Đề cương chi tiết:
SẢN XUẤT HÀNG HOÁ VÀ QUY LUẬT GIÁ TRỊ
TRONG NỀN SẢN XUẤT HÀNG HOÁ
Kiều Anh Vũ
Khoa Lý luận Chính trị - Học viện Cán bộ
I. SẢN XUẤT HÀNG HOÁ
1. Khái niệm
- Sản xuất hàng hoá là sản xuất ra sản phẩm để trao đổi, mua bán.
- Sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức sản xuất mà trong đó sản phẩm làm ra để
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán.
2. Hai điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá
- Thứ nhất, có sự phân công lao động xã hội
Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hoá sản xuất trên phạm vi xã
hội (khác với phân công công việc trong từng đơn vị, cơ quan).
PCLDXH CMH SX
Mỗi người sản xuất 1/1 số ít sản phẩm.
Có nhu cầu
Để tồn tại cần nhiều sản phẩm.
trao đổi
Wlđ tăng - Tổng SP tăng - khả năng dư Có khả năng
sản phẩm
TRAO ĐỔI ?
trao đổi
Nếu chỉ có phân công lao động xã hội chưa chắc sản xuất hàng hoá ra đời và tồn tại.
Trong lịch sử đã chứng minh:
-
Có thời kỳ (công xã nguyên thuỷ) có sự phân công lao động xã hội nhưng chưa có sản
xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá ra đời khi xã hội công xã nguyên thuỷ tan rã, đầu
thời kỳ chiếm hữu nô lệ.
(Trong CXNT, phụ nữ, người già và trẻ em sức khoẻ yếu phụ trách trồng trọt và
chăn nuôi; đàn ông, nam thanh niên khoẻ mạnh vào rừng săn bắn. Đây là sự phân
công sơ khai)
-
Có thời kỳ có sự trao đổi, nhưng trao đổi không tính toán thiệt hơn về kinh tế
không phải trao đổi hàng hoá.
- Thứ 2, có sự độc lập tương đối về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất
Ban đầu, sự độc lập giữa các chủ thể sản xuất do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu
sản xuất (khởi thuỷ là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất) quy định. Sau này, khi sản xuất lớn phát
triển, quyền sở hữu và quyền sử dụng có thể tách ra, sự độc lập lại do cả sự tách biệt tương đối về
mặt kinh tế quyết định. (giữa các doanh nghiệp cùng một chủ sở hữu những có tính tự chủ kinh
doanh cũng có thể trao đổi hàng hoá với nhau)
Khi giữa những người sản xuất có sự độc lập tương đối về mặt kinh tế, để sử dụng sản
phẩm của nhau bắt buộc họ phải trao đổi, mua bán.
Điều kiện 1 là cơ sở (cần) dẫn đến sự trao đổi hàng hoá, điều kiện 2 là
điều kiện quyết định (đủ) sự trao đổi hàng hoá.
3. Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá
K. Marx là người đầu tiên phát hiện tính chất hai mặt của sản xuất hàng hoá. Theo ông,
lao động sản xuất hàng hoá có tính chất hai mặt, đó là: lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
- Lao động cụ thể
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới hình thái cụ thể của một nghề
chuyên môn nhất định. VD: lao động cụ thể của người thợ may, thợ mộc hay thợ
cắt tóc,…
Mỗi lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ, đối tượng và kết quả riêng.
Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của sản phẩm.
Lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn, không phụ thuộc vào hình thái kinh tế xã hội
nào.
Phân công lao động xã hội càng phát triển thì các hình thức lao động cụ thể ngày càng đa
dạng, phong phú.
- Lao động trừu tượng
Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hoá đã gạt bỏ hình
thức cụ thể của nó đi, chỉ còn lại một cái chung, đó là sự hao phí sức lao động, hao
phí thần kinh, bắp thịt của con người.
Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hoá.
Lao động trừu tượng là phạm trù lịch sử, nó chỉ tồn tại trong nền sản xuất hàng hoá.
- Mối quan hệ giữa lao động cụ thể và lao động trừu tượng
Lao động cụ thể và lao động trừu tượng là hai mặt thống nhất trong quá trình
lao động sản xuất hàng hoá.
Sự thống nhất và mâu thuẫn của lao động cụ thể và lao động trừu tượng chính là
phản ánh sự thống nhất và mâu thuẫn của lao động tư nhân và lao động xã hội.
Sự mâu thuẫn của nó thể hiện ở sự mất cân bằng cung cầu, ở hao phí lao
động cá biệt và hao phí lao động xã hội.
4. Những ưu thế của sản xuất hàng hoá
- Tạo ra năng suất lao động xã hội cao hơn.
Do có sự chuyên môn hoá về sản xuất, cho nên mỗi người, nhóm người chỉ tập trung sản
xuất 1 loại/ 1 số loại sản phẩm, vì vậy, mức độ thành thạo nâng lên, đầu tư vào việc nghiên cứu,
cải tiến kỹ thuật, qui trình sản xuất nhiều hơn năng suất lao động xã hội ngày một nâng lên.
- Hàng hoá không ngừng được nâng lên cả về số lượng, chủng loại và chất
lượng.
+ Số lượng: Nếu sản xuất cho mình tiêu dùng thì nhu cầu về loại sản phẩm đó có hạn, chỉ
cần một mức nhất định là đủ. Tuy nhiên, sản xuất cho người khác tiêu dùng thì có thể sản xuất
với số lượng rất lớn.
+ Chủng loại: Nếu chỉ sản xuất cho bản thân, phục vụ thị hiếu của bản thân. Còn nếu sản
xuất cho sản xuất thì phục vụ thị hiếu của rất nhiều người, vô cùng đa dạng, phong phú. Phải
sản xuất hàng hoá với nhiều mẫu mã, chủng loại khác nhau, phục vụ thị hiếu của nhiều người
khác nhau.
+ Chất lượng: Trong nền sản xuất hàng hoá sẽ có nhiều người cùng sản xuất một loại
hàng hoá. Để có thể cạnh tranh với các hàng hoá khác, về lâu dài phải nâng cao chất lượng của
sản phẩm của mình.
- Mở rộng giao lưu kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội giữa các vùng miền,
quốc gia, dân tộc.
Từ những ưu thế trên của sản xuất hàng hoá ta thấy:
Sản xuất hàng hoá thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển đẩy mạnh phân
công lao động trên phạm vi ngày càng rộng lớn (toàn cầu).
II. HÀNG HOÁ
1. Khái niệm
Hàng hoá là sản phẩm của lao động nhằm thoả mãn nhu cầu con người thông
qua trao đổi, mua bán.
Hàng hoá gồm có hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình (dịch vụ)
2. Hai thuộc tính của hàng hoá
2.1. Giá trị sử dụng của hàng hoá
- KN: Giá trị sử dụng của hàng hoá là công dụng hay tính có ích của hàng
hoá, nó thoả mãn nhu cầu nào đó của con người.
- Đặc điểm:
+ Giá trị sử dụng do thuộc tính tự nhiên của vật (tính chất lý, hoá, sinh…)
quy định;
+ Khoa học - kỹ thuật càng phát triển công dụng của vật phẩm ngày càng
được phát hiện nhiều hơn.
+ Giá trị sử dụng của hàng hoá là giá trị sử dụng cho người khác, cho xã hội
thông qua con đường trao đổi, mua bán (sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, sản
xuất như thế nào… do thị trường quyết định).
+ Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn.
2.2. Giá trị của hàng hoá
Để nhận thức được giá trị của hàng hoá chúng ta phải thông qua giá trị trao
đổi của hàng hoá.
- Giá trị trao đổi của hàng hoá là quan hệ về lượng, là tỷ lệ trao đổi lẫn nhau
giữa những hàng hoá có giá trị sử dụng khác nhau.
VD:
1m vải đổi lấy 30kg thóc
Hai hàng hoá khác nhau (vải và thóc) muốn trao đổi được với nhau thì giữa chúng phải có
cơ sở chung giống nhau. Cái chung đó không thể là thuộc tính tự nhiên, không thể là giá trị sử
dụng, mà cái chung đó là do chúng đều là sản phẩm của lao động. Nhờ cái chung đó mà tất cả các
hàng hoá trao đổi được với nhau. Thực chất của trao đổi hàng hoá cho nhau là trao đổi lao động
ẩn giấu trong các hàng hoá đó.
- Giá trị của hàng hoá là lao động trừu tượng (xã hội) của người sản xuất
hàng hoá kết tinh trong hàng hoá đó.
Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện bên ngoài của giá trị, giá trị là nội dung
bên trong của giá trị trao đổi.
Giá trị của hàng hoá là một phạm trù lịch sử, thể hiện mối quan hệ xã hội
giữa những người sản xuất hàng hoá.
2.3. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hoá
Giá trị sử dụng và giá trị vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau.
- Thống nhất: Giá trị sử dụng và giá trị là hai mặt đối lập tồn tại thống nhất
trong một hàng hoá, nếu thiếu một trong hai thuộc tính thì sản phẩm không thể trở
thành hàng hoá.
- Mâu thuẫn:
+ Xét về mặt giá trị sử dụng, hàng hoá không đồng nhất về chất; xét về mặt
giá trị hàng hoá đồng nhất về chất.
+ Mâu thuẫn trong quá trình thực hiện: quá trình thực hiện giá trị sử dụng và
giá trị khác nhau cả về không gian và thời gian. Giá trị được thực hiện trước
trong lĩnh vực lưu thông, giá trị sử dụng được thực hiện sau trong lĩnh vực
tiêu dùng.
+ Mục đích của người sản xuất là giá trị hàng hoá, mục đích của người mua
là giá trị sử dụng của hàng hoá.
Người mua hàng không quan tâm tới giá trị của hàng hoá, nhưng để có được giá trị sử
dụng của hàng hoá, trước hết phải trả giá trị cho người sản xuất ra nó. Người sản xuất không
quan tâm tới giá trị sử dụng của hàng hoá, nhưng để thu được giá trị của hàng hoá, trước hết họ
phải tạo ra giá trị sử dụng cho hàng hoá.
3. Lượng giá trị của hành hoá
- Lượng giá trị của hàng hoá được xác định bằng thời gian lao động xã hội
cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra hàng hoá đó.
+ Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cần thiết để sản
xuất ra một hàng hoá nào đó trong những điều kiện sản xuất bình thường, với một
trình độ thành thạo trung bình và một cường độ lao động trung bình trong xã hội.
+ Trong thực tế, người ta thường xác định lượng giá trị hàng hoá bằng cách
căn cứ vào lượng lao động cá biệt của người sản xuất cung cấp đại bộ phận loại
hàng hoá đó trên thị trường. (tích trữ đầu cơ để trở thành người nắm đại bộ phận một loại
hàng hoá nào đó trên thị trường rồi quyết định giá cả)
- Lượng giá trị của hàng hoá chính là lượng lao động hao phí để sản xuất
hàng hoá. Lượng lao động hao phí để sản xuất hàng hoá gồm có lao động quá khứ
và lao động sống.
+ Lao động quá khứ là lao động đã diễn ra và hoàn thành trong quá khứ,
thường đã được vật hoá thành tư liệu sản xuất (c).
+ Lao động sống là lao động tạo ra giá trị mới của sản phẩm (v +m).
Công thức giá trị của hàng hoá:
G=c+v+m
- Lượng giá trị của hàng hoá thay đổi tỷ lệ thuận với lượng lao động hao phí
và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động.
+ Năng suất lao động tăng thì thời gian lao động xã hội cần thiết giảm, lượng
giá trị giảm.
+ Tăng cường độ lao động đồng nghĩa với kéo dài thời gian lao động, do đó,
lượng giá trị không đổi.
- Trong nền sản xuất hàng hoá, để xác định lượng giá trị hàng hoá, theo Mác
phải quy mọi lao động phức tạp thành lao động giản đơn.
+ Lao động giản đơn là hoạt động mà bất cứ người bình thường nào cũng có
thể tiến hành, không đòi hỏi phải huấn luyện, đào tạo.
+ Lao động phức tạp là hoạt động phải qua huấn luyện, đào tạo mới thực
hiện được. Lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn.
III. TIỀN TỆ
1. Nguồn gốc và bản chất của tiền tệ
Để hiểu được nguồn gốc, bản chất của tiền tệ ta đi nghiên cứu các hình thái
của giá trị phát triển từ thấp đến cao.
- Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên
Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên của giá trị là hình thái mà giá trị của hàng
hoá này được biểu hiện ở một hàng hoá khác.
VD: 1 cái rừu = 20kg thóc; 1 con cừu = 40kg chè
Trao đổi mang tính ngẫu nhiên
- Hình thái đầy đủ hay mở rộng
Hình thái đầy đủ hay mở rộng của giá trị là hình thái mà giá trị của một hàng
hoá được biểu hiện ở nhiều hàng hoá khác nhau.
VD:
1 con cừu
= 40kg chè
= 100kg thóc
= 20m vải
Trao đổi mang tính trực tiếp
- Hình thái chung
Hình thái chung của giá trị là hình thái mà tất cả các hàng hoá đều biểu hiện
giá trị ở một hàng hoá có vai trò làm vật ngang giá chung.
VD:
40kg chè
100kg thóc
20m vải
10 cái rừu
= 1 con cừu
…
Có nhiều vật ngang giá chung theo những vùng, miền khác nhau, trở ngại
cho trao đổi khi thị trường mở rộng.
- Hình thái tiền tệ
Hình thái tiền tệ là hình thái khi vật ngang giá chung được cố định ở một
hàng hoá độc tôn và phổ biến.
Lúc đầu vàng và bạc được dùng làm vật ngang giá chung, sau này chỉ còn
vàng được dùng làm vật ngang giá chung.
VD:
40kg chè
100kg thóc
20m vải
= 10gram vàng (1 chỉ = 3,75g)
10 cái rừu
…
Vàng được chọn làm tiền (vật ngang giá chung) vì nó có những ưu điểm nổi
trội so với các hàng hoá khác.
+ Dễ bảo quản, ít hưu hỏng, ít hao mòn;
+ Với một khối lượng nhỏ chứa đựng giá trị lớn;
+ Dễ chia nhỏ, từng phần chia nhỏ không bị mất giá trị.
Như vậy, tiền tệ ra đời là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của sản
xuất và trao đổi hàng hoá, đồng thời là quá trình phát triển của các hình thái giá trị.
Tiền tệ là hàng hoá đặc biệt, được tách ra làm vật ngang giá chung cho tất
cả hàng hoá, nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những
người sản xuất hàng hoá.
2. Chức năng của tiền tệ
Trong nền kinh tế hàng hoá phát triển, tiền tệ có 5 chức năng cơ bản:
2.1. Thước đo giá trị
- Tiền được dùng để biểu hiện, để đo lường giá trị các hàng hoá khác.
- Tiền làm chức năng thước đo giá trị không nhất thiết phải là tiền mặt mà
chỉ cần tiền trong ý niệm, tiền tượng trưng.
- Giá trị của hàng hoá biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng hoá. Giá cả là
biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá.
Giá cả phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như:
+ Tỷ lệ thuận với giá trị của hàng hoá (những yếu tố khác không đổi)
+ Tỷ lệ nghịch với giá trị của đồng tiền;
+ Phụ thuộc vào quan hệ cạnh tranh:
. Cạnh tranh giữa người mua với người mua giá cả tăng
. Cạnh tranh giữa người bán với người bán giá cả giảm
+ Phụ thuộc vào quan hệ cung cầu:
. Cung > cầu giá cả giảm
. Cung < cầu giá cả tăng
. Cung = cầu giá cả cân bằng/ổn định ~ giá trị
+ Phụ thuộc vào một số yếu tố khác, như: văn hoá, chính trị, tôn giáo, thị hiếu, phong tục,
tập quán,…
2.2. Phương tiện lưu thông
Làm chức năng phương tiện lưu thông, tiền tệ là môi giới trong trao đổi hàng
hoá. (H - T - H)
Tiền làm chức năng phương tiện lưu thông phải là tiền mặt, chứ không phải
là tiền trong ý niệm.
Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông được tính theo công thức:
Trong đó:
M=
P.Q
-
M là số lượng tiền cần cho lưu thông
V
-
P là mức giá cả
-
Q là khối lượng hàng hoá đem lưu thông
-
V là số vòng quay của đồng tiền cùng loại
Tiền làm chức năng phương tiện lưu thông đã trải qua các hình thức như
vàng thoi, bạc nén, tiền đúc bằng kim loại, tiền giấy và cả tiền điện tử.
2.3. Phương tiện cất trữ
Cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải, cất trữ giá trị. Người dân cất trữ
tiền để tiết kiệm đầu tư hay đề phòng rủi ro,…; nhà nước dự trữ tiền để quản lý lưu
thông tiền tệ.
Người ta thường sử dụng tiền vàng, tiền đủ giá trị để cất trữ.
2.4. Phương tiện thanh toán
Sản xuất hàng hoá phát triển, tất yếu dẫn đến mua, bán chịu. Do đó, tiền có
thêm chức năng thanh toán.
Tiền được dùng để thanh toán/chi trả cho công việc mua bán đã hoàn thành
trước đó.
Với chức năng thanh toán, tiền tệ xuất hiện nhiều hình thức mới như tiền tín
dụng, tiền séc,… Khi đó, công thức tính khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông
được bổ sung như sau:
G - GBC + GTT - GS
M=
V
Trong đó:
- M là khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông
- G = P.Q là tổng giá cả của hàng hoá
- GBC là tổng số giá cả của hàng hoá bán chịu
- GTT là tổng số giá cả của hàng hoá đến kỳ thanh toán
- GS là tổng số giá cả của hàng hoá thanh toán bằng Sec
- V là số vòng quay của đồng tiền cùng loại.
Ví dụ:
Trong năm 2012, Việt Nam sản xuất được khối lượng hàng hoá với tổng giá cả là 120 tỷ
USD; tổng số giá cả hàng hoá trong năm được bán chịu là 80 tỷ $; tổng số giá trị hàng hoá đến kỳ
thanh toán trong năm là 90 tỷ $; tổng số giá trị hàng hoá được thanh toán bằng Sec trong năm là
40 tỷ $. Biết rằng số vòng quay của đồng tiền cùng loại trong năm là 3 lần. Vậy, năm 2012 Chính
phủ Việt Nam cần phát hành khối lượng tiền mặt bằng bao nhiêu để đáp ứng yêu cầu lưu thông
hàng hoá?
Theo công thức trên ta có:
G = 120, GBC = 80, GTT = 90, GS = 40, V = 3; vậy M = ?
M = (120 - 80 + 90 - 40) : 3 = 30
M = 30 tỷ $ ~ 60.000 tỷ VNĐ
Như vậy, để đảm bảo lưu thông hàng hoá trong năm 2012, Chính phủ Việt Nam phải phát
hành xấp xỉ 60.000 tỷ đồng.
2.5. Tiền tệ quốc tế
Dùng tiền làm phương tiện di chuyển tài sản sang nước khác và phục vụ hoạt
động kinh tế đối ngoại.
Khi thực hiện chức năng này phải là tiền vàng, tiền đủ giá trị, ngoại tệ mạnh
có khả năng chuyển đổi cao.
IV. QUY LUẬT GIÁ TRỊ TRONG NỀN SẢN XUẤT HÀNG HOÁ
1. Nội dung quy luật
- Nội dung: Sản xuất và trao đổi hàng hoá phải trên cơ sở hao phí lao động
xã hội cần thiết.
- Yêu cầu:
+ Sản xuất: hao phí lao động cá biệt phải thấp hơn hoặc bằng hao phí lao
động xã hội cần thiết.
+ Lưu thông: trao đổi ngang giá.
- Cơ chế hoạt động:
Chúng ta có thể nhận thức được sự hoạt động của quy luật giá trị thông qua
sự biến động lên xuống của giá cả thị trường.
2. Tác dụng của quy luật giá trị
- Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá;
- Kích thích nghiên cứu, ứng dụng khoa học, kỹ thuật, công nghệ hiện đại,
cải tiến quy trình tổ chức sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển;
- Phân hoá người sản xuất thành người giàu, người nghèo, thúc đẩy quan hệ
kinh tế tư bản chủ nghĩa ra đời.
Mặc dù quy luật giá trị có tác dụng thúc đẩy quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa
ra đời, nhưng rất chậm. Trong thực tế, quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa ra đời bằng
con đường tích luỹ nguyên thuỷ - đó là con đường tước đoạt bằng bạo lực để tạo
điều kiện ra đời quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa.
+ Tập trung một số tiền lớn vào tay một số ít người để trở thành chủ tư
bản;
+ Đa phần người lao động mất hết tư liệu sản xuất chủ yếu, buộc phải
đi làm thuê.