VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN TRUNG THÀNH
CHÍNH SÁCH XÂY DỰNG ĐÔ THỊ THÔNG MINH
TỪ THỰC TIỄN QUẬN THANH KHÊ
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, năm 2018
1
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN TRUNG THÀNH
CHÍNH SÁCH XÂY DỰNG ĐÔ THỊ THÔNG MINH
TỪ THỰC TIỄN QUẬN THANH KHÊ
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành:
Mã số
:
Chính sách công
834.04.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN MINH ĐỨC
HÀ NỘI, năm 2018
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, việc xây dựng và phát triển đô thị thông minh đã trở thành
một xu thế tất yếu tại nhiều quốc gia phát triển trên thế giới. Trong đó, nổi
bật là các thành phố như Singapore (Singapore), Lon Don (Anh quốc), Seoul
(Hàn Quốc), Auckland (New Zealand), Melbourne (Úc), Kobe (Nhật Bản),
Barcelona (Tây Ban Nha)…v.v. Xu thế này được các chuyên gia, nhà khoa
học đánh giá xuất phát từ những lý do chủ yếu sau: thứ nhất, tốc độ đô thị
hóa tăng nhanh đã tạo ra sức ép ngày càng lớn đối với phương thức quản lý,
điều hành của chính quyền và chất lượng đời sống của người dân đô thị; thứ
hai, các tiến bộ vượt bậc về khoa học – công nghệ của thế giới, nhất là trong
lĩnh vực công nghệ thông tin – truyền thông, công nghệ số đã tạo cơ hội ngày
càng lớn cho việc hiện thực hóa xây dựng đô thị thông minh; thứ ba, tiếp tục
phát huy hiệu quả cao nhất các nguồn lực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong
môi trường cạnh tranh gay gắt giữa các đô thị trong thời đại toàn cầu hóa; thứ
tư, xuất phát từ nhu cầu phát triển bền vững, an toàn, tiết kiệm, công bằng,
dân chủ, công khai, lấy người dân làm trung tâm của sự phát triển.
Qua thực tế triển khai, cũng như qua đánh giá của các nhà khoa học,
chuyên gia, việc xây dựng đô thị thông minh ở các nước trên thế giới đã cơ
bản đạt được những kết quả như mong muốn so với mục tiêu, yêu cầu đề ra
như: Tăng chất lượng cuộc sống cùng các dịch vụ thiết yếu đi kèm; tăng tính
hiệu quả của bộ máy hành chính; tăng tính liên kết dọc giữa các hệ thống hạ
tầng kỹ thuật với nhau và hạ tầng xã hội với nhau, cũng như liên kết ngang
giữa hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội; tăng sự tương tác trong nội bộ cộng
đồng dân cư cũng như giữa cộng đồng dân cư với chính quyền; giảm chi phí;
giảm thời gian chờ đợi hoặc thời gian đi lại; giảm tiêu thụ các nguồn tài
3
nguyên thiên nhiên cũng như lãng phí không cần thiết các nguồn lực xã hội.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn thế giới cũng như ở Việt Nam, cuối
năm 2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1819/QĐ-TTg,
phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ
quan nhà nước, trong đó đã đặt ra mục tiêu và nhiệm vụ: “Triển khai đô thị
thông minh ít nhất tại 3 địa điểm theo tiêu chí do Bộ TT&TT hướng dẫn”.
Tiếp đó, tháng 11/2016, Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của
Đảng cũng nhấn mạnh một số nội dung ưu tiên phát triển đô thị thông minh.
Đến tháng 12/2016, Văn phòng Chính phủ ban hành Công văn số
10384/VPCP-KGVX truyền đạt ý kiến của Thủ tướng: “Bộ TT&TT khẩn
trương chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng và các cơ quan liên quan xây dựng,
ban hành các tiêu chí đánh giá, công nhận đô thị thông minh và hướng dẫn
các địa phương thực hiện.”Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính
phủ, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Công văn số 58/BTTTTKHCN, ngày 11/01/2018 về việc “Hướng dẫn các nguyên tắc định hướng về
công nghệ thông tin và truyền thông trong xây dựng đô thị thông minh ở Việt
Nam” nhằm bước đầu thúc đẩy thống nhất nhận thức và quan điểm về ứng
dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong xây dựng đô thị thông minh
trên cả nước.
Thành phố Đà Nẵng nói chung, quận Thanh Khê nói riêng là một trong
những đô thị có tốc độ đô thị hóa cao nhất cả nước. Cũng như nhiều đô thị
khác, thành phố và quận cũng đang đối mặt với những thách thức trong quá
trình đô thị hóa, nhất là trên các lĩnh vực đất đai, nhà ở, môi trường, an ninh trật tự, giao thông, sử dụng tài nguyên, y tế, giáo dục…v.v. Trước tình hình
đó, thành phố Đà Nẵng đã sớm có chủ trương xây dựng đô thị thông minh để
khắc phục những hạn chế, bức xúc nêu trên, đồng thời tiếp tục nâng cao hiệu
lực, hiệu quả của bộ máy chính quyền các cấp, khai thác tối đa các nguồn lực
4
để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng ngày càng cao và xây dựng thành phố phát
triển bền vững trong tương lai. Từ năm 2014, thành phố Đà Nẵng đã phê
duyệt Đề án xây dựng thành phố thông minh hơn, Đề án xác định 5 lĩnh vực
ưu tiên triển khai là: giao thông thông minh, thoát nước thông minh, cấp nước
thông minh, kiểm soát an toàn vệ sinh thực phẩm và xây dựng thành phố kết
nối. Thành phố cũng đã phối hợp với Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel
xây dựng Khung kiến trúc tổng thể thành phố thông minh, để làm cơ sở triển
khai đồng bộ, thống nhất các ứng dụng thành phố thông minh tại Đà Nẵng.
Là một trong những quận trung tâm của thành phố Đà Nẵng, quận
Thanh Khê cũng đã tiến hành các bước cụ thể hóa Đề án của thành phố trên
một số lĩnh vực và đạt được kết quả ban đầu như: xây dựng chính quyền điện
tử, đảm bảo an ninh trật tự, bảo vệ môi trường, đổi mới y tế, giáo dục. Nhận
thức về đô thị thông minh cũng từng bước được hình thành trong đội ngũ cán
bộ, công chức và ở các ngành, các cấp. Tuy nhiên, những kết quả đó vẫn còn
khiêm tốn so với các mục tiêu, yêu cầu, nội dung của một đô thị thông minh
đặt ra từ lý luận, cũng như thực tiễn, trong đó việc xây dựng một hệ thống lý
luận đầy đủ, khoa học về đô thị thông minh vẫn còn nhiều hạn chế. Vì vậy,
tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính sách xây dựng đô thị thông minh là yêu
cầu vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài để khắc phục những mặt
hạn chế do quá trình đô thị hóa diễn ra, đồng thời tiếp tục nâng cao năng lực
phát triển và sức cạnh tranh đô thị, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đời
sống của nhân dân. Xuất phát từ yêu cầu đó, việc học viên chọn đề tài:
“Chính sách xây dựng đô thị thông minh từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành
phố Đà Nẵng” làm Luận văn thạc sỹ chuyên ngành Chính sách công là hết
sức cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, việc nghiên cứu, định hướng chính sách xây dựng đô thị
5
thông minh ở nước ta đang được Đảng, Chính phủ, chính quyền các cấp, các
chuyên gia, nhà khoa học hết sức quan tâm, nhất là trong thời đại mà công
nghệ thông tin - truyền thông được ứng dụng rộng rãi trên tất cả các mặt đời
sống xã hội và trở thành công cụ hữu hiệu để nâng cao năng lực quản lý, điều
hành, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững
trong tương lai. Xoay quanh đề tài có một số công trình cụ thể như sau:
- Hà Phương (2016) “Phát triển đô thị thông minh bền vững – khái
niệm và những thách thức”, Tạp chí Công nghệ thông tin và Truyền Thông,
số 3, tr. 34-40. Tác giả đã chỉ ra:
+ Tổng hợp các nghiên cứu của giới học thuật, nhà doanh nghiệp và
các bên liên quan cho thấy rằng, đô thị thông minh được hiểu theo 03 cách
chủ yếu. Cách hiểu thứ nhất cho rằng, đô thị thông minh chủ yếu là đô thị áp
dụng công nghệ số để thay đổi phương thức sắp xếp, quản lý hạ tầng và các
dịch vụ đô thị. Cách hiểu thứ hai cho rằng, đô thị thông minh là sáng kiến chủ
yếu nhằm cải thiện chính sách phát triển và quản trị đô thị một cách bền vững
bằng việc áp dụng những tiến bộ công nghệ thông tin - truyền thông để tái cơ
cấu nguồn nhân lực, sự đổi mới, giáo dục, sự tham gia của người dân. Cách
hiểu thứ ba về đô thị thông minh là việc ứng dụng các công nghệ thông tin truyền thông thúc đẩy mô hình lấy người dân làm trung tâm để phát triển và
quản lý đô thị, qua đó thúc đẩy đổi mới và thực thi công bằng xã hội, tăng
cường sự minh bạch và chịu trách nhiệm của cơ quan quản lý. Đối với các
bên liên quan, cả ba cách hiểu về đô thị thông minh không loại trừ lẫn nhau
mà cần xây dựng chiến lược đô thị thông minh, trong đó bao hàm các thành
tố với tỷ lệ và mức độ ưu tiên khác nhau của cả ba khái niệm trên. Điều quan
trọng là nhận thức được rằng, tầm nhìn, tham vọng và động cơ phát triển của
mỗi đô thị là khác nhau, tuy từng trường hợp cụ thể mà áp dụng.
- PGS.TS Nguyễn Hồng Thục (2014) “Các yếu tố phát triển đô thị
6
thông minh hơn tại Việt Nam”, Tạp chí Xây dựng, số 7, tr. 76-79: Ở Việt
Nam, trong những năm gần đây, do quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ
nhanh chóng, đã đặt ra nhiều thách thức, trong đó sự thiếu hụt cơ sở hạ tầng,
thiếu hụt các dịch vụ thiết yếu, ô nhiễm môi trường, suy giảm chất lượng
sống của người dân đặt ra nguy cơ bị mắc kẹt trong mô hình tăng trưởng đô
thị kém hiệu quả và thiếu bền vững mà không thể thoát ra một cách dễ dàng.
Tác giả đề xuất một số hướng đi mới cho phát triển đô thị: Một là, tăng
trưởng xanh; hai là, tăng trưởng giảm thiểu tác động với phương pháp
LIUDD trong biến đổi khí hậu; ba là, sử dụng công cụ quy hoạch lãnh thổ
gắn với tăng trưởng xanh.
- ThS. Bùi Thị Diệu Hiền (2014) “Triển vọng phát triển đô thị thông
minh tại Việt Nam”, Báo Tài nguyên và Môi trường Bình Định: Sự phát triển
đô thị của nước ta hiện đang đặt ra 04 vấn đề lớn cần giải quyết: Đô thị hóa
tăng (dân số đô thị tăng, số đô thị tăng) kéo theo các vấn đề về môi trường,
giao thông, dịch vụ y tế, an toàn, nhà ở; hạ tầng lạc hậu, quá tải; cạnh tranh
kinh tế gia tăng giữa các đô thị, giữa các vùng; yêu cầu nâng cao chất lượng
sống của người dân. Cũng theo tác giả, để giải quyết vấn đề nêu ở trên, các
đô thị Việt Nam cần xây dựng và phát triển theo hướng trở thành đô thị thông
minh với các mục tiêu như sau: một là, nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế;
hai là, xây dựng môi trường sống ngày càng tốt hơn; ba là, phục vụ nhu cầu
người dân ngày càng tốt hơn; bốn là, tạo điều kiện cho người dân tham gia
quản lý đô thị, giám sát chính quyền.
- TS. Phạm Sĩ Liêm (2011) “Xây dựng đô thị Đà Nẵng thành đô thị
thông minh”, Tạp chí Người xây dựng Số, số 3, tr. 21-24: Tác giả cho rằng,
với lợi thế so sánh của mình, phát triển đô thị thông minh có thể là phương
thức có hiệu quả giúp nâng cao năng lực cạnh trạnh của Đà Nẵng, đưa Đà
Nẵng trở thành đô thị toàn cầu. Để nâng cao năng lực cạnh tranh, Đà Nẵng
7
nên xây dựng sách lược cạnh tranh tổng hợp, bao gồm 05 nhóm giải pháp chủ
yếu sau: Một là, đẩy mạnh tiếp thị đô thị; hai là, xây dựng hình tượng đô thị;
ba là, xây dựng bản sắc đô thị; bốn là, thúc đẩy cách tân đô thị; năm là, xây
dựng đô thị phát triển bền vững, hay còn gọi là đô thị sinh thái. Theo tác giả,
có 06 độ đo giúp nhận dạng và xếp loại đô thị thông minh, đó là kinh tế thông
minh, lưu động thông minh, môi trường thông minh, nhân dân thông minh,
lối sống thông minh, và trị lý thông minh. Đà Nẵng nên dựa vào các độ đo
này để xây dựng thành phố thông minh của riêng mình.
Nội dung của các tài liệu trên đề cập tới những vấn đề chung về lý luận
trong việc xây dựng đô thị thông minh cũng như việc áp dụng xây dựng đô
thị thông minh phù hợp với tình hình thực tiễn ở các thành phố của nước ta
hiện nay. Đây là nguồn tài liệu tham khảo quý giá, giúp học viên kế thừa và
hình thành nên hệ thống cơ sở lý luận của đề tài. Tuy nhiên, chưa có đề tài
nào nghiên cứu toàn diện ở phương diện chính sách về xây dựng đô thị thông
minh, nhất là gắn với một địa bàn cụ thể. Do vậy, có thể khẳng định vấn đề
học viên lựa chọn nghiên cứu không có sự trùng lắp về nội dung và đối
tượng, phạm vi nghiên cứu, nhất là từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố
Đà Nẵng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn
chính sách xây dựng đô thị thông minh, làm cơ sở khoa học để đánh giá thực
trạng và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách xây dựng đô thị
thông minh từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận về chính sách xây dựng đô thị
thông minh;
8
Thứ hai, phân tích thực trạng chính sách xây dựng đô thị thông minh từ
thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng;
Thứ ba, nêu phương hướng và đề xuất các giải pháp để hoàn thiện
chính sách xây dựng đô thị thông minh từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành
phố Đà Nẵng trong thời gian đến.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn liên quan đến giải pháp hoàn thiện
chính sách đô thị thông minh từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà
Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng
- Về thời gian: từ năm 2013 – 2018
4.3. Khách thể nghiên cứu
Đô thị thông minh là một khái niệm mở, có nhiều nội hàm trên nhiều
khía cạnh khác nhau. Vì vậy, trong khuôn khổ Luận văn này chủ yếu tập
trung trên các lĩnh vực còn nhiều bức xúc, hạn chế của địa phương trong quá
trình đô thị hóa như: xây dựng chính quyền, giao thông, y tế, giáo dục - đào
tạo, kiểm soát ô nhiễm môi trường.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng cách tiếp cận hệ thống đa ngành và liên ngành về
ứng dụng khoa học công nghệ thông tin trong các lĩnh vực đời sống xã hội;
tiếp cận dựa trên phương pháp quy phạm về chu trình chính sách trong
nghiên cứu xây dựng, đề xuất các giải pháp trong việc hoàn thiện chính sách
xây dựng đô thị thông minh. Đó là cách tiếp cận quy phạm chính sách công
về chu trình chính sách từ hoạch định đến xây dựng, thực hiện và đánh giá
9
chính sách công có sự tham gia của các chủ thể chính sách. Lý thuyết chính
sách công được soi sáng qua thực tiễn, giúp hình thành lý luận về chính sách
chuyên ngành.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, Luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể, như phương pháp thu thập thông tin, phân tích tổng hợp,
phương pháp so sánh từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu,
bao gồm các văn kiện, tài liệu, nghị quyết, quyết định của Đảng, Nhà nước,
các ngành ở Trung ương và địa phương, đề tài nghiên cứu của các nhà khoa
học, chuyên gia trong nước, cũng như thực tiễn ở các nước trên thế giới về
thực hiện chính sách xây dựng đô thị thông minh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn vận dụng lý thuyết về chính sách công để làm rõ cơ sở lý
luận và thực tiễn của một chính sách cụ thể, đó là chính sách xây dựng đô thị
thông minh từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
Đề tài cung cấp những nghiên cứu, tư liệu thực tế tại quận Thanh Khê,
thành phố Đà Nẵng, nhằm góp phần làm phong phú thêm hệ thống lý luận
của khoa học chính sách công.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Qua việc nghiên cứu chính sách xây dựng đô thị thông minh từ thực
tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, đánh giá đầy đủ, chính xác thực
trạng việc xây dựng đô thị thông minh trong thời gian qua của chính quyền và
các ban ngành của quận, đồng thời đề ra các giải pháp để tiếp tục hoàn thiện
chính sách trong thời gian đến. Kết quả nghiên cứu có thể làm tài liệu tham
khảo giúp lãnh đạo quận, các cơ quan liên quan, các tổ chức đoàn thể có cơ
sở khoa học và thực tiễn để điều chỉnh chính sách, tổ chức thực hiện chính
10
sách xây dựng đô thị thông minh đạt hiệu quả hơn trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
được chia làm 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chính sách xây dựng đô thị thông minh.
Chương 2: Thực trạng chính sách xây dựng đô thị thông minh tại quận
Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách xây
dựng đô thị thông minh từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
11
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH
XÂY DỰNG ĐÔ THỊ THÔNG MINH
1.1. Sự cần thiết xây dựng đô thị thông minh ở nước ta hiện nay
Theo Bộ Xây dựng, tỷ lệ đô thị hóa nước ta đã tăng từ 19,6% với 629
đô thị, lên khoảng 36,6% với 802 đô thị, từ năm 2009 đến năm 2016, với
khoảng 39 triệu người, chiếm khoảng 41% dân số cả nước; dự kiến đến năm
2020 dân cư đô thị chiếm 45% và năm 2025 chiếm 50% dân số cả nước. Diện
tích của các đô thị chỉ chiếm hơn 10% tổng diện tích cả nước, song lại đóng
góp tới hơn 70% tổng thu ngân sách. Bên cạnh những lợi ích thiết thực như
đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế, phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, xây
dựng đời sống xã hội văn minh, hiện đại, thì quá trình đô thị hóa gia tăng còn
tạo ra nhiều thách thức đối với chính quyền các cấp như sức ép về ô nhiễm
môi trường, giao thông, nhà ở, giáo dục, y tế, thiếu hụt các nguồn lực về đất
đai, nước sạch, không gian, năng lượng...v.v, đặc biệt là ở các thành phố lớn
như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh.
Từ thực trạng của quá trình đô thị hóa ở nước ta, cùng với những kết
quả đạt được ở các nước trên thế giới, vấn đề về xây dựng đô thị thông minh
ở Việt Nam trong thời gian qua đã được các nhà khoa học, các ngành, các cấp
quan tâm nghiên cứu, triển khai thực hiện, xuất phát từ những lợi ích cũng
như yêu cầu phát triển đô thị trong tình hình mới, cụ thể như sau:
Thứ nhất, việc xây dựng đô thị thông minh có thể giải quyết cơ bản các
vấn đề thách thức nảy sinh trong quá trình đô thị hóa của Việt Nam, tạo niềm
tin của nhân dân vào hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của chính quyền các cấp, ví
dụ như: nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công cho người dân, tổ chức,
doanh nghiệp; giải quyết tình trạng ùn tắc giao thông; kiểm soát tốt hơn môi
12
trường sống; tiết kiệm năng lượng, sử dụng hiệu quả các nguồn lực về con
người cũng như vật chất…v.v.
Thứ hai, trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin - truyền thông, đặc
biệt là các nước phát triển trên thế giới đang bước vào nền công nghiệp 4.0,
Việt Nam đang có cơ hội lớn để tiến hành đổi mới mô hình tăng trưởng kinh
tế, đổi mới cách thức quản lý, điều hành xã hội, nhằm rút ngắn khoảng cách
với các nước phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh đô thị, cạnh tranh quốc
gia, thu hút đầu tư, đồng thời đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững theo mục
tiêu, nhiệm vụ đề ra.
Thứ ba, xuất phát từ đòi hỏi ngày càng cao của người dân về nâng cao
chất lượng cuộc sống đô thị, tham gia xây dựng xã hội, giám sát hoạt động
của chính quyền. Do đó, việc xây dựng và quản lý đô thị theo cách truyền
thống đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Điều này đòi hỏi các
nhà lãnh đạo, quản lý phải tìm kiếm những chiến lược, giải pháp mới phù hợp
với bối cảnh hiện nay và xu hướng phát triển đô thị trong tương lai.
Ngay sau khi có chủ trương từ Chính phủ, một số tỉnh, thành phố lớn ở
nước ta đã bắt đầu tìm hiểu và bắt tay vào triển khai thực hiện. Cho tới nay,
hơn 20 tỉnh, thành phố đã và đang triển khai dưới hình thức như vậy. Trong
đó, một số tỉnh, thành phố đã bắt đầu triển khai xây dựng Đề án Đô thị thông
minh như Đà Nẵng (7/2014), Huế (2015), Quảng Ninh (8/2016), Thành phố
Hồ Chí Minh (9/2016), Kiên Giang (Huyện đảo Phú Quốc - 9/2016), Lâm
Đồng (Thành phố Đà Lạt - 10/2016), Bình Dương (9/2016), Thanh Hóa
(Thành phố Thanh Hóa - thị xã Sầm Sơn, thị xã Bỉm Sơn - 9/2016), Hải
Phòng (11/2016), Vĩnh Phúc (3/2017), Đăk Lăk (Thành phố Buôn Ma Thuột
- 1/2017), Tiền Giang (Thành phố Mỹ Tho - 2/2017), …v.v.
Ngoài ra, với một thị trường công nghệ thông tin - truyền thông ngày
càng sôi động và phát triển mạnh mẽ, với các nhà đầu tư có tiềm lực, uy tín
13
cả trong và ngoài nước như IBM, FPT, VNPT, Viettel, Cisco, Bkav….v.v, đã
đặt ra nhiều sự lựa chọn, cơ hội đối với các địa phương tại Việt Nam trong
việc hiện thực hóa mục tiêu xây dựng đô thị thông minh trong thời gian đến.
Có thể nói, việc xây dựng đô thị thông minh là hết sức cần thiết đối với các
đô thị tại Việt Nam hiện nay, xuất phát từ lợi ích trước mắt cũng như mục
tiêu phát triển lâu dài, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của đô thị trong
thời đại toàn cầu hóa, đồng thời đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của người dân về
một môi trường sống thuận lợi, an toàn, tiết kiệm hơn...v.v.
1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của chính sách xây dựng đô thị
thông minh
1.2.1. Khái niệm chính sách xây dựng đô thị thông minh
Để đưa ra được cách hiểu về chính sách xây dựng đô thị thông minh thì
Luận văn sẽ làm rõ một số khái niệm sau:
- Khái niệm về chính sách
Để quản lý xã hội, bộ máy nhà nước phải ban hành các chính sách phù
hợp với đặc điểm, điều kiện cụ thể của từng quốc gia. Tác động của nhà nước
đến các đối tượng có thể mang tính chính trị, hành chính, kinh tế và được
lồng ghép vào các cơ chế quản lý điều hành thống nhất. Thuật ngữ chính sách
được sử dụng rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng và trong đời
sống xã hội. Dưới đây, là một số khái niệm của các học giả trong và ngoài
nước:
+ Theo William Jenkin, "Chính sách công là một tập hợp các quyết
định liên quan với nhau, được ban hành bởi một hoặc nhóm các nhà hoạt
động chính trị cùng hướng đến lựa chọn mục tiêu và các giải pháp để đạt
được mục tiêu đó"; Thomas R. Dye lại cho rằng: "Chính sách công là bất kỳ
những gì nhà nước lựa chọn làm hoặc không làm". Còn theo Krafty Furloy:
“Chính sách công là một quá trình hành động hoặc không hành động của
14
chính quyền để đáp lại một vấn đề công cộng”. Charles O. Jones định nghĩa:
"Chính sách công là một tập hợp các yếu tố gồm: Dự định, Mục tiêu, Đề
xuất, Các quyết định hay các lựa chọn, Hiệu lực". B. Cuy Peters định nghĩa:
"Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của chính quyền, dù thực hiện
trực tiếp hay gián tiếp qua các đại lý, tác động đến cuộc sống của mọi người".
Còn theo Doctor Eric: "Chính sách công là một sản phẩm của một tiến trình
tương tác giữa các cá nhân theo các nhóm làm việc nhỏ trong một khuôn khổ
do các tổ chức đặt ra - các tổ chức này hoạt động trong một hệ thống thể chế
chính trị, luật pháp và chịu ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa - xã hội",
"Chính sách công có thể coi như là một khái niệm có thể dùng thay thế các
khái niệm hành chính công và quản lý công, hoặc có thể hiểu là một bộ công
cụ phân tích dùng trong hai lĩnh vực trên"[8].
+ Các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng đã có nhiều nghiên cứu về
chính sách công, đặc biệt là những năm gần đây, khi nước ta chủ trương đẩy
mạnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong cuốn sách Chính sách
kinh tế - xã hội, các tác giả đồng nhất chính sách công với chính sách kinh
tế - xã hội và đưa ra định nghĩa: “Chính sách kinh tế - xã hội là tổng thể các
quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác
động lên các đối tượng và khách thể quản lý nhằm giải quyết vấn đề chính
sách, thực hiện những mục tiêu tổng thể của xã hội”. Theo Từ điển giải
thích thuật ngữ hành chính: “Chính sách công là chiến lược sử dụng các
nguồn lực để làm dịu bớt những vấn đề quốc gia hay mối quan tâm của Nhà
nước. Chính sách công cho phép Chính phủ đảm nhiệm vai trò người cha
đối với cuộc sống của nhân dân. Nó tạo thời cơ, giữ gìn hạnh phúc và an
toàn cho mọi người; tạo ra an toàn cho tài chính và bảo vệ an toàn cho Tổ
quốc”. Các nhà khoa học của Viện Chính trị học, Học viện Chính trị - Hành
15
chính quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng: “Chính sách công là chương trình
hành động của Nhà nước nhằm giải quyết các vấn đề cụ thể”; “Chính sách
công là thuật ngữ dùng để chỉ một chuỗi các quyết định hoạt động của nhà
nước nhằm giải quyết một vấn đề chung đang đặt ra trong đời sống kinh tế xã hội theo mục tiêu đã xác định”[8].
Mặc dù những quan niệm trên còn có nhiều điểm khác nhau, nhưng tất
cả các ý kiến đều nghiên cứu, xem xét chính sách công với tư cách là sản
phẩm có mục đích của chủ thể nắm quyền lực công để tác động đến các mặt
đời sống xã hội. Trong các chủ thể quyền lực công đó thì Nhà nước do tính
chất đặc biệt nên được đưa vào vị trí trung tâm.
Từ những khái niệm trên, có thể hiểu thuật ngữ chính sách công như
sau: Chính sách công là tổng thể chương trình hành động của chủ thể nắm
quyền lực công, nhằm giải quyết vấn đề có tính cộng đồng trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội theo phương thức nhất định nhằm đạt được các mục tiêu
đề ra và đảm bảo cho xã hội phát triển bền vững, ổn định.
Từ cách hiểu trên, ta có thể thấy chính sách công có những đặc trưng
cơ bản sau: Chính sách công là sản phẩm của chủ thể quyền lực công, nên bất
kỳ chủ thể nào nắm quyền lực công đều có khả năng ban hành chính sách
công; chính sách công bao gồm nhiều quyết định có liên quan lẫn nhau – đó
là một chuỗi các quyết định cùng hướng vào giải quyết vấn đề của chính
sách, luôn gắn với từng thời kỳ và giai đoạn lịch sử cụ thể; chính sách công
thường tập trung giải quyết một vấn đề nhất định đang đặt ra trong đời sống
kinh tế - xã hội theo những mục tiêu xác định và phương pháp cụ thể.
- Khái niệm đô thị: Đô thị là không gian cư trú của một cộng đồng
người sống tập trung và hoạt động trong những khu vực kinh tế phi nông
nghiệp [23].
16
- Khái niệm đô thị thông minh:
Đã có nhiều khái niệm khác nhau về đô thị thông minh (smart city)
được đưa ra bởi nhiều học giả trên thế giới, với những quan điểm và cách tiếp
cận riêng. Một trong số những định nghĩa này là:
+ “Đô thị thông minh được xây dựng dựa trên viễn cảnh về sự phát
triển đô thị trong tương lai được đánh dấu bởi sự số hóa trên quy mô rộng
lớn các loại hình dịch vụ, với mục tiêu chủ yếu là đạt tính bền vững kép trên
cả ba phạm vi là kinh tế, xã hội và môi trường, có sử dụng các công nghệ tiên
tiến như công nghệ thông tin, công nghệ truyền thông và mạng
Internet” [35].
+ “Đô thị thông minh coi trọng sự mở rộng không ngừng của việc cung
cấp dữ liệu, góp phần làm đa dạng hóa cách thức lựa chọn của mỗi công dân
đô thị nhằm cải thiện các điều kiện sinh sống và học tập hoặc lao động qua
đó có thể phát triển bản thân một cách toàn diện và làm xã hội trở nên thịnh
vượng” [36].
+ Năm 2015, Liên minh viễn thông thế giới (ITU) định nghĩa: “Đô thị
thông minh bền vững là đô thị đổi mới, được ứng dụng công nghệ thông tin
và truyền thông (ICT) và những phương tiện khác để cải thiện chất lượng
cuộc sống, hiệu quả quản lý, vận hành, cung cấp dịch vụ và mức độ cạnh
tranh của đô thị, trong khi vẫn đáp ứng những nhu cầu của các thế hệ hiện
tại và tương lai về mọi khía cạnh kinh tế, môi trường, văn hóa - xã hội .”[21].
+ Trong dự luật của Hoa Kỳ “Luật về Đô thị và Cộng đồng thông
minh”, khái niệm đô thị thông minh được định nghĩa: “Đô thị thông minh
hoặc cộng đồng thông minh là một cộng đồng ở đó được ứng dụng các công
nghệ thông tin, truyền thông đổi mới sáng tạo, tiên tiến và đáng tin cậy, các
công nghệ năng lượng và các cơ chế liên quan khác để: Cải thiện sức khỏe
và chất lượng cuộc sống của người dân; tăng hiệu lực và hiệu quả chi phí
17
vận hành và cung cấp các dịch vụ dân sự; thúc đẩy phát triển kinh tế; tạo ra
một cộng đồng ở đó người dân cảm thấy tốt hơn về các mặt an toàn, an ninh,
bền vững, có sức chống chịu, đáng sống và đáng làm việc”[15].
Từ một số khái niệm trên, chúng ta có thể nhận thấy nội hàm chủ yếu
để xây dựng đô thị thông minh là đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin
vào trong các mặt đời sống xã hội của đô thị đó. Tuy nhiên, có một số nhà
nghiên cứu lại cho rằng, một đô thị thông minh là tập hợp các nội dung cấu
thành và vận hành đô thị đều phải thông minh. Ví dụ, phải có chính quyền
thông minh, con người thông minh, phương pháp quản lý, điều hành thông
minh, giao tiếp thông minh, cở sở vật chất, hạ tầng thông minh…v.v. Trong
đó, công nghệ thông tin - truyền thông là ứng dụng nền tảng để thúc đẩy xây
dựng đô thị thông minh.
Ở Việt Nam chúng ta, khái niệm đô thị thông minh cũng được các nhà
nghiên cứu, các nhà khoa học tiếp cận và đưa ra những quan điểm riêng của
mình. Tuy nhiên, là một nước đi sau về xây dựng đô thị thông minh, nên hầu
hết các khái niệm về đô thị thông minh của Việt Nam đều trên cơ sở sở kế
thừa hệ thống khái niệm của các nhà nghiên cứu, khoa họctrên thế giới. Bên
cạnh đó, căn cứ tình hình thực tiễn, mà đưa ra các nội hàm đô thị thông minh
phù hợp với cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội của
Việt Nam. Nhìn chung, khái niệm đô thị thông minh ở Việt Nam được hiểu
như sau: Đô thị thông minh là đô thị hoặc khu vực cư dân ứng dụng công
nghệ thông tin - truyền thông phù hợp, tin cậy, có tính đổi mới sáng tạo nhằm
nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước, cung cấp các dịch vụ
công, phát huy các nguồn lực của đô thị có sự tham gia của người dân; nâng
cao chất lượng cuộc sống và làm việc của cộng đồng; thúc đẩy đổi mới, sáng
tạo phát triển kinh tế; đồng thời bảo vệ môi trường trên cơ sở tăng cường
liên thông, chia sẻ dữ liệu, an toàn, an ninh thông tin giữa các hệ thống và
18
dịch vụ. Khái niệm này cũng được hiểu là đô thị thông minh phát triển bền
vững.
- Khái niệm chính sách xây dựng đô thị thông minh
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng đô thị thông minh, có thể
quan niệm về chính sách xây dựng đô thị thông minh như sau: Chính sách
xây dựng đô thị thông minh là tổng thể các chương trình hành động ứng dụng
công nghệ thông tin - truyền thông, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công
tác quản lý nhà nước, cung cấp các dịch vụ công, phát huy các nguồn lực của
đô thị có sự tham gia của người dân; nâng cao chất lượng cuộc sống và làm
việc của cộng đồng; thúc đẩy đổi mới, sáng tạo phát triển kinh tế; đồng thời
bảo vệ môi trường trên cơ sở tăng cường liên thông, chia sẻ dữ liệu, an toàn,
an ninh thông tin giữa các hệ thống và dịch vụ.
Như vậy, có thể hiểu, chính sách xây dựng đô thị thông minh là toàn
bộ các mặt công tác, hoạt động, từ việc xác định mục tiêu đến xây dựng và
thực hiện chính sách đô thị thông minh, được tiến hành bởi các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền, nhằm đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin
vào trong mọi mặt hoạt động của nhà nước, đời sống xã hội, để xây dựng đô
thị ngày càng thông minh hơn, an toàn hơn, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất
lượng đời sống của người dân, tăng tính cạnh tranh đô thị và phát triển xã hội
một cách bền vững.
1.2.2. Đặc điểm của chính sách xây dựng đô thị thông minh
Từ khái niệm, ta có thể thấy chính sách xây dựng đô thị thông minh có
một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, chính sách xây dựng đô thị thông minh có nhiều nội dung
khác nhau, các nội dung đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình
thực hiện. Trong đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông vào
trong các lĩnh vực đời sống xã hội là nền tảng cơ bản để hiện thực hóa các nội
19
dung về xây dựng đô thị thông minh.
Thứ hai, chính sách xây dựng đô thị thông minh được tiến hành bởi các
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền như: Quốc hội, Chính phủ, Bộ
ngành Trung ương, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp thành phố, cấp
quận. Đồng thời, để xây dựng đô thị thông minh đạt hiệu quả, cần có sự tham
gia của người dân và toàn xã hội.
Thứ ba, chính sách xây dựng đô thị thông minh đề cao tính đổi mới,
sáng tạo, linh hoạt, vừa đáp ứng các nguyên tắc, định hướng chung của Trung
ương, nhưng vừa mang tính cụ thể, phù hợp với điều kiện thực tiễn ở mỗi địa
phương.
Thứ tư, đối tượng tác động của chính sách là chính quyền, người dân,
doanh nghiệp nơi xây dựng đô thị thông minh.
1.2.3. Vai trò chính sách xây dựng đô thị thông minh
Trong quản lý xã hội, nhà nước thường sử dụng chính sách công làm
công cụ chủ yếu để giải quyết vấn đề chung của cộng đồng, nhằm thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng. Theo đó, chính sách xây dựng đô
thị thông minh có một số vai trò chủ yếu sau:
Thứ nhất, định hướng cho các chủ thể tham gia hoạt động xây dựng đô
thị thông minh. Nội dung định hướng là đưa ra các nhận thức chung về khái
niệm, mục tiêu tổng quát, các nguyên tắc chung, kiến trúc công nghệ thông
tin - truyền thông và nội dung xây dựng đô thị thông minh. Nếu các chủ thể
hoạt động theo chiều hướng tác động của chính sách thì không những đạt
được mục tiêu phát triển mà còn được hưởng ưu đãi của Nhà nước. Như vậy,
cùng với mục tiêu thì các biện pháp chính sách cũng có vai trò định hướng
cho hành động của các chủ thể xây dựng đô thị thông minh.
Thứ hai, đề ra và hoàn thiện các giải pháp ứng dụng công nghệ thông
tin - truyền thông, công nghệ số vào trong hoạt động quản lý nhà nước, các
20
lĩnh vực đời sống xã hội nhằm khắc phục những hạn chế, thách thức do quá
trình đô thị hóa diễn ra, đồng thời tiếp tục phát huy các nguồn lực của địa
phương, nâng cao tính cạnh tranh đô thị, phục vụ tốt hơn đời sống của người
dân.
Thứ ba, khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động xây dựng đô thị thông
minh theo định hướng. Trong đó chủ thể ban hành chính sách phải ban hành
nhiều giải pháp, trong đó có những giải pháp khuyến khích các chủ thể trong
xã hội tham gia như miễn thuế, tiếp cận nguồn vốn vay lãi suất thấp, chấp
hành thủ tục hành chính đơn giản, thụ hưởng các nguồn trợ cấp…v.v. Sự tác
động này không mang tính bắt buộc, mà chỉ mang tình khuyến khích các chủ
thể thực hiện những hành động theo ý chí của nhà nước.
Thứ tư, thúc đẩy sự phối hợp giữa các ngành, các cấp. Việc thực hiện
các giai đoạn chu trình chính sách không chỉ và không thể do một cơ quan
nhà nước đảm nhiệm, mà đòi hỏi sự tham gia của nhiều cơ quan thuộc các
ngành các cấp khác nhau, của nhiều tổ chức, cá nhân. Chính vì vậy, thông
qua quá trình chính sách thúc đẩy sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan
nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và sự tham gia của các tầng lớp
nhân dân vào việc xây dựng đô thị thông minh, tạo sự đồng bộ, hiệu quả từ
khi triển khai. Mục tiêu và biện pháp chính sách sẽ định hướng cho sự phối
hợp này.
Thứ năm, cảnh báo và đề ra các giải pháp khắc phục mặt trái của quá
trình xây dựng đô thị thông minh như: sự cố về gián đoạn hệ thống thông tin,
kết nối giữa trung tâm xử lý dữ liệu và các thiết bị đầu cuối; sự chia cách
trong giao tiếp trực tiếp giữa chính quyền với người dân và giữa người dân
với nhau; giảm sáng tạo cá nhân, xơ cứng trong các mối quan hệ xã hội;
quyền tự do cá nhân có thể bị xâm phạm do các hệ thống giám sát khắp nơi;
dôi dư lao động và nợ nần khi xây dựng thành phố thông minh.
21
1.3. Nội dung chính sách xây dựng đô thị thông minh
Việc xác định nội dung chính sách xây dựng đô thị thông minh có ý
nghĩa hết sức quan trọng, nó vừa thể hiện tầm nhìn mang tính chất chiến
lược, áp dụng những thành tựu, kinh nghiệm đi trước của các nước trên thế
giời, đồng thời vừa xác định cách tiếp cận phù hợp với nguồn lực, thực tiễn
của mỗi thành phố, địa phương khi triển khai thực hiện. Nội hàm của việc
xây dựng đô thị thông minh gồm rất nhiều nội dung, ví dụ như: chính quyền
thông minh, người dân thông minh, phương pháp quản lý, điều hành thông
minh, giao tiếp thông minh, giao thông thông minh …v.v. Căn cứ cơ sở lý
luận cũng như tình hình thực tiễn, việc xây dựng đô thị thông minh được đa
số các địa phương của Việt Nam lựa chọn theo hướng từng bước đẩy mạnh
áp dụng công nghệ thông tin - truyền thông vào trong những lĩnh vực còn
nhiều hạn chế, yếu kém, tụt hậu so với yêu cầu của xã hội, sau đó tiếp tục mở
rộng áp dụng sang các lĩnh vực khác để thúc đẩy tăng trưởng, năng cao hiệu
quả quản lý xã hội, và cuối cùng hướng tới xây dựng một đô thị thông minh
đúng nghĩa. Trên cơ sở đó, Luận văn xác định nội dung chính sách xây dựng
đô thị thông minh gồm những nội dung sau:
1.3.1. Chính sách xây dựng chính quyền điện tử
Chính sách xây dựng chính quyền điện tử là tổng thể các quan điểm,
mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp sử dụng một cách có hệ thống công nghệ thông
tin - truyền thông vào trong việc quản lý, điều hành của nhà nước nhằm xây
dựng một nền hành chính hiệu lực, hiệu quả, minh bạch, phục vụ ngày càng
tốt hơn mối quan hệ giữa chính quyền với công dân, doanh nghiệp, các tổ
chức xã hội, và trong chính nội bộ giữa các cơ quan chính quyền với nhau.
Mục tiêu chung của chính sách là: tăng cường năng lực, nâng cao hiệu
quả điều hành nhà nước của chính quyền, mang lại thuận lợi và tiết kiệm chi
phí cho dân chúng, tăng cường sự công khai minh bạch, phát huy hiệu quả
22
các nguồn lực, giảm chi tiêu ngân sách. Mục tiêu cụ thể là: Nâng cao năng
lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp, tạo động lực phát triển mới;
cung cấp cho người dân và doanh nghiệp các dịch vụ công ngày càng tốt
nhất, tạo điều kiện cho nguời dân dễ dàng truy nhập, giao dịch ở khắp mọi
nơi thông qua mạng Internet; đồng thời tạo điều kiện cho người dân có thể
tham gia xây dựng chính sách, đóng góp vào quá trình phát triển địa phương
một cách tích cực; giảm thiểu nhũng nhiễu, tiêu cực, tăng cường công khai,
minh bạch, nâng cao uy tín của các cơ quan nhà nước.
Nội dung xây dựng chính quyền điện tử gồm 04 giai đoạn:
- Thông tin: Trong giai đoạn đầu, chính quyền điện tử có nghĩa là hiện
diện trên trang web và cung cấp cho công chúng các thông tin (thích hợp). Giá
trị mang lại ở chỗ công chúng có thể tiếp cận được thông tin của chính quyền,
các quy trình trở nên minh bạch hơn, qua đó nâng cao chất lượng dịch vụ.
- Tương tác: Trong giai đoạn thứ hai, sự tương tác giữa chính quyền và
công dân được thông qua nhiều ứng dụng khác nhau. Người dân có thể trao
đổi trực tiếp qua thư điện tử, sử dụng các công cụ tra cứu, tải xuống các biểu
mẫu và tài liệu. Các tương tác này giúp tiết kiệm thời gian.
- Giao dịch: Với giai đoạn thứ ba, tính phức tạp của công nghệ có tăng
lên, nhưng giá trị của khách hàng cũng tăng theo. Các giao dịch hoàn chỉnh
có thể thực hiện mà không cần đi đến cơ quan hành chính. Có thể lấy ví dụ về
các dịch vụ trực tuyến như: Đăng ký thuế thu nhập, đăng ký thuế tài sản, gia
hạn/cấp mới giấy phép, thị thực và hộ chiếu, biểu quyết qua mạng…v.v.
- Chuyển hóa: Giai đoạn thứ tư là khi mọi hệ thống thông tin được tích
hợp lại và công chúng, doanh nghiệp có thể hưởng các dịch vụ tại một bàn
giao dịch (điểm giao dịch ảo). Ở giai đoạn này, tiết kiệm chi phí, hiệu quả và
đáp ứng nhu cầu khách hàng đã đạt được các mức cao nhất có thể được.
1.3.2. Chính sách xây dựng giao thông thông minh
23
Là tổng thể các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp sử dụng một
cách có hệ thống công nghệ thông tin - truyền thông vào trong việc quản lý
giao thông, vận tải công cộng, tham gia giao thông, thông tin giao thông,
nhằm tạo ra một hệ thống giao thông thuận tiện, nhanh chóng, an toàn, tiết
kiệm.
Mục tiêu chung của chính sách là: Nâng cao năng lực, tính hiệu quả
của công tác quản lý giao thông, tạo điều kiện thuận lợi và tiết kiệm thời
gian, chi phí đối với người tham gia giao thông. Mục tiêu cụ thể: làm giảm
thiểu việc ùn tắc giao thông, điều tiết giao thông một cách thông minh và
hiệu quả, xác định thời gian thực cho người đi xe vận tải công cộng, vị trí đỗ
xe, thông tin giao thông trên đường; khuyến khích áp dụng các phần mềm
công nghệ thông tin trên xe cá nhân để tăng tính hiệu quả của mô hình giao
thông thông minh.
Nội dung chính sách: Xây dựng hệ thống thông tin giao thông thông
qua tổng đài dịch vụ hành chính công hay qua các bảng thông báo điện tử tại
nơi công cộng như ở các giao lộ, nhà chờ xe buýt, ga tàu lửa, sân bay…v.v,
nhằm phục vụ người tham gia giao thông và quản lý nhà nước; ứng dụng
phần mềm và xây dựng trung tâm chỉ huy, điều tiết giao thông thông minh;
lắp đặt hệ thống camera rộng khắp để giám sát, xử lý vi phạm giao thông
bằng hình ảnh; xây dựng các hệ thống thu phí điều tiết, hạn chế tham gia giao
thông vào một số khu vực theo hình thức tự động, không dừng; khuyến khích
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân áp dụng công nghệ thông tin trên các phương
tiện di chuyển cá nhân.
1.3.3. Chính sách đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông tin - truyền
thông trong lĩnh vực y tế
Là tổng thể các quan điểm, mục tiêu, giải pháp đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin - truyền thông một cách có hệ thống vào trong việc quản
24
lý nhà nước về y tế, chăm sóc sức khỏe và khám chữa bệnh cho nhân dân, tạo
ra một nền y tế hiện đại, liên thông, hướng đến sự hài lòng của người dân và
nâng cao hiệu quả khám chữa bệnh của các cơ sở y tế.
Mục đích xây dựng nền y tế thông minh là để người dân dễ dàng tiếp
cận và trao đổi với các cơ sở khám chữa bệnh từ xa, rút ngắn thời gian làm
thủ tục hành chính cho cả nhân viên y tế và người bệnh; xây dựng hồ sơ y tế
cá nhân nhằm nắm bắt tiền sử bệnh tật, quá trình khám chữa bệnh của bệnh
nhân để theo dõi toàn diện và liên tục; dễ dàng trao đổi thông tin lâm sàng,
cận lâm sàng trong cùng một bệnh viện và giữa các bệnh viện với nhau; giúp
các nhà quản lý bệnh viện giám sát được thời gian, việc tuân thủ các quy
trình kỹ thuật, phác đồ, quy chế kê đơn; triển khai “quản lý tinh gọn” nhằm
chống lãng phí trong sử dụng thuốc, vật tư y tế; số hóa kho hồ sơ bệnh án;
xây dựng hệ thống khó mắc lỗi, xây dựng hệ thống cảnh báo nhằm hạn chế
thấp nhất tai biến y khoa; kịp thời đưa ra các dự báo về dịch bệnh trên cơ sở
dữ liệu được cập nhật, phân tích.
Nội dung chính sách: khuyến khích, tạo điều kiện áp dụng công nghệ
thông tin để nâng cao khả năng quản lý, điều hành của cơ sở y tế; xây dựng
các phần mềm chăm sóc, theo dõi, khám chữa bệnh một cách hiệu quả;
khuyến khích, hỗ trợ việc áp dụng các công nghệ thông minh, hiện đại trong
khám, chữa bệnh; tiến hành liên thông cơ sở dữ liệu giữa các trung tâm y tế,
cơ sở khám chữa bệnh, xây dựng hồ sơ y tế điện tử cho người dân.
1.3.4. Chính sách đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông tin - truyền
thông trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo
Là tổng thể các quan điểm, mục tiêu, giải pháp đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin - truyền thông một cách có hệ thống vào trong công tác
giáo dục - đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng quản lý, cung cấp dịch vụ công,
đáp ứng yêu cầu đổi mới công tác dạy và học trong tình hình mới.
25