Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

PL về hợp đồng và giải quyết tranh chấp Hợp đồng trong kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.17 KB, 16 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu hướng phát triển và toàn cầu hóa hiện nay, đặc biệt kể từ sau khi Việt
Nam chúng ta chính thức trở thành thành viên của tổ chức Thương mại thế giới (WTO)
thì hoạt động thương mại diễn ra ngày càng nhiều, đan xen và phức tạp cho nên không
thể tránh được những tranh chấp. Vì vậy vấn đề giải quyết tranh chấp thương mại là một
trong những vấn đề quan trọng và cần phải được nghiên cứu.
Hiện có rất nhiều phương pháp giải quyết tranh chấp nhưng phương pháp giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài đang được xem trọng trên trường quốc tế. Để đi sâu hơn
về vấn đề này, sau đây nội dung bài làm sẽ triển khai làm rõ tính ưu việt và hạn chế của
việc giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại tại trọng tài thương mại

NỘI DUNG
I-

Cơ sở lý luận
1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.
Hợp đồng thương mại

1


Có nhiều cách hiểu về khái niệm Hợp đồng thương mại, phổ biến nhất có thể hiểu
như sau: Hợp đồng thương mại là sự thỏa thuận giữa các chủ thể kinh doanh với nhau và
với các bên có liên quan về việc xác lập, thay đổi, hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ
trong hoạt động thương mại.
1.2.

Tranh chấp hợp đồng thương mại



Tranh chấp hợp đồng thương mại là sự vi phạm của một hoặc nhiều bên trong
quan hệ hợp đồng về các quyền và nghĩa vụ được quy định trong hợp đồng.
1.3.

Trọng tài thương mại

Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về Trọng tài Thương mại, nhìn chung giữa
chúng có những điểm giống nhau nhưng ta có thể hiểu: Trọng tài Thương mại là hình
thức giải quyết những tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, được
thực hiện bởi một bên thứ ba độc lập có thể là Hội đồng trọng tài hoặc một số trọng tài
viên theo yêu cầu của các bên tranh chấp. Bên thứ ba giải quyết tranh chấp bằng việc đưa
ra một phán quyết. Phán quyết này có hiệu lực ràng buộc các bên tranh chấp và nếu các
bên không tự nguyện thi hành sẽ bị cưỡng chế bằng quyền lực nhà nước.
2. Các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại

Theo quy đinh của Luật thương mại 2005 thì có các phương thức giải quyết tranh
chấp thương mại như sau:
" Điều 317. Hình thức giải quyết tranh chấp
1. Thương lượng giữa các bên.
2. Hoà giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa
thuận chọn làm trung gian hoà giải.
3. Giải quyết tại Trọng tài hoặc Toà án.
Thủ tục giải quyết tranh chấp trong thương mại tại Trọng tài, Toà án được tiến
hành theo các thủ tục tố tụng của Trọng tài, Toà án do pháp luật quy định."
2


Giống như các tranh chấp hợp đồng khác, khi tranh chấp hợp đồng thương mại
xảy ra, các bên có thể lựa chọn một trong bốn phương án giải quyết nêu trên.

a. Giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại bằng thương lượng
Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua các bên tranh chấp
cùng nhau bàn bạc, tháo gỡ những bất đồng với nhau mà không cần đến sự tác động hay
giúp đỡ của người thứ ba.
b. Giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại bằng hòa giải
Hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua sự tham gia của bên thứ ba,
đóng vai trò trung gian để hỗ trợ hoặc thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải
pháp nhằm chấm dứt xung đột hoặc bất hòa… Bên trung gian đóng vai trò hỗ trợ đôi bên
đi đến giải pháp có lợi nhất cho đôi bên, có khi bên trung gian hòa giải thuyết phục đôi
bên chấp nhận giải pháp do họ đề ra, chấm dứt xung đột.
Cũng như thương lượng, hòa giải là giải pháp tự nguyện, tùy thuộc vào sự lựa
chọn của các bên tham gia tranh chấp. Tuy nhiên, thương lượng là hình thức tự hòa giải
còn hòa giải là hình thức có sự tham gia của người thứ ba vào quá trình giải quyết. Đây là
điểm khác biệt quan trọng nhất giữa hai hình thức giải quyết tranh chấp này.
c. Giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại bằng trọng tài
Trọng tài là thể thức giải quyết tranh chấp, theo đó các bên thỏa thuận đưa những
tranh chấp ra trước một trọng tài viên hoặc ủy ban trọng tài để giải quyết và trọng tài sau
khi xem xét vụ việc sẽ đưa ra một phán quyết ràng buộc các bên tranh chấp. Giải quyết
tranh chấp trong kinh doanh bằng trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua
hoạt động của trọng tài viên, với tư cách là một bên thứ ba độc lập nhằm chấm dứt các
xung đột bằng cách đưa ra một phán quyết buộc các bên tham gia tranh chấp phải thực
hiện.
d. Yêu cầu tòa án giải quyết

3


Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án là hình thức giải quyết tranh chấp do cơ quan
tài phán Nhà nước thực hiện. Tòa án nhân danh quyền lực Nhà nước để đưa ra phán quyết
buộc bên có nghĩa vụ phải thi hành, kể cả bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Do

đó các đương sự thường tìm đến sự trợ giúp của Tòa án như một giải pháp cuối cùng để
bảo vệ có hiệu quả các quyền, lợi ích của mình khi họ thất bại trong việc sử dụng cơ chế
thương lượng hoặc hòa giải và cũng không muốn đưa vụ tranh chấp của họ để giải quyết
bằng trọng tài.
Thông thường thì hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thông qua Tòa
án được tiến hành khi mà việc áp dụng cơ chế thương lượng không có hiệu quả và các
bên tranh chấp cũng không thỏa thuận đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tranh chấp tại
trọng tài.
3. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài

Điều 4 Luật trọng tài thương mại 2010 đã quy định rất cụ thể nguyên tắc giải
quyết tranh chấp bằng Trọng tài như sau:
a) Trọng tài viên phải tôn trọng thoả thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không
vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội.
b) Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của pháp
luật.
Để giải quyết tranh chấp một cách công bằng, hợp lí, bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của các bên, trọng tài viên phải căn cứ vào pháp luật. Khi giải quyết các tranh
chấp thương mại theo thủ tục trọng tài, trọng tài viên phải căn cứ vào pháp. Tư tưởng chỉ
đạo đối với trọng tài viên là pháp luật, chỉ có căn cứ vào pháp luật, trọng tài viên mới giải
quyết được tranh chấp một cách vô tư, khách quan được
c. Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hội đồng trọng tài có
trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình

4


d. Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành không công khai, trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Để hạn chế tối đa sự ảnh hưởng tiêu cực tới uy tín bí mật kinh doanh, giữ cho các

bên tranh chấp cơ hội hợp tác thì nguyên tắc của giải quyết tranh chấp thương mại bẳng
con đường trọng tài được tiến hành không công khai.
e. Nguyên tắc giải quyết một lần và phán quyết trọng tài là chung thẩm.
Yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp thương mại là nhanh chóng, dứt điểm,
tránh dây dưa, kéo dài, làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh. Với tư cách là một tổ
chức phi chính phủ, trọng tài thương mại không có cơ quan cấp trên nên phán quyết của
trọng tài có giá trị chung thẩm, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
như bản án sơ thẩm của tòa án và cũng không có thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Tố
tụng trọng tài chỉ có một trình tự giải quyết, tức là các tranh chấp thương mại chỉ được
giải quyết một lần trọng tài.
II-

Giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài thương mại
1. Trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài thương
mại:
Hiện nay, trình tự thủ tục khi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được quy định

cụ thể tại Luật Trọng tài thương mại Việt Nam 2010 như sau:
a, Nộp đơn khởi kiện cùng các tài liệu kèm theo và thụ lý đơn khởi kiện
Bước đầu của quá trình tố tụng trọng tài, nguyên đơn phải gửi đơn kiện đến trung
tâm trọng tài (trong trường hợp giải quyết bằng trung tâm trọng tài) hay gửi đơn kiện cho
bị đơn (trong trường hợp giải quyết bằng trọng tài vụ việc). Trong quá trình tố tụng các
bên có thể bổ sung, sửa đổi đơn kiện.
Nội dung của đơn kiện được quy định tại Khoản 2, 3 Điểu 30 Luật Trọng tài
thương mại 2010. Một trong những nội dung quan trọng của đơn kiện là nguyên đơn chỉ
ra cụ thể thông tin về người được nguyên đơn chọn làm trọng tài viên.
Kèm theo đơn kiện, các bên cần gửi theo bản thỏa thuận trọng tài, đây là tài liệu
quan trọng để trung tâm trọng tài đánh giá tranh chấp có được thụ lí hay không.

5



Thời hiệu khởi kiện theo tố tụng trọng tài là hai năm kể từ thời điểm quyền và lợi
ích hợp pháp bị xâm hại.
Đơn kiện và các tài liệu kèm theo phải được lập thành 5 bản (Đối với trường hợp
Hội đồng Trọng tài có 3 Trọng tài viên), hoặc 3 bản (Đối với trường hợp Hội đồng Trọng
tài có 1 Trọng tài viên). Khi nộp Đơn kiện, Nguyên đơn phải đồng thời nộp phí trọng tài.
Nguyên đơn có thể sửa đổi, bổ sung hoặc rút Đơn kiện trước khi Hội đồng Trọng
tài ra Quyết định Trọng tài.
b, Bị đơn nộp bản tự bảo vệ:
Điều 35 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định trong thời hạn luật định bị đơn
phải gửi cho trung tâm trọng tài bản tự bảo vệ.
Đối với vụ tranh chấp được giải quyết tại Trung tâm trọng tài, nếu các bên không
có thoả thuận khác hoặc quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài không có quy định khác,
thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo,
bị đơn phải gửi cho Trung tâm trọng tài bản tự bảo vệ. Theo yêu cầu của một bên hoặc
các bên, thời hạn này có thể được Trung tâm trọng tài gia hạn căn cứ vào tình tiết cụ thể
của vụ việc.
Đối với vụ tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài vụ việc, nếu các bên không
có thoả thuận khác, thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện của
nguyên đơn và các tài liệu kèm theo, bị đơn phải gửi cho nguyên đơn và Trọng tài viên
bản tự bảo vệ, tên và địa chỉ của người mà mình chọn làm Trọng tài viên.
Bản tự bảo vệ gồm ngày tháng; tên và địa chỉ của Bị đơn; căn cứ pháp lý để tự bảo
vệ; kiến nghị cụ thể của Bị đơn; tên trọng tài viên mà Bị đơn chọn. Ngoài ra, Bị đơn có
thể nộp Đơn kiện lại hoặc đưa ra phản đối về vấn đề thẩm quyền. Trong trường hợp có
Đơn kiện lại, Bị đơn có thể sửa đổi, bổ sung hoặc rút Đơn kiện lại trước khi Hội đồng
Trọng tài ra Quyết định Trọng tài.
Việc Bị đơn không nộp Bản tự bảo vệ sẽ không ngăn cản trung tâm trọng tài tiếp
tục quá trình tố tụng trọng tài. Nếu Bị đơn không nộp Bản tự bảo vệ, hoặc Bản tự bảo vệ
không đề cập đến việc chỉ định trọng tài viên, Chủ tịch trung tâm trọng tài sẽ chỉ định

trọng tài viên cho Bị đơn.
c, Thành lập hội đồng trọng tài:
Điều 39, Điều 40, Điều 41 quy định cụ thể việc thành lập hội đồng trọng tài:

6


Nếu vụ tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài thường trực thì mỗi bên trong
tranh chấp sẽ chọn một trọng tài viên và hai trọng tài viên đó sẽ cùng chọn ra một trọng
tài viên thứ ba làm chủ tịch hội đồng trọng tài. Nếu hết hạn luật định mà bị đơn không
chọn được trọng tài viên cho mình thì chủ tịch trung tâm trọng tài sẽ chỉ định trọng tài
viên cho bị đơn.
Nếu vụ tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài vụ việc, ngay từ khi nguyên đơn
gửi đơn kiện cho bị đơn họ đã chọn trọng tài viên cho mình và bị đơn trong bản tự bảo vệ
cũng đã chọn ra một trọng tài viên. Và hai trọng tài đó sẽ bầu ra một trọng tài viên khác
làm chủ tịch hội đồng trọng tài. Điều khác ở đây là nếu bị đơn không chọn trọng tài viên
thì một hoặc các bên có quyền yêu cầu tòa án chỉ định trọng tài viên cho các bị đơn. Căn
cứ xác định thẩm quyền của tòa án được quy định tại khoản 2 điều 7 Luật Trọng tài
thương mại 2010.
d, Chuẩn bị giải quyết vụ việc:
Sau khi hội đồng trọng tài được thành lập trành chấp thương mại sẽ chính thức
được chuẩn bị giải quyết. Quá trình này gồm các công việc: nghiên cứu hồ sơ, xác định
sự việc, thu thập chứng cứ, áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Các trọng tài viên
phải nghiên cứu hồ sơ, xác minh, thu thập chứng cứ của vụ việc. Hội đồng trọng tài có
quyền gặp gỡ các bên để nghe trình bày ý kiến.
e, Hòa giải:
Hòa giải là một trong những biện pháp tốt nhất cho việc giải quyết tranh chấp tại
trọng tài. Trong tố tụng trọng tài hòa giải không phải là thủ tục tố tụng bắt buộc song hội
đồng trọng tài phải tôn trọng việc tự hòa giải của các bên.
Điều 58 Luật Trọng tài thương mại quy định về việc tiến hành hòa giải và công

nhận hòa giải thành. Hội đồng trọng tài tiến hành hòa giải để các bên thỏa thuận với nhau
về việc giải quyết tranh chấp. Khi các bên thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết
trong vụ tranh chấp thì Hội đồng trọng tài lập biên bản hoà giải thành có chữ ký của các
bên và xác nhận của các Trọng tài viên. Hội đồng trọng tài ra quyết định công nhận sự
thỏa thuận của các bên. Quyết định này là chung thẩm và có giá trị như phán quyết trọng
tài.
f, Tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp và quyết định trọng tài.

7


Theo điều 55 Luật Trọng tài thương mại 2010, Phiên họp giải quyết tranh chấp
được tiến hành không công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Các bên có
thể trực tiếp hoặc uỷ quyền cho người đại diện tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp;
có quyền mời người làm chứng, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong
trường hợp có sự đồng ý của các bên, Hội đồng trọng tài có thể cho phép những người
khác tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp.Trình tự, thủ tục tiến hành phiên họp giải
quyết tranh chấp do quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài quy định; đối với
Trọng tài vụ việc do các bên thỏa thuận.
Kết thúc quá trình giải quyết tranh chấp hội đồng trọng tài phải đưa ra phán quyết
trọng tài. Quyết định trọng tài được biểu quyết theo nguyên tắc đa số, nếu vụ tranh chấp
do trọng tài viên duy nhất giải quyết thì trọng tài viên này quyết định. Trường hợp biểu
quyết không đạt được đa số thì phán quyết trọng tài được lập theo ý kiến của Chủ tịch
Hội đồng trọng tài. Quyết định của trọng tài phải đảm bảo về nội dung và hình thức theo
quy định của luật này. Quyết định Trọng tài được công bố sẽ có giá trị chung thẩm và
ràng buộc đối với các bên.
2. Tính ưu việt và hạn chế của giải quyết tranh chấp hợp đồng thương

mại bằng trọng tài
2.1.

Tính ưu việt
Xuất phát từ những nguyên tắc giải quyết tranh chấp của mình thì trọng tài thể
hiện rất nhiều ưu điểm vượt trội, mang lại nhiều lợi ích cho các bên khi có tranh chấp
trong hoạt động kinh doanh, thương mại, cụ thể như sau:
2.1.1.

Trọng tài tôn trọng ý chí thỏa thuận của 02 bên tranh chấp
Theo qui định tại điều 38 Luật Trọng tài Thương mại năm 2010 thì trọng tài phải
tôn trọng thỏa thuận của các bên về địa điểm giải quyết tranh chấp, địa điểm tiến hành
phiên họp. Đồng thời Trọng tài cũng phải tôn trọng thỏa thuận của các bên về thời hạn tố
tụng trừ trường hợp quy tắc của trung tâm trọng tài có quy định. Việc trọng tài tiến hành
thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên có thể dẫn đến hậu
quả phán quyết trọng tài bị hủy được qui định tại điểm b khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài

8


Thương mại năm 2010, trừ trường hợp bên đó mất quyền phản đối theo qui định tại Điều
13 Luật Trọng tài Thương mại năm 2010.
Trung tâm Trọng Tài và Trọng tài viên do các bên tranh chấp lựa chọn và trọng tài
viên được lựa chọn sẽ bầu Chủ tịch HĐTT. Do vậy các bên có cơ hội lựa chọn những
trọng tài viên là chuyên gia có trình độ chuyên môn sâu và kinh nghiệm dày dạn trong
các lĩnh vực đặc thù. Trong khi tại tòa án, Thẩm phán do Tòa chỉ định và thường không
phải là chuyên gia trong các lĩnh vực có tính chuyên môn cao và đặc thù.
Ngoài ra, nếu tranh chấp có yếu tố quốc tế, thì các bên có quyền thoả thuận chọn
tổ chức trọng tài, địa điểm, tiếng dùng trong xét xử và luật áp dụng . Trong khi toà án
Việt Nam chỉ có thể xét xử theo tiếng Việt và luật Việt Nam.
2.1.2.

Thủ tục nhanh chóng, linh hoạt

Phán quyết của trọng tài là quyết định chung thẩm, trọng tài chỉ xét xử một lần và
đưa ra quyết định có hiệu lực ngay. Đây là đặc điểm dùng để phân biệt giữa phương thức
Trọng tài Thương mại và Tòa án. Trong phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án,
quyết định cuối cùng của Hội đồng xét xử còn có thể bị kháng cáo, kháng nghị lên Tòa án
cấp trên. Tòa án có nhiều cấp xét xử, từ sơ thẩm đến phúc thẩm, trong một số trường hợp
còn có thể được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc xét xử qua nhiều
cấp như vậy trong phương thức Tòa án cũng tạo nên một hạn chế nhất định cho các nhà
kinh doanh đó là đôi khi có thể dẫn đến kéo dài thời gian xét xử, thời gian thi hành án,
đây có thể là điều mà các nhà kinh doanh không mong muốn.
Quy trình của tố tụng Trọng Tài cũng linh hoạt cho thời gian và lịch làm việc của
các bên và năng động hơn so với toà án do trọng tài chỉ chịu sự điều chỉnh của Quy Định
của từng Trung Tâm Trọng Tài và Luật Trọng Tại Thương Mại 2010.
Trong thủ tục trọng tài, tính mềm dẻo, linh hoạt thể hiện rất rõ ở mỗi giai đoạn, thể
hiện tính thuận tiện, dễ dàng tiến hành theo ý chí của các bên tranh chấp. Ví dụ như: khi
đơn khởi kiện được nhận, các bên tranh chấp đều có quyền lựa chọn Trọng tài viên theo
sự tín nhiệm của mình, lựa chọn hoặc thỏa thuận địa điểm giải quyết, đây là ưu điểm linh
hoạt hơn trong phương thức trọng tài với Tòa án. Ngoài ra, Trọng tài Thương mại còn

9


khác ở phương thức Tòa án về mặt điều kiện khởi kiện hoặc trong nguyên tắc xét xử tập
thể của Tòa án.
2.1.3.

Bảo mật thông tin
Theo qui định tại khoản 4 Điều 4 Luật Trọng tài Thương mại năm 2010 thì giải
quyết tranh chấp bằng Trọng tài Thương mại được tiến hành không công khai, trừ trường
hợp các bên có thỏa thuận khác. Khác với nguyên tắc tố tụng của Tòa án là xét xử công
khai được qui định tại Điều 15 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004. Như vậy, tất cả bí mật

thông tin của các bên được giữ kín trong cả quá trình giải quyết, ngay cả khi có phán
quyết cuối cùng cũng không được công khai nếu như không có yêu cầu của các bên. Đây
được xem là một ưu điểm lớn của phương thức Trọng tài Thương mại, góp phần đáp ứng
như mong muốn của các nhà kinh doanh khi muốn giữ bí mật thông tin hoặc uy tín của
doanh nghiệp mình. Trong tố tụng Tòa án, hầu như các phiên xét xử đều công khai, hội
đồng xét xử ra bản án, quyết định cũng phải công khai trước công chúng, tối kỵ đặc biệt
khi có sự tham gia của truyền thông và người dân và khi có liên quan tới các thông tin
mật của doanh nghiệp. Việc bảo đảm bí mật của trọng tài cũng sẽ tránh cho các bên nguy
cơ làm tổn thương đến mối quan hệ hợp tác làm ăn vốn có, trong khi đó việc xét xử công
khai tại toà thường làm cho các bên rơi vào thế đối đầu nhau và một bên được coi như là
người chiến thắng còn bên kia là thua cuộc.

2.1.4.

Cơ quan trọng tài trung lập, chuyên môn trọng tài viên cao
Tòa án là cơ quan xét xử của Nhà nước, là cơ quan tư pháp trong hệ thống bộ máy
nhà nước ta, Tòa án nhân danh quyền lực Nhà nước để xét xử, xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật. Tòa án hoạt động vì mục đích duy trì, ổn định trật tự xã hội, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân theo Hiến pháp. Bên cạnh đó, Trọng tài Thương mại lại là
cơ quan mang tính chất phi chính phủ, không nằm trong bộ máy nhà nước và hoạt động
phi lợi nhuận. Các trung tâm trọng tài không phải là một cơ quan xét xử của Nhà nước
mà là một tổ chức xã hội, nghề nghiệp. Luật trọng tài thương mại vẫn giữ lại hầu hết các
qui định về Trọng tài viên. Theo đó, chúng ta có thể hiểu rằng “Trọng tài viên là người
được các bên lựa chọn hoặc được Trung tâm trọng tài hoặc Tòa án chỉ định để giải quyết
tranh chấp theo Luật Trọng tài Thương mại năm 2010”. Để trở thành Trọng tài viên thì
10


mỗi cá nhân phải đáp ứng được các tiêu chuẩn, điều kiện, quyền và nghĩa vụ mà Luật
Trọng tài Thương mại qui định.

Theo số liệu thống kê của Bộ Tư pháp cho đến tháng 08 năm 2013 trên cả nước
có 288 trọng tài viên trong tổng số 7 trung tâm trọng tài hoạt động theo Luật Trọng tài
Thương mại năm 2010. Trong đó, Thành phố Hồ Chí Minh là nơi tập trung nhiều trung
tâm nhất với 4 trung tâm trọng tài đó là Trung tâm Trọng tài Thương mại Thành phố Hồ
Chí Minh (TRANCENT); Trung tâm trọng tài quốc tế Thái Bình Dương (PIAC); Trung
tâm Trọng tài Thương mại Tài chính Ngân hàng Việt Nam (VIFIBAR); Trung tâm Trọng
tài Thương mại Tài chính (FCCA) chiếm gần 2/3 tổng số trọng tài viên được tập trung tại
đây. Tiếp theo sau đó là Hà Nội với 02 trung tâm là Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam
(VIAC) và Trung tâm trọng tài thương mại Á Châu (ACIAC). Cần Thơ với 01 trung tâm
đó là Trung tâm trọng tài thương mại Cần Thơ (CCAC). Trong tổng số 288 trọng tài viên
của 07 trung tâm thì có 18 trọng tài viên có quốc tịch nước ngoài chủ yếu đến từ các quốc
gia Nhật Bản, Mỹ, Pháp, Singapore, Hàn Quốc với trình độ chuyên môn khá cao. Nhìn
chung đội ngũ trọng tài viên của Việt Nam hiện nay cũng tương đối tuy nhiên cũng còn
rất thấp so với một số nước trong khu vực và trên thế giới hiện nay. Trình độ chuyên môn
của trọng tài viên ngày càng được nâng cao và trong đó phải kể đến là sự có mặt của
nhiều trọng tài viên đến từ một số quốc gia có nên kinh tế phát triển hàng đầu thế giới
trong thời gian vừa qua. Với số lượng tăng thêm như thế này sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu
của Doanh nghiệp, xã hội đối với hoạt động này.
2.1.5.

Phán quyết của trọng tài được công nhận, thi hành phán quyết trọng tài
Năm 1995, Việt Nam gia nhập Công ước New York về việc công nhận và cho thi
hành phán quyết trọng tài. Việc gia nhập công ước nghĩa là bất kỳ phán quyết trọng tài
nào tại bất kỳ nước nào là thành viên công ước mà có một bên của phán quyết ở Việt
Nam hoặc tài sản ở Việt Nam thì đều có thể được Nhà nước Việt Nam công nhận và bảo
hộ thi hành. Ngược lại, bất kỳ phán quyết nào của trọng tài Việt Nam cũng có thể được
công nhận và cho thi hành ở bất kỳ nước thành viên nào của công ước.
Có thể nói việc giải thể trọng tài kinh tế nhà nước, thành lập các trung tâm trọng
tài thương mại độc lập năm 1993, 1994, và tham gia Công ước New York đã đánh dấu
11



một bước ngoặt quan trọng khi Nhà nước trả trọng tài thương mại về đúng bản chất và
chức năng của nó, đánh dấu sự cải thiện đáng kể môi trường pháp lý nhằm tạo thuận lợi
trong việc thu hút đầu tư nước ngoài.
Phán quyết của trọng tài Thương mại là chung thẩm và có hiệu lực thi hành ngay
được qui định tại khoản 5 Điều 61 Luật Trọng tài Thương mại năm 2010 vì vậy, vụ việc
đã được trọng tài giải quyết thì không bị xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc
thẩm, tái thẩm của Tòa án. Thủ tục thi hành phán quyết Trọng tài được thực hiện theo qui
định pháp luật về thi hành án Dân sự. Trong đó, trong vòng 05 ngày làm việc kể từ ngày
nhận được yêu cầu của bên được thi hành án, cơ quan thi hành án Dân sự phải ra quyết
định thi hành án và phân công chấp hành viên tổ chức thi hành quyết định đó . Sau khi
nhận được thông báo về quyết định thi hành án, người phải thi hành án có 15 ngày để tự
nguyện thi hành án, nếu không sẽ bị cưỡng chế theo qui định của pháp luật về thi hành án
dân sự.
2.2.

Hạn chế

Bên cạnh những ưu điểm, phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại cũng có những khó khăn, trở ngại khó tránh khỏi đó là:
2.2.1. Chi phí trọng tài cao

Trong thực tiễn tình hình nước ta hiện nay, chi phí cho việc giải quyết tranh chấp
kinh doanh bằng trọng tài tương đối lớn hơn so với giải quyết bằng con đường tòa án.
Tham khảo một số biểu phí của các trung tâm Trọng tài ta có thể thấy rằng biểu phí để
tính vào các vụ tranh chấp là khá cao theo biểu giá dịch vụ trọng tài của VIAC, mức giá
thấp nhất là 15.000.000 đồng cho việc giải quyết một tranh chấp; trong khi mức án phí
dân sự thấp nhất chỉ 200.000 đồng. Theo một số kết quả phân tích, ta có thể thấy rằng số
lượng các doanh nghiệp lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài

Thương mại là những doanh nghiệp có vốn kinh doanh lớn từ 200 tỷ trở lên. Như vậy đối
với các doanh nghiệp vừa và nhỏ dù muốn cũng khó có thể chọn phương thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
2.2.2. Việc điều tra, xác minh chứng cứ, áp dụng các biện pháp khẩn cấp mất nhiều thời gian

hơn so với Tòa án
12


Trọng tài không phải cơ quan được giao quyền lực cưỡng chế của nhà nước, nên,
trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu xuất hiện trường hợp cần áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời, trọng tài không thể ra quyết định mang tính chất bắt buộc thực hiện
mà phải yêu cầu tòa án thực hiện thay theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự
(Điều 50, 51, Luật trọng tài thương mại 2010). Điều này khiến việc áp dụng các biện
pháp khẩn cấp mất thêm thời gian, không kịp thời và có thể tạo cơ hội cho một bên thực
hiện một số hành vi gây ảnh hưởng bất lợi cho quá trình tố tụng và thi hành phán quyết
sau này.
Trọng tài viên gặp rất nhiều khó khăn trong việc điều tra, xác minh, thu thập
chứng cứ và triệu tập nhân chứng . Tuy pháp luật có quy định trong các điều 45, 46, 47
Luật TTTM 2010 nhưng quyền của họ chỉ dừng lại ở “yêu cầu” còn việc cung cấp hay
không thì phụ thuộc vào sự tự nguyện và thiện chí của các bên tranh chấp và người làm
chứng.
2.2.3. Phán quyết của trọng tài có thể bị yêu cầu tòa án xem xét lại

Theo Điều 68 Luật trọng tài thương mại 2010, phán quyết trọng tài có thể bị hủy
khi có đơn yêu cầu của một bên. Mặc dù trọng tài thương mại là một phương thức giải
quyết tranh chấp nhanh gọn có nhiều ưu điểm song không ít có ý kiến cho rằng họ e ngại
việc phán quyết của trọng tài bị Tòa án hủy.
Từ năm 2011 – 2014, tức từ khi Luật trọng tài thương mại 2010 có hiệu lực, có 20
yêu cầu hủy phán quyết Trọng tài của VIAC thì có đến 10 phán quyết được Tòa án chấp

nhận hủy, chiếm 50% trong tổng số vụ tranh chấp yêu cầu Tòa án hủy. Việc có quá nhiều
phán quyết trọng tài bị tuyên hủy như vậy sẽ tạo cho doanh nghiệp tâm lý e dè khi quyết
định có chọn Trọng tài hay không, đó cũng là một rào cản khá lớn trong việc các doanh
nghiệp tiếp cận với phương thức giải quyết này.
Bên cạnh đó những căn cứ để hủy phán quyết của trọng tài được quy định tại Điều
68 Luật trọng tài thương mại 2010 cũng chưa được cụ thể, rõ ràng (ví dụ như điểm đ
khoản 2 Điều 68), khiến cho việc áp dụng các căn cứ này có thể bị lạm dụng để hủy phán
quyết của trọng tài; làm trì hoãn việc khắc phục thiệt hại, bù đắp tổn thất của các bên do
tranh chấp gây ra. Đây chính là lý do lớn nhất cho việc giải quyết bằng trọng tài ít được
lựa chọn để giải quyết các tranh chấp.
13


2.2.4. Việc thực hiện các phán quyết của trọng tài phụ thuộc phần lớn vào ý thức tự nguyện của

các bên
Điều này thể hiện trước nhất ở Điều 65 Luật trọng tài thương mại 2010, khi Nhà
nước khuyến khích các bên tự nguyện thi hành phán quyết trọng tài. Chỉ khi một bên
không tự nguyện thi hành phán quyết của trọng tài trong thời hạn và cũng không yêu cầu
hủy phán quyết thì bên còn lại mới có quyền yêu cầu cơ quan thi hành dân sự thi hành
phán quyết trọng tài. Đối với các doanh nghiệp nước ngoài, uy tín của doanh nghiệp được
đặt lên hàng đầu do đó việc họ tự giác thực hiện các quyết định của trọng tài khá cao. Tuy
nhiên, các doanh nghiệp trong nước hiện nay vẫn chưa coi trọng việc giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài, nên vẫn chưa có ý thức tự giác, dẫn đến số phán quyết trọng tài bị
yêu cầu hủy và không được thi hành chiếm tỷ lệ lớn.
3. Thực tế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ở Việt Nam

Ttrong những năm qua, số vụ tranh chấp thương mại được giải quyết bằng trọng
tài mà tiêu biểu là tại VIAC liên tục tăng, từ 18 vụ/năm (giai đoạn 1993 – 2003) lên 42
vụ/ năm (giai đoạn 2004 – 2010). Đội ngũ trọng tài viên cũng không ngừng được mở

rộng. Sáu tháng đầu năm 2012, VIAC đã kết nạp thêm 37 trọng tài viên, trong đó có 12
trọng tài viên nước ngoài, nâng tổng số trọng tài viên của Trung tâm lên 151 người, tăng
gần 30% so với năm 2009. Tuy nhiên, bức tranh về trọng tài thương mại tại Việt Nam vẫn
chưa thật sự khởi sắc khi phương thức này chỉ giải quyết khoảng 11% tổng số tranh chấp
thương mại. Số vụ tranh chấp mà VIAC thụ lý trong năm 2011 là 83, vẫn rất khiêm tốn
nếu so với 188 vụ mà Trung tâm Trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) giải quyết hay như
Uỷ ban trọng tài Bắc Kinh là 1.500 vụ.
Nguyên nhân là do những quy định của pháp luât hiện hành còn nhiều thiếu sót,
chồng chéo, chưa rõ ràng cụ thể. Luật trọng tài thương mại năm 2010 mặc dù đáp ứng
phần nào yêu cầu thực tế song sau một thời gian đi vào hoạt động đã bộc lộ nhiều thiếu
sót, bất hợp lý. Chưa kể, thói quen, tập quán của thương nhân Việt Nam tin tưởng tòa án
hơn trọng tài. Hơn nữa, trình độ trọng tài viên ở Việt Nam đều là những người kiêm
nhiệm trong lĩnh vực thương mại. Cho nên, một số trọng tài viên còn chưa chuyên
14


nghiệp. Trong khi đó, các tranh chấp thương mại ngày càng phức tạp, nhất là tranh chấp
có yếu tố nước ngoài.
Đề xuất một số giải pháp nâng cao giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế
bằng trọng tài tại Việt Nam
Trọng tài thương mại quốc tế được các chuyên gia kinh tế đánh giá là phương thức
giải quyết tranh chấp trong tương lai với nhiều ưu điểm nổi trội. Do vậy, Việt Nam muốn
hội nhập vào nền kinh tế thế giới một cách nhanh chóng và bền vững thì phải không
ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về trọng tài nói riêng cho
phù hợp với xu thế phát triển chung.
Bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, Nhà nước cũng cần có hành động cụ
thể nhằm hỗ trợ cơ chế cho hoạt động này. Ngoài ra, trong quá trình giải quyết tranh
chấp, trọng tài cũng cần đến cơ chế phối hợp từ các cơ quan nhà nước, trực tiếp là hệ
thống toà án, đặc biệt trong việc cưỡng chế thi hành phán quyết cũng như công nhận và
cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài.

Hiệu quả hoạt động của trọng tài còn phụ thuộc vào thái độ của các chủ thể kinh
doanh. Do đó, việc tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật trọng tài cũng như nâng
cao chất lượng dịch vụ sẽ giúp doanh nghiệp hiểu hơn về bản chất và ưu thế của trọng tài
thương mại, từ đó tạo điều kiện cho cơ chế này ngày càng phát triển.
Bên cạnh đó, mỗi trung tâm trọng tài cũng phải có kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ
trọng tài viên, không chỉ về số lượng mà cả chất lượng. Đặc biệt, công tác nghiên cứu và
giảng dạy pháp luật trọng tài là nhân tố bảo đảm cho sự phát triển bền vững của mô hình.
Vì thế, cần bồi dưỡng năng lực cũng như định hướng cho sinh viên, đặc biệt là sinh viên
luật và kinh tế về những vấn đề cơ bản trong pháp luật trọng tài.

KẾT LUẬN
Tóm lại, trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại có
những ưu điểm nhất định so với các phương thức khác như thương lượng, hòa giải, tòa
15


án. Nó vừa mang tính tự do, tự định đoạt, vừa có chức năng duy trì các mối quan hệ hợp
tác, hơn nữa vẫn đảm bảo tính bắt buộc cưỡng chế cho việc thi hành phán quyết trọng tài.
Việc xét xử tranh chấp hợp đồng thương mại bằng trọng tài trên thực tế đã làm
giảm đáng kể mức độ xung đột, căng thẳng của những bất đồng, tạo điều kiện để các bên
duy trì được quan hệ đối tác thương mại, quan hệ thiện chí đối với các doanh nghiệp.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật , Giáo trình luật thương mại (tập 2), Nguyễn Viết Tý (chủ

biên), NXB.CAND, Hà Nội, 2006. Bùi Ngọc Cường (chủ biên), Giáo trình luật
thương mại (tập 2), Nxb. Giáo dục, 2008.
2. Trung tâm thương mại quốc tế và Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, Trọng


3.
4.
5.
6.

tài và các phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn, Hà Nội, 2003.
Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003.
Luật trọng tài thương mại năm 2010.
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.
Tạp chí Tài chính số 4 - 2014

16



×