

thực hiện chính sách ĐTBD. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ yếu sẽ ảnh
hưởng đến việc tiếp thu các kiến thức ĐTBD mới; nhất là kiến thức có tính
hội nhập quốc tế. Tinh thần thái độ học tập cũng ảnh hưởng lớn đến thực hiện

23


×