Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC NHÂN TỐ TỰ NHIÊN ĐẾN MỘT SỐ CÂY LÂM NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TÂN SƠN, TỈNH PHÚ THỌ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.96 MB, 61 trang )

DANH SÁCH BẢNG BIỂU
Bảng 1.1
Bảng 2.1
Bảng 2.2
Bảng 2.3
Bảng 2.4

Hiện trạng sử dụng đất lâm nghiệp của Tân Sơn
Các yếu tố khí hậu cho sự phát triển cây keo tai tượng
Các yếu tố địa hình
Các yếu tố đất
Sinh trưởng Trám đen trong các công thức thí nghiệm

Bảng 2.5

So sánh điều kiện tự nhiên Tân Sơn với điều kiện thích
nghi của 1 số loại cây lâm nghiệp
Nhận xét khả năng phù hợp của một số loại cây lâm nghiệp
với điều kiện tự nhiên Tân Sơn
Nhận xét khả năng phù hợp của các loại cây lâm nghiệp
đối với diều kiện kinh tế xã hội của địa phương
Quy hoạch rừng đặc dụng tỉnh Phú Thọ đến năm 2020.

Bảng 2.6
Bảng 2.7
Bảng 2.8

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời kì đổi mới và phát triển kinh tế của nước ta hiện nay, nhà nước
ta và Đảng ta luôn tạo những điều kiện thuận lợi cho kinh tế tăng trưởng và phát


triển. Việc đầu tư phát triển kinh tế không những được chú trọng ở vùng đồng
1


bằng mà còn cả vùng núi, nơi những điều kiện tự nhiên không thuận lợi bằng
vùng đồng bằng. Để nắm bắt được những điều kiện thuận lợi hay khó khăn của
tự nhiên để nghiên cứu biện pháp phát triển kinh tế phù hợp với từng địa phương
miền núi. Trong giai đoạn hiện nay, công nghiệp chưa vươn mạnh tới vùng xâu
vùng xa, nên việc phát triển kinh tế nông nghiệp đặc biệt là sản xuất các loại cây
lâm nghiệp lâu năm là hướng xóa đói giảm nghèo bền vững ở vùng núi. Từ đó
cần nghiên cứu tác động của tự nhiên đến sự phát triển cây lâm nghiệp lâu năm
là rất quan trọng.
Tân Sơn là một huyện miền núi thuộc tỉnh Phú Thọ, được thành lập theo
quyêt định 61/2007/NĐ-CP ngày 09/04/2007 của chính phủ trên cơ sở điều
chỉnh địa giới hành chính huyện Thanh Sơn thành lập 2 huyện: huyện Thanh
Sơn mới và huyện Tân Sơn. Huyện Tân Sơn nằm ở phía tây nam của tỉnh Phú
Thọ, cách thành phố Việt Trì 75 km . Tổng diện tích tự nhiên của huyện là
68.984 ha. Với 17 đơn vị hành chính trực thuộc gồm các xã: Tân Phú, Kiệt Sơn,
Minh Đài, Mỹ Thuận, Thu Ngạc, Thạch Kiệt, Thu Cúc, Lai Đồng , Đồng Sơn,
Tân Sơn, Xuân Đài, Kim Thượng, Xuân Sơn, Văn Luông, Long Cốc, Tam
Thanh, Vinh Tiền. Địa hình Tân Sơn tương đối phức tạp. Đây là vùng có địa
hình cao nhất trong tỉnh, tại đây có những dãy núi chạy theo hướng Tây Bắc Đông Nam, dốc thoải dần về phía sông Hồng. Sự phân hóa lãnh thổ tương đối
phức tạp, chủ yếu là các dãy núi cao và hiểm trở bên cạnh những thung lũng
sông bị chia cắt. Sự chênh lệch địa hình giữa các vùng trong huyện khá lớn đỉnh
cao nhất là núi xuân sơn cao 1384 m .
Huyện Tân Sơn là một huyện miền núi và là địa bàn sinh sống chủ yếu
của các đòng bào dân tộc thiểu số của huyện (chiếm gần tới 83% dân số toàn
huyện). Do tình hình khai thác và sử dụng lãnh thổ còn mang tính tự phát, thiếu
cơ sở khoa học vững trắc và chưa được nghiên cứu định hướng một cách khoa
học nên đời sống nhân dân còn thiếu ổn định, kinh tế còn khó khăn. Bên cạnh

đó, về lâu về dài không có chiến lược phát triển hợp lí sẽ có nguy cơ cạn kiệt tài
nguyên và ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường. Hiện nay, vấn đề nghên cứu
để đánh giá đúng tiềm năng về điêu kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên của
2


huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ phục vụ cho mục đích phát triển kinh tế xã hội
vẫn chưa có cơ sở khoa học vững vàng để đảm bảo hát triểm nông lâm nghiệp
bền vững. Quy hoạch hát triển kinh tế xã hội huyện tân Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ
đến năm 2020, trong đó có những quy hoạch cho việc phát triển nông lâm
nghiệp, trong đó ứng dụng ứng dụng cây công nghiệp lâu năm mà đã được triển
khai .Trên cơ sở đó chúng tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu : “Ảnh hưởng của
các điều kiện tự nhiên đến sự phân bố một số cây lâm nghiệp trên địa bàn
huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ”
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
2.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
Củng cố lại những kiến thức đã được học về các hợp phần tự nhiên trên lí
thuyết, các yếu tố ảnh hưởng của tự nhiên đến đời sống sinh vật, từ đo nắm vững
kiến thức địa lí tự nhiên Việt Nam. Cùng với đó là quá trình tiếp cận thực địa từ
những bài học thực hành trên trường lớp, có thêm cơ hội kiểm chứng những lí
thuyết học trong thực tế tại địa điểm nghiên cứu đúng theo phương châm học đi
đôi với hành. Bên cạnh đó, quá trình học tập nghiên cứu đề tài tại Tân Sơn,
chúng tôi đã tích lũy thêm được nhiều kiến thức và kinh nghiệm thực tế trong
điều tra, đánh giá. Đây sẽ là những kiến thức rất cần thiết cho quá trình nghiên
cứu, học tập và làm việc của chúng tôi sau này.
2.2. Ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất
Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần tìm hiểu được một số nhân tố tự nhiên
của Tân Sơn ảnh hưởng đến sinh trưởng của các loại cây lâm nghiệp từ đó đưa
ra những biện pháp để một số cây lâm nghiệp có sức sinh trưởng tốt nhất, phù
hợp với điều kiện lập địa tại khu vực nghiên cứu huyện Tân Sơn, góp phần nâng

cao năng suất và hiệu quả trồng rừng. Đồng thời đưa ra những định hướng trong
kinh doanh rừng hiệu quả góp phần xóa đói giảm nghèo bền vững.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
3.1 Mục tiêu của đề tài

Nghiên cứu cơ sở lí luận.
3


Nghiên cứu những đặc điểm tự nhiên về khí hậu, thủy văn, thổ nhưỡng,
địa hình...
Nghiên cứu những đặc điểm phát triển của một số cây lâm nghiệp trong
điều kiện tự nhiên của huyện Tân Sơn.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
Phân tích cơ sở lí luận của các nhân tố tự nhiên.
Phân tích đặc điểm cơ bản của các nhân tố tự nhiên của huyện Tân Sơn..
Phân tích những ảnh hưởng của nhân tố tự nhiên đến sự sinh trưởng phát
triển của một số cây lâm nghiệp chính của huyện Tân Sơn.

4


PHẦN II: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Lịch sử nghên cứu
Trong quá khứ đã có nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề phát triển cây
trồng trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Hầu hết các đề tài đã nói lên điều kiện
tự nhiên (địa hình, khí hậu,..) có nhiều đề tài đã nghiên cứu về cây trồng và năng
xuất hiệu quả của chúng như:
2.1.1. Trên thế giới
2.1.1.1.Cây keo

Keo lai là tên gọi viết tắt của giống giống lai tự nhiên giữa loài keo tai
tượng và keo lá tràm. Giống lai này được Mesrs Hepbum và Shim phát hiện năm
1972 trong nhũng hàng cây trồng ven đường. Năm 1978 khi xem xem xét các
mẫu tiêu bản tại phòng tiêu bản thực vật ở Queensland( Australia) Pedkey đã xác
nhận đó là giống lai tự nhiên giữa keo tai tượng và keo lá tràm trong tự nhiên
keo lai cũng được phát hiện ở Papu New Guinea (Turm bull 1986, Grinfin,1988)
nghiên cứu năm 1987 của Rurelds cho rhaays tại miền Bắc Sabah- Malayxia keo
lai xuất hiện ở rừng keo tai tượng 3-4 cây /ha còn Wong thì thấy xuất hiện với tỉ
lệ 1/500 cây.
Năm 1991 Cyrin pinso và Robert Nasi đã thấy tại khu Ulukukut cây lai tự
nhiên đời f1 sinh trưởng khả năng hơn các giống xuất xứ của keo tai tượng ở
Sabah. Các tác giả này cũng cho thấy rằng gỗ của keo lai là trung gian giữa kao
tai tượng và keo lá tràm có phẩm chất tốt hơn keo tai tượng.
2.1.1.2. Cây Bạch đàn
Bạch đàn urophylla phân bố tự nhiên chủ yếu ở trên 7 đảo (Timor, Flores,
Adonara, Lembata, Panta, Alor và Wetar) thuộc quần đảo Sunda của
Indonesia; nằm trong khoảng từ 8O30’ đến 10O kinh độ Đông; độ cao vùng phân
bố tự nhiên từ 300 - 3.000 m so với mực nước biển. Theo Webb và các cộng sự
tổng kết năm 1980, Eucalyptus urophylla là loài cây thích nghi với những nơi có
lượng mưa từ 1.000 - 1.600 mm và nhiệt độ bình quân năm trên 25OC cho các
5


vùng có độ cao từ 0 - 500 m; 22,0 - 24,5 oC cho các vùng có độ cao từ 500 1.000 m và 19,5 – 22oC cho cácvùng có độ cao 1000 đến 1500 m. Tuy nhiên,
cũng cần lưu ý rằng kết quả nghiên cứu ở nhiều nước khác trên thế giới đã cho
thấy Eucalyptus urophylla không sinh trưởng tốt ở các vùng đất thấp thuộc vùng
nhiệt đới ẩm như: New Guinea, quần đảo Solomon và miền Đông Kalimanta của
Indonesia. Nguyên nhân chính là do không cạnh tranh nổi với tốc độ phát triển
của cỏ dại. Người ta đã đem loài cây này đi trồng ở nhiều nơi trên thế giới.
2.1.1.3. Cây Trám đen

Có nhiều dẫn liệu cho thấy người Trung Quốc đã biết ghép cây từ hàng
ngàn năm trước công nguyên Aristote (384 - 322 TCN) đã nói về ghép trong
tác phẩm của mình. Thời kỳ phục hưng (1350 - 1600) người ta chú ý đến ứng
dụng thực tiễn của ghép. Nhiều loại cây được đưa vào Châu Âu và duy trì
bằng phương pháp ghép. Vào thế kỷ thứ XVI - XVII ghép được áp dụng rộng
rãi ở nước Anh trong nghề làm vườn và đã nhận thấy vai trò của lớp tượng
tầng tuy chưa rõ bản chất của nó. Đầu thế kỷ XVIII, Stephen Hales trong tác
phẩm nghiên cứu về “Tuần hoàn của nhựa” trong cây đã nhận thấy sự tồn tại
của phần giữa cây và vai trò của nó trong vận chuyển các chất từ rễ lên trên.
Cũng trong khoảng thời gian này, Duhamel đã nghiên cứu sự hình thành tổ
hợp ghép, sự vận chuyển của nhựa qua chỗ ghép. Năm 1821, Thourin đã mô
tả 119 phương pháp ghép và những biến đổi do ghép cây gây ra. Vào năm 1840
một người Pháp tên là Marier de Boissdyver ở vùng rừng Phôngtennơblô đã
ghép trên 10.000 cây Thông đen xuất xứ Korzica (Pinus nigra sp. Lariciot) lên
gốc ghép Thông đen non trẻ nhằm nhân rộng xuất xứ số giá trị và để sản xuất
hạt giống phục vụ trồng rừng. Ở Hà Lan nhờ có giống mớivà nhân giống bằng
phương pháp ghép với các loại gốc ghép lùn và nửa lùn mà đã tăng được mật độ
trồng trọt (4000- 10000 cây/ha). Cây ghép có ưu điểm là cây sớm ra hoa kết quả.
tiện cho việc chăm sóc và thu hái, sản lượng trên một đơn vị diện tích tăng lên
đến 45%.. (dẫn theo Trần Thế Tục, Hoàng Ngọc Thuận, 2000) (nguồn: Lâm
6


Văn Sáng “Nghiên cứu lựa cây trám đen ưu việt phục vụ cho công tác nhân
giống và cải tạo vường tạp bằng cây ghép tại Xã Hà Châu, tỉnh Thái Nguyên”
2.1.1.4. Cây Trẩu
Tái sinh tự nhiên của rừng là một quá trình rất phức tạp, tuy vậy vấn đề
này cũng đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà lâm học. Khi nghiên cứu tái sinh
rừng, người ta thường tập trung vào một số loài cây có giá trị kinh tế. Khi
nghiên cứu tái sinh rừng, phần lớn các nhà nghiên cứu thường hướng vào tìm

hiểu sự thiếu hụt ánh sáng của cây con. Năm 1949, Kozlovxki (Dẫn theo
Nguyễn Văn Thêm, 1992) cho rằng, sự thiếu hụt ánh sáng là thường xuyên đối
với cây con. Khi bị che bóng, mật độ và sức sống của cây tái sinh sẽ suy giảm
(Walter, 1947; Roussel, 1962, 1967). Những nhận định về vai trò của ánh sáng
đối với tái sinh của cây gỗ ở rừng mưa cũng tìm thấy trong các tài liệu của
Richards (1952), Banard (1954) và Baur (1961 - 1962). Khi nghiên cứu vai trò
của những yếu tố tối thiểu đối với sinh trưởng của cây con, Karpov (1969) và
Rusin (1970) cho rằng, sự cải thiện điều kiện sinh trưởng của cây con theo yếu
tố đa lượng có ảnh hưởng không đáng kể đến sức sống của cây con nước (Dẫn
theo Nguyễn Văn Thêm, 2002-2003).Theo Mazin (1969), ánh sáng sẽ trở thành
yếu tố giới hạn ở những nơi mà nước và chất khoáng không ở mức giới hạn. Khi
nghiên cứu về sinh thái của hạt giống và sinh trưởng của cây gỗ non, Ekta và
Singh (2000) đã nhận thấy rằng, cường độ ánh sáng có ảnh hưởng rõ rệt tới sự
nảy mầm, sự sống sót và quá trình sinh trưởng của cây con. Năm 1981, Sasaki
và Mori đã tiến hành nghiên cứu và đánh giá khả năng chịu bóng của một số loài
như Shorea talura, Sovalis, Hopea helferei và Vatica odorata. Kết quả cho thấy
sinh trưởng của cây con bị ức chế khi cường độ ánh sáng cao hơn 50% . Ảnh
hưởng của chế độ tưới nước đến sinh tưởng của cây đã được đề cập ở mức độ tế
bào Kramer (1993), Wagt và cộng sự (1998) . Sands và Mulligan (1990 sự lớn
lên của lá rất nhạy cảm với nước (Dẫn theo Nguyễn Văn Thêm, 2002-2003).
2.1.1.4. cây Bồ đề
Những kết quả nguyên cứu về điều kiện lập địa
Nguyên cứu của Laurie (1974) đã cho thấy đất đai ở vùng nhiệt đới rất khác
7


nhau về nguồn gốc và lịch sử phát triển, điều này được thể hiện ở sự khác nhau
về đặc điểm của các phấu diện đất, đó là độ dày tầng đất, cấu trúc vật lý, hàm
lượng các chất dinh dưỡng khoáng, phản ứng của đất (độ pH) và nồng độ muối.
Đây chính là nguyên nhân dẫn đến khả năng sinh trưởng rừng trồng trên các loại

đất khác nhau là khác nhau. Khi đánh giá khả năng sinh trưởng của loài Thông
Pinus patula ở Swziland, Julian Eván (1992) đã chứng minh khả năng sinh
trưởng về chiều cao của loài Thông này có quan hệ khá chặt (R=0,81) với các
yếu tố địa hình và đất thông qua phương trình tương quan sau:
Y=-18,76+0.0544x3-0.000022x32+0.0185x4+0.0449x5+0.5346x11
Trong đó:
- Y chiều cao vút ngọn tại thời điểm 12 tuổi (m) ;
- X3 là độ cao so với mực nước biển (m) ;
- X4 độc cao chênh lệch giữa đỉnh đổi và chân đồi (%) ;
- X5 độ dốc tuyệt đối của khu trồng rừng (%) ;
- X11 độ phì của đất đã được xác định
Kết quả nguyên cứu của Paydey D. (1983) về loài bạch đàn Eucalyptus
Camaldulensis được trồng trên các lập địa khác nhau đã cho thấy :
Nếu trồng ở vùng nhiệt đới khô với chu kỳ kinh doanh từ 10-20 năm thì năng
suất chỉ đạt 5-10m3/năm, nhưng trồng ở vùng nhiệt đới ẩm thì năng suất có
thì năng suất có thể đạt 30m3/năm. Kết quả này lại một lần nữa khẳng định
điều kiện lập địa khác nhau thì năng suất rừng trồng cũng khác nhau.
2.1.2. Ở Việt Nam

Phát triển trồng rừng sản xuất ở các tỉnh vùng Tây Bắc là chủ trương của
Nhà nước ta hiện nay. Nghiên cứu này được thực hiện trong đề tài Nghiên cứu
phát triển trồng rừng sản xuất có hiệu quả kinh tế và bền vững vùng miền núi
phía Bắc thuộc chương trình nghiên cứu KHCN phục vụ phát triển nông thôn
miền núi phía Bắc. Kết quả đề tài đã xây dựng được 19 ha mô hình rừng trồng
sản xuất, trong đó có 8 ha rừng trồng cung cấp gỗ lớn, 7 ha rừng trồng cung cấp
gỗ nhỏ và 4 ha rừng trồng cung cấp lâm sản ngoài gỗ.
8


Các mô hình được triển khai xây dựng trong năm 2003 và 2004 tại xã

Chiềng Mung huyện Mai Sơn và Chiềng Bôm huyện Thuận Châu tỉnh Sơn La.
Đánh giá bước đầu cho thấy cây trồng trong các mô hình đều có tỷ lệ sống cao,
sinh trưởng và chất lượng cây trồng tốt. Mô hình mang lại những hiệu quả rất
thiết thực về mặt kinh tế và xã hội.
Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng đặt ra nhiệm vụ phải trồng 3 triệu ha rừng
sản xuất giai đoạn 1998- 2010, tuy nhiên cho đến năm 2005 chúng ta mới đạt
49% kế hoạch, so với nhiệm vụ đến năm 2010 chỉ đạt 34%. Chính vì vậy, tại Hội
nghị sơ kết Dự án Chính phủ đã chỉ đạo trong thời gian tới cần tập trung đẩy
mạnh phát triển trồng rừng sản xuất. Nghiên cứu này được thực hiện từ năm
2002 đến 2005 trong đề tài “Nghiên cứu phát triển trồng rừng sản xuất có hiệu
quả kinh tế và bền vững vùng miền núi phía Bắc” thuộc chương trình nghiên cứu
KHCN phục vụ phát triển nông thôn miền núi phía Bắc.
Keo và bạch đàn là 2 loài cây nhập nội có giá trị kinh tế được trồng phổ
biến trên đất trống đồi núi trọc ở nước ta. Một vấn đề được quan tâm, thảo luận
nhiều tại các nước có trồng bạch đàn là ảnh hưởng bất lợi của rừng trồng bạch
đàn tới môi trường đất đặc biệt là làm khô đất. Nghiên cứu về chế độ nước dưới
rừng trồng bạch đàn ở nước ta đã được thực hiện bởi một số tác giả (Hoàng
Xuân Tý, 1975; Bùi thị Huế, 1996).
Tuy nhiên, các nghiên cứu về đặc điểm chế độ nước của cá thể và quần
thể rừng trồng bạch đàn như cường độ thoát hơi nước, sức hút nước của lá, độ
thiếu nước của lá, khả năng giữ nước... của rừng còn rất hạn chế. Đó là nội dung
rất quan trọng liên quan tới chế độ nước của đất dưới rừng. Trong khuôn khổ
hợp tác nghiên cứu với Trung tâm nghiên cứu Phù Ninh (1991) tác giả Đỗ Đình
Sâm đã nghiên cứu sơ bộ cường độ thoát hơi nước dưới rừng trồng bạch
đàn E.Camaldulensis ở Phù Ninh (Phú Thọ). Bùi Thị Huế (1996) có tiến hành
nghiên cứu cường độ thoát hơi nước của loài bạch đàn E. Camaldulensis và keo
tai tượng A.mangium ở ngoài Bắc. Tuy nhiên các nghiên cứu còn chưa hệ thống,
thời gian ngắn và mới tập trung ở các cây non, ở các cá thể hơn là các quần thể
rừng. Các nghiên cứu của chúng tôi được tiến hành trong 3 năm ở các điều kiện
9



sinh thái khác nhau (Đại Lải -Vĩnh Phúc, Đoan Hùng - Phú Thọ, Sông Mây - Đồng
Nai) trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu cấp Bộ (2001-2004) “Nghiên cứu đánh giá
ảnh hưởng của một số rừng trồng cây nhập nội chủ yếu đến môi trường đất ở Việt
nam”.
“Đánh giá thực trạng rừng trồng keo và bạch đàn ở nước ta trong những
năm qua”: Trong vòng 50 năm kể từ năm 1943, diện tích rừng tự nhiên nước ta
đã bị thu hẹp đáng kể, trung bình mỗi năm bị mất hơn 100.000ha. Chất lượng
rừng ngày càng giảm sút, gỗ từ rừng tự nhiên không còn đáp ứng đủ nhu cầu sử
dụng trong nước, chưa nói đến xuất khẩu. Để đáp ứng nhu cầu sử dụng gỗ và
giấy ngày càng tăng của xã hội, ngành công nghiệp chế biến gỗ và giấy đã và
đang phát triển rất mạnh trong thời gian vừa qua. Trong vòng 50 năm kể từ năm
1943, diện tích rừng tự nhiên nước ta đã bị thu hẹp đáng kể, trung bình mỗi năm
bị mất hơn 100.000 ha.
Ở nước ta hiện nay đã có những nghiên cứu về điều kiện gây trồng cay
keo lai của Lê Đình Khả, Đỗ Đình Xâm, Phạm Thế Dũng.., nghiên cứu về đặc
điểm sinh trưởng keo lai của Triệu Văn Hùng, Nguyễn Huy Sơn, Đoàn Hoài
Nam, nghiên cứu về biện pháp kĩ thuật lâm sinh trồng rừng keo lai của Lê Đình
Khả, Đỗ Đình Xâm, Phạm Thế Dũng, Đỗ Đình Xâm,.. nghiên cứu về hiệu quả
kinh tế của peter core, Đỗ Đình Xâm, Đặng Hoài Nam, Đặng Văn Dung ở một
số vùng sinh thái nước ta, nghiên cứu về hấp thụ cacbon của Ngô Đình Quế, Võ
Đại Hải, Vũ Tấn Phương, Lương Văn Tiến,.. các nghiên cứu đã góp phần trong
việc phát triển rừng keo lai. Đặc biệt là trong lĩnh vực chọn giống, các nghiên
cứu đã tạo ra và khảo nghiệm nhiều giống keo lai có năng xuất cao để trồng
rừng ở một số vùng sinh thái nước ta.
Diện tích rừng trồng phân theo vùng ; Vùng Diện tích trồng rừng (ha) Tỷ
lệ (%) :
Đông Bắc 933.935 40,2; Tây Bắc 130.645 5,6; Đồng bằng sông Hồng
58.099 2,5; Bắc Trung Bộ 446.122 19,2; Nam Trung Bộ 271.896 11,7; Tây

Nguyên 155.909 6,7; Đông Nam Bộ 43.814 4,0; Đồng bằng sông Cửu Long
233.206 1,0; Tổng 2.323.529 100
10


Nguồn: Lê Minh Cường, 2008
PHẦN III: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHÊN CỨU
3.1. Nội dung nghiên cứu và cách thức tiếp cận vấn đề
Xác định được những đặc điểm cơ bản của các nhân tố tự nhiên huyện Tân
SơnTừ đó phân tích ảnh hưởng của nó đến sự sinh trưởng và phát triển của một
số cây lâm nghiệp ở huyện Tân Sơn. Nắm được những kết quả bước đầu của loại
cây này với sự phát triển kinh tế của huyện Tân Sơn.
Cách thức tiếp cận vấn đề: Dựa trên cơ sở đổi mới của đất nước, hướng
phát triển kinh tế lâm nghiệp, kinh tế đồi rừng,..cùng với quá trình gắn bó với
thực tế trên địa bàn đó là sự phất triển nhanh của một số cây lâm nghiệp, nhằm
nghiên cứu, tìm hiểu những ảnh hưởng của tự nhiên như thế nào? Đặc điểm tự
nhiên Tân Sơn có thích hợp hay với các loại cây này không?.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
3.2.1. Phương pháp khảo sát thực địa
Đối tượng: trong phương pháp này chúng tôi tập chung chủ yếu nghiên
cứu điều kiện tự nhiên về rừng sản xuất, các loại cây lâm nghiệp huyện Tân Sơn.
Nội dung nghiên cứu: Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã đi
thực tế trên địa bàn nghiên cứu, tìm hiểu, chụp ảnh tư liệu của các nhân tố tự
nhiên ở một số địa điểm chủ yếu dựa trên đặc điểm địa lí tự nhiên và phân hóa
không gian lãnh thổ.
Kết quả: số iệu cụ thể về diện tích rừng, về các nhân tố tự nhiên.
3.2.2 Phương pháp thu thập, phân tích, xử lý tài liệu
Đối tượng: Số liệu, tài liệu thu thập từ các nguồn khác nhau.
Quá trình thực hiện: Đề tài, chúng tôi đã tiến hành thu thập và chọn lọc số
liệu liên quan dến khu vực nghiên cứu và sắp xếp theo thời gian.

Kết quả: Số liệu đã được chọn lọc, phân tích và xử lí.

11


3.2.3. Phương pháp phân tích tiếp cận hệ thống
Đối tượng: Mối quan hệ giữa các hợp phần tự nhiên trên địa bàn huyện.
Nội dung: Dựa vào tài liệu về các hợp phần tự nhiên, phương pháp này
được nghiên cứu trong mối quan hệ giữa các hợp phần tự nhiên trên địa bàn
huyện, nhằm xác định tính ổn định và biến đổi của chúng.
3.2.4 Phương pháp đánh giá tổng hợp
Đối tượng: Các hợp phần tự nhiên. Mối quan hệ giữa tự nhiên với kinh tế
sản xuất.
Nội dung: Trong nghiên cứu những phương pháp quan trọng thường được
nghiên cứu tổng hợp điều các kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và xem
chúng trong những mối liên hệ tương quan phụ thuộc lẫn nhau. Một thành phần
biến đổi dẫn tới các thành phần khác biến đổi theo.
Kết quả: Đánh giá tổng hợp các điều kiện tự nhiên cho sự phát triển cây
lâm nghiệp.
3.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng của đề tài là nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố tự nhiên tác
động đến sự phân bố một số cây lâm nghiệp trên địa bàn huyện Tân Sơn, tỉnh Phú
Thọ.
Phạm vi nghiên cứu đề tài: Đặc điểm các nhân tố tự nhiên trên địa bàn
huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ.
3.4. Giới thiệu cấu trúc đề tài
Đề tài bao gồm: Mở đầu, nội dung, kết luận, tài liệu tham khảo và mục
lục. Trong đó nội dung của đề tài được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của các nhân tố tự nhiên tới phát triển
cây lâm nghiệp huyện Tân Sơn

Chương 2: Ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên đến sự phân bố một số cây
lâm nghiệp trên địa bàn huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ
Chương 3: Một số giải pháp và định hướng phát triển một sô cây lâm
nghiệp
12


PHẦN IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐẠT ĐƯỢC
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA CÁC NHÂN TỐ
TỰ NHIÊN ẢNH HƯỞNG TỚI SỰ PHÁT TRIỂN CÂY LÂM NGHIỆP
HUYỆN TÂN SƠN
1.1.Cơ sở lí luận của đề tài
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Khí hậu
Khí hậu là một nhân tố tự nhiên có vai trò rất quan trọng đối với thế
giới sinh vật, với đời sống, sản xuất và các lĩnh vực khác của con người thông
qua các yếu tố: nhiệt độ, độ ẩm, khí áp, mưa, nắng, mây, bức xạ, ánh sáng, chất
lượng, không khí...
Theo nhà khí hậu học J.Hann “ Khí hậu là toàn bộ các hiện tượng khí
tượng đặc trưng cho trạng thái trung bình của khí quyển ở một địa điểm nào đó
trên trái đất”; W.Koppen thì cho rằng “khí hậu là trạng thái thời tiết trung bình
và quá trình thời tiết nói chung ở một nơi”; L.S.Béc-gơ định nghĩa “khí hậu là
trạng thái trung bình của hiện tượng khí tượng có thể ảnh hưởng đến thực vật,
động vật, con người và các loại hình thổ nhưỡng”. Theo B.P.Alixop: “Khí hậu
của một nơi nào đó là chế độ thời tiết đặc trưng nhiều năm, được tạo nên bởi
bức xạ mặt trời, đặc tính của bề mặt đệm và hoàn lưu khí quyển”.
Nguồn: Hoàng Ngọc Oanh_ Địa lí Tự nhiên đại cương 2
1.1.1.2 Sông ngòi
Sông ngòi: “ Sông ngòi là những dải chũng có độ dốc 1 chiều trong đó
nước chảy thường xuyên theo trọng lực”. Sau đó là: “ Sông ngòi là những dòng

chảy thường xuyên”. Cuối cùng, để biểu thị cho các thành phần khác nhau của
dòng chảy có thể nói: “ Sông ngòi là tổng thể của các dòng chảy thường xuyên”.
Nguồn: Hoàng Ngọc Oanh_ Địa lí Tự nhiên đại cương 2
Hệ thống sông ngòi: Nước rơi từ khí quyển hay nước tuyết và băng tan
sau một thòi gian chảy tràn trên mặt đất dốc sẽ tập trung lại thành dòng chảy.
13


Các dòng chảy nhỏ chảy vào các dòng chảy lớn hơn... rồi cuối cùng đổ vào một
dòng chảy lớn nhất để tiêu nước vào một đối tượng nào đó: hồ đầm, biển và đại
dương... các dòng chảy trong phạm vi nào đó hợp thành một hệ thống sông ngòi
bao gồm dòng chính , phụ lưu, chi lưu.
Nguồn: Hoàng Ngọc Oanh _Địa lí Tự nhiên đại cương 2
1.1.1.3. Địa hình
Địa hình, phần mặt đất với các yếu tố trên bề mặt của nó như dáng đất,
chất đất, thủy hệ, lớp thực vật, đường giao thông, điểm dân cư, các địa vật...
Trong quân sự, địa hình được đánh giá theo đặc điểm dáng đất, khả năng cơ
động, điều kiện quan sát, ngụy trang và các điều kiện tự nhiên khác.
Nguồn: Nguyễn Trọng Hiếu_ Địa lí tự nhiên đại cương 1
1.1.1.4. Thổ nhưỡng
Cuối thế kỉ 19, lần đầu tiên khái niệm về đất trên cơ sở phát sinh học mới
được đề xuất bởi nhà thổ nhưỡng học người Nga V. V. Đôcutsaep( 1846-1903):
“ Đất là một vật thể tự nhiên hoàn toàn độc lập, là sản phẩm của hoạt động
tổng hợp của đá mẹ, khí hậu, sinh vật, tuổi và địa hình địa phương”.
Sau này, nhiều nhà thổ nhưỡng học đã nêu ra các định nghĩa khác, nhưng
định nghĩa của V. R. Viliam (1863-1930) cho ta nhận thức đầy đủ hơn về đất:
“Đất là lớp tơi xốp ở bề mặt lục địa, có khả năng cho thu hoạch thực vật. Độ
phì là một tính chất hết sức quan trọng của đất, là đặc trưng cơ bản của đất”.
Nguồn: Nguyễn Kim Chương_ Địa lí tự nhiên đại cương 3
1.1.1.5. Sinh vật

Năm 1970, viện sĩ Nga – X. V.Kalexnik đã nêu ra một định nghĩa cụ thể
về sinh quyển : ‘‘ Sinh quyển là mọt bộ phận của vỏ hành tinh chứa đầy vật chất
sống và ác sản phẩm do hoạt động sống của chúng sinh ra’’.
Trong “ Bách khoa thư địa lí Xô viết” (1988) định nghĩa : “ Sinh quyển là
một trong những quyển của lớp vỏ Trái Đất mà thành phần , cấu trúc và năng
lượng của nó chủ yếu được xác định bởi hoạt động của các cơ thể sống. Khái
niệm về “ sinh quyển” gần với khái niệm về “ lớp vỏ địa lí” bao gồm phần khí
14


quyển gần bề mặt đất, thủy quyển và phần trên của thạch quyển, chúng tương
tác với nhau bằng chu trình sinh hóa phức tạp của dòng vật chất và năng lượng,
có giới hạn trên xâm nhập vào tầng khí quyển ở độ cao 30 km, vào sâu trong
thạch quyển tới 4-5 km dưới mặt đất và đến đáy sâu của đại dương thế giới”
Nguồn: Nguyễn Kim Chương_ Địa lí tự nhiên đại cương 3
1.1.1.6. đặc điểm tự nhiên chung của tỉnh phú thọ
.Vị trí địa lý
Phú Thọ là tỉnh thuộc vùng miền núi trung du Bắc Bộ, có tọa độ địa lý từ
200 55’ đến 210 43’ vĩ độ Bắc, 1040 48’ đến 1050 27’ kinh độ Đông. Địa giới
hành chính của tỉnh tiếp giáp với:
- Tỉnh Tuyên Quang về phía Bắc;
- Tỉnh Hòa Bình về phía Nam;
- Tỉnh Vĩnh Phúc về phía Đông;
- Thành phố Hà Nội về phía Đông Nam;
- Tỉnh Sơn La, Yên Bái về phía Tây.
Nằm trong khu vực giao lưu giữa vùng Đông Bắc, đồng bằng sông Hồng
và vùng Tây Bắc, Phú Thọ có vị trí địa lý mang ý nghĩa là trung tâm tiểu vùng
Tây - Đông - Bắc; cách trung tâm Hà Nội khoảng 80km về phía Bắc, cách sân
bay Quốc tế Nội Bài khoảng 60km. Với vị trí “ngã ba sông” - điểm giao nhau
của sông Hồng, sông Đà và sông Lô, là cửa ngõ phía Tây của Thủ đô Hà Nội,

Phú Thọ là đầu mối trung chuyển, giao lưu kinh tế giữa các tỉnh vùng đồng bằng
Bắc Bộ với các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam và hai tỉnh Quảng Tây, Vân
Nam, Trung Quốc. Nằm trong vành đai của các tuyến trục giao thông quan
trọng: đường bộ có Quốc lộ 2, Cao tốc Nội Bài - Lào Cai, đường Hồ Chí Minh,
đường sắt có tuyến đường xuyên Á, đường sông chạy từ Trung Quốc qua các
tỉnh phía Tây vùng Đông Bắc đều quy tụ về Phú Thọ rồi mới tỏa đi Hà Nội, Hải
Phòng và các khu vực khác.
Với vị trí địa lý này, Phú Thọ hội tụ các điều kiện thuận lợi cho phát triển
kinh tế, giao thương với các vùng trong nước và quốc tế.
. Địa hình, địa mạo
15


Địa hình tỉnh Phú Thọ mang đặc điểm nổi bật là chia cắt tương đối mạnh
vì nằm ở phần cuối của dãy Hoàng Liên Sơn, nơi chuyển tiếp giữa miền núi cao
và miền núi thấp, gò đồi, độ cao giảm dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Căn cứ
vào địa hình, có thể chia Phú Thọ thành hai tiểu vùng cơ bản sau:
Tiểu vùng Tây Nam hay hữu ngạn sông Hồng gồm các huyện: Thanh Sơn,
Tân Sơn, Yên Lập, Tam Nông, Thanh Thủy, Cẩm Khê và một phần của Hạ Hòa
có diện tích tự nhiên gần 2.400km2, bằng 67,94% diện tích tự nhiên toàn tỉnh;
độ cao trung bình so với mặt nước biển từ 200 - 500m. Đây là tiểu vùng có
những lợi thế phát triển chủ yếu như: trồng cây ôn đới, cây công nghiệp ngắn
ngày và dài ngày, cây lâm nghiệp, chăn nuôi đại gia súc, khai thác khoáng sản,
du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng... Tuy nhiên, tiểu vùng này có nhiều khó khăn về
giao thông và dân trí còn thấp nên việc khai thác tiềm năng nông, lâm, khoáng
sản... để phát triển kinh tế - xã hội còn hạn chế.
Tiểu vùng Đông Bắc hay tả ngạn sông Hồng gồm thành phố Việt Trì, thị
xã Phú Thọ và các huyện: Lâm Thao, Phù Ninh, Thanh Ba, Đoan Hùng và phần
còn lại của Hạ Hòa, có diện tích tự nhiên 1.132,5km2,, bằng 32,06% diện tích tự
nhiên toàn tỉnh. Địa hình đặc trưng của tiểu vùng này là các đồi gò thấp, phát

triển trên phù sa cổ (bình quân 50 - 200m) xen kẽ với những dộc ruộng và
những cánh đồng bằng ven sông. Đây là vùng tương đối thuận lợi cho phát triển
cây công nghiệp, cây ăn quả, sản xuất lương thực, nuôi trồng thủy sản và chăn
nuôi. Một số khu vực tập trung những đồi gò thấp tương đối bằng phẳng (tập
trung chủ yếu ở vùng Đông Nam của tỉnh) thuận lợi cho phát triển các khu công
nghiệp, cụm công nghiệp và phát triển các hạ tầng kinh tế - xã hội khác.
Do phân cấp địa hình, diện tích đất đồi núi, đất dốc của tỉnh Phú Thọ chiếm
64,52% tổng diện tích đất tự nhiên, trong đó diện tích đất có độ dốc >150 chiếm
tới 51,6%; sông suối chiếm 4,26% tổng diện tích tự nhiên; địa hình bị chia cắt
mạnh gây cản trở không nhỏ cho giao thông, giao lưu kinh tế - văn hóa, phát
triển kinh tế - xã hội và đời sống của nhân dân.
. Khí hậu
16


Phú Thọ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, điểm nổi bật là mùa
đông khô, lượng mưa ít, hướng gió thịnh hành là gió mùa Đông Bắc; mùa hè
nắng, nóng, mưa nhiều, hướng gió thịnh hành là gió mùa Đông Nam. Nhiệt độ
bình quân 23 độ C, tổng lượng mưa trung bình từ 1.600 - 1.800mm/năm, độ ẩm
không khí trung bình hàng năm 85 - 87%.
Nhìn chung, khí hậu Phú Thọ phù hợp cho sinh trưởng và phát triển đa
dạng hóa các loại cây trồng nông nghiệp, lâm nghiệp và chăn nuôi gia súc.
. Thủy văn
Nằm ở trung lưu của hệ thống sông Hồng, hệ thống sông ngòi của tỉnh
phân bố tương đối đồng đều, gồm 3 con sông lớn là Sông Hồng, Sông Đà và
Sông Lô cùng với hàng chục sông, suối nhỏ khác đã tạo ra nguồn cung cấp nước
chủ yếu cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.
Hệ thống sông, suối của tỉnh mang theo hàm lượng phù sa khá lớn, khoảng
1kg/m3, làm cho các dòng chảy thường bị bồi lấp. Với đặc điểm thủy văn như
trên, Phú Thọ có điều kiện phát triển vận tải thủy, nuôi trồng thủy sản, đủ nguồn

nước mặt cung cấp cho yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
1.2 Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Đặc điểm vị trí địa lí
Huyện Tân Sơn nằm về phía Tây Nam của tỉnh Phú Thọ, cách thành phố
Việt Trì 75km với:
Tân Sơn là một huyện miền núi thuộc tỉnh Phú Thọ, được thành lập theo
Quyết định 61/2007/NĐ-CP ngày 09/04/2007 của Chính phủ trên cơ sở điều
chỉnh địa giới hành chính huyện Thanh Sơn để thành lập 2 huyện: huyện Thanh
Sơn mới và huyện Tân Sơn.
Ranh giới hành chính: Phía Bắc giáp huyện Yên Lập, phía Đông giáp huyện
Thanh Sơn của tỉnh Phú Thọ, phía Nam giáp huyện Đà Bắc của tỉnh Hòa Bình, phía
Tây giáp huyện Văn Chấn của tỉnh Yên Bái và huyện Phù Yên của tỉnh Sơn La.
Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện là 68.858 ha
Diện tích đất nông nghiệp: 5.297 ha
Diện tích đất lâm nghiệp: nghiệp:52.577,5 ha
17


Diện tích đất chưa sử dụng: 8.779 ha
1.2.2. Đặc điểm các nhân tố tự nhiên
1.2.2.1. Địa hình và địa chất
Các thung lũng trong vùng mở rộng và uốn lượn khá phức tạp. Nhìn
chung điều kiện trong khu vực có những kiểu chính sau:
Kiểu địa hình núi trung bình: hình thành trên đá phiến biến chất, có độ
cao từ 700- 1.386m; chiếm tỉ lệ 10,4% diện tích tự nhiên. Kiểu này phân bố chủ
yếu ở phía Tây và Tây Nam Vườn quốc gia, bao gồm phần lớn là hệ đá vôi Xuân
Sơn và các dãy núi xen kẽ. Tác dụng xâm thực mạnh, độ dốc lớn ( trung bình
30o), mức độ chia cắt phức tạp là nguồn của hệ thống sông suối đổ ra sông Bứa.
Kiểu địa hình núi thấp: Hình thành trên các trầm tích lục nguyên uốn nếp,
tác dụng xâm thực, bóc mòn. Thuộc đại hình các dãy núi cao từ 300- 700m phân

bố chủ yếu ở phía Nam, Tây Nam đến phía Bắc khu vực. Núi ở đây có hình
dạng mềm mại,đỉnh tròn, sườn thoải, độ dốc trung bình chỉ 20 o có thung lũng
mở rộng hơn vùng núi phía Tây Bắc.
Kiểu đồi: Có độ cao dưới 300m, phân bố chủ yếu ở phía Đông khu vực.
Có hình dạng đồi lượn sóng mềm mại, được cấu tạo từ các loại đá trầm tích và
biến chất hạt mịn. Hiện nay đã được trông chè Xanh chè Shan.
Thung lũng và bồn địa: Phân bố chủ yếu ở các xã Đồng Sơn, Xuân Đài
và Kim Thượng. Đây là các thung lũng sông suối mở rộng, địa hình bằng phẳng,
độ dốc rất thoải, trong đó có trầm tích phù xa rất thuận lợi cho canh tác nông
nghiệp. Thung lũng lớn nhất là mường Tằn (trên 400 ha ruộng nước).
Huyện Tân Sơn chủ yếu là rừng tự nhiên, núi cao, riêng vùng lõi và vùng
đệm ( phòng hộ) của vườn quốc gia Xuân Sơn chiếm trên 15.000 ha nằm trong
một vùng đồi núi thấp và trung bình thuộc lưu vực sông Bứa nơi kết thúc của
dãy Hoàng Liên Sơn. Vùng đồi núi thấp và tỏa rộng từ Hữu ngạn sông Hồng
sang Tả ngạn sông Đà, bao gồm huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ. Sông Bứa và các
chi lưu của nó tỏa rất nhiều nhánh ra gần như khắp vùng. Nhìn toàn cảnh các
dãy đồi núi chỉ cao chừng 600- 700m nhìn dáng khá mềm mại vì chúng được
cấu tạo từ các loại đá phiến biến chất quen thuộc, cao nhất là đỉnh Voi (1.386 m),
tiếp theo là núi Ten (1.244m), núi Cẩn (1.144m).
1.2.2.2. Khí hậu
18


Khu vực đặc trưng vùng mang những nét đặc trưng của khí hậu nhiệt đới
gió mùa, nhưng do tác động của địa hình nên các yếu tố khí hậu biến đổi mạnh
mẽ trong không gian và theo thời gian.
Nhiệt độ không khí trung bình năm cũng có xu thế giảm dần theo sự tăng
dần của độ cao địa hình. Nhiệt độ không khí trung bình năm giảm xuống dưới
15o C ở vùng núi cao và tăng lên tới 20 - 24o C ở cùng trung du và đồng bằng.
Nhiệt độ không khí cũng biến đổi theo mùa. Trong thời kì gió mùa mùa hạ, nhiệt

độ trung bình các tháng từ 15- 20oC ở vùng núi, và từ 20- 30oC ở vùng trung du
và đồng bằng. Trong thời kỳ gió mùa mùa đông, nhiệt độ không khí trung bình
khoảng từ 10oC 15oC ở vùng núi và 15- 20oC ở vùng trung du và đồng bằng.
Lượng mưa: Do ảnh hưởng của địa hình nên lượng mưa trong năm phân
bố không đều trong hệ thống sông, tổng lượng mưa trong năm từ 1100mm
-1200mm ở những nơi khuất gió mùa ẩm, đến trên 4000mm ở sườn núi đón gió
mùa ẩm. Lượng mưa khu vực thuộc loại trung bình và thường có những nơi có
dông nên luợng mưa năm đạt khoảng 1800mm - 2000mm. Số ngày mưa toàn
năm khoảng 130- 140 ngày.
Mùa mưa kéo dài 5 tháng, từ tháng 5 đến tháng 10. Trong mùa mưa tập
trung tới 80% lượng mưa cả năm. Lượng mưa tăng dần từ đầu màu đến giữa
mùa, đạt tới cực đại vào tháng 8 (tháng có bão nhiều nhất ở vùng này). Lượng
mưa trung bình tháng 8 vào khoảng 300 - 350mm. Các tháng 6, 7, 9 mỗi tháng
cũng thu được mưa khoảng 300- 350mm.
Mùa ít mưa 6 tháng còn lại là mùa ít mưa, kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4
năm sau. Lượng mưa trung bình của các tháng này vào khoảng 20- 40mm.
Tháng có lượng mua cực tiểu là tháng 1 với 15- 20mm.
Gió: Mùa đông: Gió thịnh hành trong mùa đông là hướng Đông Bắc và
hướng Bắc với tần suất khá lớn 45% - 48%. Mùa hạ: Gió có hướng Đông và
Đông Nam chiếm ưu thế 60- 70%. Tốc độ gió khá lớn, trung bình lên đến
2.5m/s.Tốc độ gió mạnh nhất gặp vào mùa hạ khi có bão, đạt tới 30 -35m/s. mùa
dông cũng có thể gặp gió giật tới 15- 20m/s khi có gió mùa Đông Bắc tràn về.
Độ ẩm: Độ ẩm tương đối trung bình hàng năm khoảng 80% - 85%, biến
đổi không lớn trong khu vực. Tuy nhiên độ ẩm cũng thay đổi theo mùa.
19


1.2.2.3. Thổ nhưỡng
Được hình thành trong một nền địa chất phức tạp (có nhiều kiểu địa hình
và nhiều loại đá mẹ tạo đất khác nhau) cùng với sự phân hoá khí hậu, thuỷ văn

đa dạng và phong phú nên có nhiều loại đất được tạo thành trong khu vực này.
Một số loại đất chính có nhiều giá trị trong khu vực :
Đất feralit có mùn trên núi trung bình: Được hình thành trong điều kiện
mát ẩm, độ dốc lớn, không có nước đọng, không có kết von và tầng mùn dày, tỷ
lệ mùn cao (8 - 10%). Phân bố ở độ cao từ 700- 1500m, tập trung ở phía Tây của
khu vực, giáp với huyện Đà Bắc (tỉnh Hoà Bình), huyện Phù Yên (tỉnh Sơn La).
Đất feralit đỏ vàng phát triển ở vùng đồi núi thấp: Là loại đất có quá trình
feralit mạnh và điển hình, màu sắc phụ thuộc vào từng loại đá mẹ và độ ẩm của
đất. Loại đất này phân bố dưới 700m, có thành phần cơ giới nặng, tầng đất dày,
ít đá lẫn, khá màu mỡ, thích hợp cho các loại cây rừng phát triển.
Đất hình thành trong vùng núi đá vôi: Đá vôi là loại đá cứng, khó phong
hoá, địa hình lại dốc đứng nên khi phong hoá đến đâu lại bị rửa trôi đến đó nên
đất chỉ hình thành trong các hang hốc hoặc chân núi đá.
Đất dốc tụ và phù sa sông suối trong các bồn địa và thung lũng: Là loại
đất phì nhiêu, tầng dày, màu nâu, thành phần cơ giới chủ yếu là limon. Hàng
năm được bồi thêm một lớp phù sa mới khá màu mỡ.
Toàn huyện Tân Sơn còn 8.897,62 ha đất chưa sử dụng, trong đó:
Đất bằng chưa sử dụng: 15,58 ha
Đất đồi núi chưa sử dụng: 8.583,5 ha
Núi đá không có rừng cây: 298,54 ha

20


Từ các số liệu thống kê trên cho thấy, diện tích đất chưa sử dụng còn khá
lớn, có thể chuyển sang mục đích phát triển nông - lâm nghiệp

Bảng 1.1 Hiện trạng sử dụng đất lâm nghiệp của huyện Tân Sơn (2016)

Loại đất


Diện tích (ha)

Tỷ lệ (%)

Tổng diện tích lâm nghiệp

51.028,0

100,0

Rừng đặc dụng

5.406,4

10,5

Rừng tự nhiên phòng hộ

13.642,3

26,8

Rừng sản xuất

31.978,0

62,6

1. Đất rừng


3. Độ che phủ của rừng

74,0
nguồn: [1]

Từ bảng trên, chúng ta có thể thấy diện tích đất lâm nghiệp đạt trên 51
nghìn ha. Trong đó rùng tự nhiên phòng hộ chiếm 26,8% diện tích, còn 62,6%
diện tích còn lại thuộc về diện tích rừng sản xuất. Rừng dặc dụng chỉ chiếm
10.5% diện tích đất. Có thể nói dieenjt ích rừng sản xuất chiếm tỉ trọng cao nhất
và đang có xu hướng tăng trong hiện nay. Do diện tích đất rừng sản xuất khá lớn
nên đã tạo điều kiện thuân lợi cho việc phát triển cây lâm nghiệp với quy mô
lớn, đặc biệt đất Feralit lại rất phù hợp cho đặc tính của các loại cây này. Chỉ
tiêng diện tích đất lâm nghiệp đã đóng gớp không nhỏ vào độ che phủ đất trống
của huyện , chiếm tới 74%.
1.2.2.4. Mạng lưới sông ngòi
Mạng lưới sông ngòi của huyện tân tương đối phức tạp. Chủ yếu là các
suối nhỏ đổ ra con sông Bứa, sông có chiều dài 117 km và diện tích lưu vực là
21


1.355 km². Có hệ thống phụ lưu chằng chịt, hai nguồn cung cấp nước chủ yếu
bắt nguồn từ hai nơi. Nơi thứ nhất,nước được cung cấp từ vùng núi Tân Lang
huyện Phù Yên tỉnh Sơn La. Nơi thứ hai, nước được cung cấp từ hệ thống núi
phía tây nam của xã Kim Thượng giáp danh với tỉnh Hòa Bình. Các suối là phụ
lưu của sông bứa hàng năm cung cấp nước cho dòng sông, lưu vực không ngừng
được mở rộng, tuy nhiên do độ dốc lớn lên sông ngòi Tân Sơn có thể coi là hung
bạo vào mùa mưa, gây lũ lụt, lũ quét, sạt lở đất ven sông. Sông Bứa là một
nhánh phụ lưu sông Hồng, nơi tiếp giáp và hòa dòng là ở thị xã Phú Thọ. Sông
ngòi Tân Sơn cũng đóng vai trò quan trọng cho hạ lưu.

1.2.2.5. Sinh vật
Có thể nói vùng đất Tân Sơn là vùng đa dạng sinh học và còn tồn tại duy
nhất ở Phú Thọ. Tân Sơn có vườn quốc gia Xuân Sơn, nơi lưu giữ và bảo vệ đa
đa dạng sinh học lớn của Tỉnh cũng như của quốc gia.Vườn quốc gia Xuân Sơn
có tổng diện tích 15.048 ha, trong đó khu bảo vệ nghiêm ngặt ( còn gọi là vùng
lõi) có diện tích 9.099 ha. Hệ thực vật đã thống kê được 1.179 loài, 650 chi, 175
họ của 5 ngành thực vật bậc cao có mạch. Như vậy, hệ thực vật vườn quốc gia
Xuân Sơn chiếm 11% tổng số loài, 28% tổng số chi và 57% tổng số họ của hệ
thực vật Việt Nam. Phân tích chi tiết hơn thì hệ thực vật Xuân Sơn hiện có 96
loài đặc hữu, chiếm tỉ lệ gần 10% tổng số loài của hệ thực vật, tương đương với
tỷ lệ này ở hệ thực vật Việt Nam theo công bố gần đây nhất của GS.TSKH
Nguyễn Nghĩa Thìn. Các loài đặc hữu là nguồn gen quý vì người Việt Nam,
không có bất kỳ nơi nào khác trên Trái Đất.
Hệ thực vật vườn quốc gia Xuân Sơn có 46 loài được ghi trong Sách đỏ,
Danh lục đỏ Việt Nam và Nghị định 32/CP của Chính phủ, trong đó, 14 loài
thuộc nhóm EN (nguy cấp), 30 loài thuộc nhóm VU (sẽ nguy cấp), 1 loài thuộc
nhóm LR (ít nguy cấp) và 1 loài thuộc nhóm IIA (hạn chế khai thác và sử dụng).

22


Ngoài giá trị về mặt khoa học, hệ thực vật Xuân Sơn còn là nguồn tài
nguyên có ý nghĩa kinh tế, trong đó có 541 loài (chiếm 44,5% tổng số loài của
hệ thực vật) là cây thuốc; 249 loài cho gỗ; 145 loài làm thức ăn; 95 loài làm cây
cảnh v.v..Cần phải nhấn mạnh rằng, vườn quốc gia Xuân Sơn không chỉ hệ thực
vật có tính đa dạng sinh học cao, mà hệ động vật cũng khá phong phú, mặc dù
tính đa dạng sinh học đã bị suy giảm. Vào những năm 60 của thế kỷ trước, vườn
từng có hổ, báo hoa mai, báo gấm v.v...
Qua phỏng vấn, trừ hổ không còn nhận được thông tin gì về sự tồn tại còn
các loại báo hoa mai, báo gấm vẫn được ghi nhận là có ở vườn. Kết quả điều tra,

khảo sát động vật có xương sống đã thống kê được 76 loài thú thuộc 24 họ, 8 bộ,
241 loài chim thuộc 50 họ, 16 bộ; 75 loài bò sát, ếch nhái thuộc 20 họ, 5 bộ và
91 loài cá thuộc 23 họ, 7 bộ. Hệ động vật có nhiều loài được ghi vào Sách Đỏ
Việt Nam (2007), Danh lục đỏ Việt Nam (2007) và Nghị định 32/CP, trong đó
thú có 29 loài, chim 188 loài, bò sát ếch nhái có 22 loài và cá 5 loại. Trong số
các loài thú có cu ly nhỏ, voọc đen má trắng, vượn đen má trắng, sóc bay lông
tai. Về chim hiện có một quần thể công khoảng 30-40 cá thể. Đây là quần thể
công duy nhất còn tồn tại ở vườn quốc gia Xuân Sơn.
1.3. Đánh giá những thuận lợi và khó khăn của điều kiện tự nhiên huyện
Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ
Vị trí địa lí:
Huyện Tân Sơn nằm về phía tây nam của tỉnh Phú Thọ, phía bắc giáp
huyện Yên Lập, phía nam giáp huyện Đà Bắc tỉnh Hòa Bình, phía tây giáp
huyện Văn Trấn tỉnh Yên Bái và Huyện Phù Yên tỉnh Sơn La, phía đông giáp
huyện Thanh Sơn, có trung tâm huyện nằm ở xã Tân Phú và có quốc lộ 32A
chạy qua. Huyện Tân Sơn cách Việt trì 75km và cách thủ đô Hà Nội 117km có
vị trí thuận lợi cho giao thương giữa huyện với các trung tâm kinh tế lớn của
tỉnh và của cả nước. Quan hệ giao thương giữa huyện với các huyện trong tỉnh
23


và ngoài tỉnh ngày càng được đẩy mạnh góp phần nâng cao đời sống của nhân
dân nơi đây.
Địa hình:
Tân sơn là vùng núi trung du có địa hình đồi núi thấp ( trừ khu vực phía
tây, tây nam, vườn quốc gia Xuân Sơn) tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
cây nông nghiệp và cây lâm nghiệp giá trị kinh tế cao. Núi cao chỉ chiếm 10,4%
diện tích nên Tân Sơn vẫn là vùng có điều kiện địa hình thuận lợi cho phát triển
kinh tế- văn hóa-xã hội.
Khí hậu:

Khí hậu chịu ảnh hưởng khá rõ rệt của khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa có
mùa đông lạnh. Khí hậu có sự khác biệt về mùa đông và mùa hạ. Mùa hạ nóng
ẩm mưa nhiều thuận lợi trồng nông nghiệp. Mùa đông lạnh khô. Tương ứng với
mùa mưa kéo dài 5 tháng, mùa ít mưa kéo dài 6 tháng. Là điều kiện hạn chế để
trồng lúa. Trên thực tế, vào mùa đông nhân dân sẽ trồng các loại rau quả mùa
đông để giảm mức ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc.
Đất:
Tổng diện tích đất tự nhiên huyện là 68858 ha. Trong đó 57958 ha là đất
lâm nghiệp chiếm 84,17%, 2119,45 ha là đất nông nghiệp chiếm 3,07%, 8779 ha
dất chưa sử dụng chiếm 12,74%. Trong số hơn 52577,51 ha đất lâm nghiệp có
15048ha thuộc vườn quốc gia Xuân Sơn vói hệ thống động thực vật phong phú,
nhiều hang động độc đáo có tiềm năng phát triển du lịch sinh thái, thám hiểm,
nghỉ dưỡng.
Nước:
Tân Sơn có hệ thống sông Bứa và các chi lưu, có hai hồ lớn là hồ Sận
Hòa( xã Tân Sơn) hồ Xuân Sơn( xã Xuân Đài).
24


Khoáng sản:
Một số loại quặng được khảo sát thăm dò là sắt, than, chì, đá xaay dựng
cát xỏi, chủ yếu ở xã Thu Cúc, Thu Ngạc, Đồng Sơn, Long Cốc, Thạch Kiệt,
Tân Phú, Mĩ Thuận, Văn Luông. Cao lanh chủ yếu ở xã Thu Ngạc, đá từ ở Xuân
Đài, đây là hai nguồn khoáng sản lớn nhưng việc khai thác khá trái phép, không
giúp đồng bào phát triển kinh tế mà còn gây hư hại nhiều tuyến đường liên xã.
Khó khăn: Bên cạnh điều kiện thuận lợi thì tự nhiên Tân Sơn cũng có
nhiều khó khăn:Tuy có đường quốc lộ 32 chạy qua và giáp với 3 tỉnh nhưng do
còn nhiều hạn chế nên kinh tế còn chậm phát triển. Địa hình cũng phân chia khá
phức tạp đặc biệt là khu vực vùng núi việc giao lưu kinh tế khá khó khăn. Hằng
năm Tân Sơn cũng chịu nhiều ảnh hưởng của bão và hệ lụy mà nó để lại đó là lũ

ống lũ quét, xạt lở đất, cô lập các xã trong nhiều ngày làm gián đoạn hoạt động
kinh tế giáo dục...ảnh hưởng của gió mùa đông bắc hằng năm cũng gây nhiều
khó khăn lớn, đặc biệt là gia súc lớn như trâu, bò. Đất chủ yếu là felarit nên noài
việc trông cây lâm nghiệp thì việc trông cây ăn quả chưa phát triển mạnh. Tân
Sơn là vùng có tiềm năng khoáng sản lớn do việc thăm dò và khái thác còn thô
sơ nên sản lượng cũng như chất lượng còn kém, đặc biệt là việc khai thác trái
phép không theo quy hoạch đã làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế
của vùng.
CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN ĐẾN SỰ
PHÂN BỐ MỘT SỐ CÂY LÂM NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TÂN
SƠN, TỈNH PHÚ THỌ
2.1. Đặc điểm sinh thái một số cây lâm nghiệp ở huyện Tân Sơn
Các loại cây lâm nghiệp chính trên địa bàn huyện Tân Sơn chủ yếu là các
loại cây Keo, cây Bồ Đề, Xoan Đào, Bạch Đàn. Ngoài ra còn có các loại cây cho
thu hoạch quả đem lại giá trị kinh tế cao như: Trám đen, Cau. Các loại cây thân

25


×