Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Luận văn thạc sỹ đặc điểm ngôn ngữ trong hồi đáp lời khen của giới trẻ hiện nay trong tiếng hán và tiếng việt (qua tư liệu các trang mạng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 77 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------

DOÃN KIÊN
(YIN JIAN)

ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ TRONG HỒI ĐÁP LỜI KHEN
CỦA GIỚI TRẺ HIỆN NAY TRONG TIẾNG HÁNVÀ TIẾNG VIỆT
(QUA TƢ LIỆU CÁC TRANG MẠNG)

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Hà NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------

DOÃN KIÊN
(YIN JIAN)

ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ TRONG HỒI ĐÁP LỜI KHEN
CỦA GIỚI TRẺ HIỆN NAY TRONG TIẾNG HÁNVÀ TIẾNG VIỆT
(QUA TƢ LIỆU CÁC TRANG MẠNG)

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60220240

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC


Ngƣời hƣớng dẫn: GS.TS Nguyễn Văn Khang

Hà NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
thống kê, kết quả nêu trong luận văn này là trung thực và chưa từng công bố
trong bất kì công trình khoa học nào khác. Các tài liệu tham khảo và thông tin
trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 20 tháng 9 năm 2017
Tác giả luận văn

Doãn Kiên
(YinJian)


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và nghiên cứu tại Việt Nam, tôi đã nhận được sự
giúp đỡ của các thầy cô, các giáo sư của trường Đại học khoa học Xã hội và
Nhân Văn, và của rất nhiều bạn bè, tôi xin gửi lời cảm ơn tới tất cả các thầy cô,
các bạn đã tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này. Đặc biệt, tôi xin bày
tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới GS.TS.Nguyễn Văn Khang, Thầy đã tận tâm
giúp đỡ và hướng dẫn cho tôi để tôi có thể hoàn thành tốt luận văn này.Một lần
nữa tôi xin được gửi lời cảm ơn tới tất cảcác quý thầy cô giáo vàcác bạn học
cùng lớp đã nhiệt tình giúp đỡ và đóng góp ý kiến để tôi có thể hoàn thành
chương trình học và bản luận văn này.

Hà Nội, ngày 20 tháng 9 năm 2017


Doãn Kiên
(YinJian)


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..................................................................................................... - 1 1. LÍ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI ............................................................ - 1 2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN VĂN ........................... - 1 2.1. Mục đích nghiên cứu..................................................................... - 1 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................... - 2 3. PHƢƠNG PHÁP VÀ THỦ PHÁP NGHIÊN CỨU ....................... - 2 4. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI VÀ TƢ LIỆU NGHIÊN CỨU ............. - 4 5. Ý NGHĨA LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN .............. - 5 6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN .......................................................... - 5 CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ
THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN .............................................. - 5 1.1

Tổng quan tình hình nghiên cứu .................................................. - 6 -

1.1.1 Tình hình nghiên cứu ở phương Tây ......................................... - 6 1.1.2 Tình hình nghiên cứu ở Trung Quốc ......................................... - 8 1.1.3 Tình hình nghiên cứu ởViệt Nam ..............................................- 11 1.2 Cơ sở lý thuyết liên quan đến luận văn ......................................... - 17 1.2.1 Xung quanh thuật ngữ “giới tính” và “giới” ........................... - 17 -


1.2.2Những nghiên cứu về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và giới. ..... - 20 1.2.3 Hành vi ngôn ngữ và hành vi tiếp nhận lời khen .................... - 29 1.2.4Cấu trúc và loại hình tiếp nhận lời khen. .................................. - 33 1.3 Tiểu kết ............................................................................................. - 36 CHƢƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM CỦA HỒI ĐÁP LỜI KHEN CỦA GIỚI TRẺ
VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC TRONG TIẾNG HÁN TIẾNG VIỆT- 37 2.1.Một số loại hình của chiến lƣợc hồi đáp lời khen của giới trẻ Trung
Quốc và Việt Nam trong tiếng Hán và tiếng Việt ............................... - 38 2.1.1.Hồi đáp lời khencủa giới trẻ Trung Quốc trong tiếng Hán ..... - 38 2.1.2.Hồi đáp lời khencủa giới trẻ Việt Nam trong tiếng Việt ........... - 42 2.2Những khảo sát cụ thể ..................................................................... - 44 2.2.1 Phân tích hồi đáp lời khen và giới tính khác nhau trong tiếng Hán- 44 2.2.2 Phân tích hồi đáp lời khen và giới tính khác nhau trong tiếng Việt- 47 2.3 Phân tích hội đáp lời khen về hình thức bên ngoài trong tiếng Hán
và tiếng Việt............................................................................................ - 50 2.3.1 Trong tiếng Hán .......................................................................... - 50 2.3.2Trong tiếng Việt ............................................................................ - 51 2.4Tiểu kết .............................................................................................. - 52 -


Chƣơng 3. TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐNGOÀI NGÔN NGỮ
ĐẾN HỒI ĐÁP LỜI KHEN CỦA GIỚI TRẺ TRUNG QUỐC VÀ VIỆT
NAM .......................................................................................................... - 53 3.1 Nhận xét chung ................................................................................ - 53 3.2. Những nguyên nhân về văn hóa xã hội tác động đến lời hồi đáp
khen của giới trẻ Trung Quốc và Việt Nam ........................................ - 54 3.2.1. Về tính lịch sự trong hồi đáp .................................................... - 54 3.3. Nhận xét .......................................................................................... - 57 3.3.1 Lý do khác nhau trong lời đáp lời khencủa giới trẻ hai nước . - 57 3.3.2Lý do khác nhau về hồi đáp lời khen giữa nam và nữ .............. - 58 3.4Tiểu kết .............................................................................................. - 62 KẾT LUẬN ............................................................................................... - 64 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... - 65 -


MỞ ĐẦU
1. LÍ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI
Khen người khác hay được người khác khen và hồi đáp lời khen là một trong
những cách ứng xử văn hóa phổ biến trong cuộc sống của con người nhưng lại

mang những đặc trưng ngôn ngữ-văn hóa riêng của từng cộng đồng và theo
từngxã hội.Từ phía người khen, đó là khen ai, khen ở đâu, khen lúc nào, khen cái
gì và khen như thế nào; từ phía người được khen, đó là thái độ hồi đáp và cách hồi
đáp lời khen như thế nào cho phù hợp với đối trượng và hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.
Tất cả nh ững sự tương tác ấy được biểu thị chủ yếu bằng ngôn ngữ gồm: ngôn từ
và các yếu tố phi ngôn từ ( như cử chỉ)..
Từ góc độ ngữ dụng học, với lí thuyết hành vi ngôn ngữ (speech acts), hành
vi khen thuộc vào phạm trù ứng xử (behabitives, - 1 -comportementaux). Theo
hướng này, nghiên cứu lời khen phải chỉ ra được các biểu thức ngôn từ của hành vi
khen và tiếp nhận lời khen (hồi đáp khen) ở các bối cảnh giao tiếp khác nhau.
Từ góc độ ngôn ngữ học xã hội, hành vi khen được nghiên cứu theo quan hệ
tương tác giao tiếp có sự phân tầng về xã hội. Theo hướng này, với tư cách là biến
thể, khen và tiếp nhận lời khen của người khen và người tiếp nhận lời khenđược
xem xét dưới tác động của các tầng lớp trong xã hội như:tuổi tác, giới tính, nghề
nghiệp, thu nhập, địa vị, học vấn,...
Cho đến nay, mặc dù đã có những công trình nghiên cứu , khảo sát vềlời
khen, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứuchuyên sâu về đặc điểm ngôn ngữ
tronghồi đáp lờikhen của giới trẻ Trung Quốc và Việt Nam hiện nay. Vì thế ,
chúng tôi chọn đặc điểm ngôn ngữ trong hồi đáp lời khen của giới trẻ Trung Quốc
và Việt Nam hiện nay làmchủ đề luận văn.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN VĂN
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn khảo sát, nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ được sử dụngtronghồi đáp
-1-


lời khen của giới trẻ Trung Quốc trong tiếng Hán và giới trẻ Việt Nam trongtiếng
Việt. Thông qua đó, luận văn chỉ ra những tương đồng và khác biệt giữa lời khen
của giới trẻ hai nước; chỉ ra các yếu tố v ề văn hóa, xã hội đã tác động đếnngôn
ngữ giao tiếp nói chung cũng nhưngôn ngữ trong tiếp nhận lời khen nói riêng.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nêu tr ên, luận văn đã đặt ra những nhiệm vụ chủ yếu như sau:
1) Giới thiệu, hệ thống hóa một số nội dung cơ bản về lí thuyết giao tiếp bằng
ngôn ngữ liên quan đến ngữ dụng học (như lí thuyết hành vi ngôn ngữ) và liên
quan đến ngôn ngữ học xã hội (như mối quan hệ giữa ngôn ngữ vàngữ dụng)
2) Đưa ra một cái nhìn tổng quát về hành vi tiếp nhận lời khen trong giao tiếp
bằng ngôn ngữ nói chung và tiếng Hán-Việt nói riêng qua cách phân tích, khảo sát
và chỉ ra các đặc điểm ngôn ngữ giới của hành vi hồi đáp lời khen trong giao tiếp
ngôn ngữ tiếng Hán và tiếng Việt.
3) Khảo sát, nghiên cứu những đặc điểm ngôn ngữ giới ở hồi đáp lời khen trong
giao tiếp tiếng Hán và tiếng Việt:
– Khảo sát phân tích hồi đáp lời khen trong tiếng Hán và tiếng Việt của giớinam
và nữ trẻ tuổi ở Trung Quốc và Việt Nam.
–Phân tích, giải thích nguyên nhân hồi đáp lời khen của giới nam nữ trẻ Trung
Quốc và Việt Nam trong tiếng Hán và tiếng Việt.
3. PHƢƠNG PHÁP VÀ THỦ PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện luận vănnày, chúng tôi sử dụng một số phương pháp và thủ pháp
sau:
-2-


Các phương pháp và thủ pháp điều tra, khảo sát của ngôn ngữ học xã hội:
phỏng vấn sâu, nhập thân vào vai giao tiếp, quan sát vàthống kê phân loại tư liệu
bằng hệ thống giao tiếptrên mạng.
Phỏng vấn sâu: Sử dụng phương pháp này, chúng tôi tiến hành phỏng vấn theo
cách trò chuyện để thu thập thông tin về lời khen. Chẳng hạn, chúng tôi gặp gỡ
bạn bè và các bạn sinh viên khác rồi đưa ra chủ đề về trang phục và hỏi nh ững câu
hỏi gợi ý như: “nếu hôm nay thấy sếp của bạn diện một bộ trang phục mới, đẹp thì
bạn sẽ khen như thế nào để cho vừa lòng”; hoặc tự đưa ra một lời khen hay hồi
đáp lời khen trong bối cảnh giao tiếp cụ thể nào đó để bạn bè và các bạn sinh viên

nhận xét và đưa ra ý kiến.
Nhập thân vào vai giao tiếp: Cách điều tra này đòi hỏi chúng tôi phải tham
gia trực tiếp vào các cuộc trò chuyện (trở thành một nhân vật cụ thể trong giao
tiếp). Trong khi trò chuyện, bản thân mình phải cố gắng “lái” cuộc trò chuyện có
liên quan đến lời khen và hồi đáp lời khen để thu thập thêm tư liệu. Chẳng hạn,
cùng nhau bàn về trang phục, chúng tôi sẽ đưa ra lời khen trước hoặc nhận xét về
trang phục trước để từ đó mọi người cùng tham gia bàn về chủ đề này. Trong các
cuộc bàn bạc như vậy sẽ xuất hiện các lời khen và hồi đáp lời khen khác nhau.
Quan sát: Có thể nói, đi đâu cũng gặp có thể gặp các cuộc giao tiếp khác
nhau nên chúng tôi cố gắng quan sát và ghi chép lại khi có các lời khen và hồi đáp
lời khen xuất hiện.
Thống kê phân loại tư liệu bằng hệ thống giao tiếptrên mạng: thu thập tư liệu
về hồi đáp lời khen từ tư liệu trên mạng.
-3-


Việc chọn mẫu điều tra: trong hai loại mẫu chủ ý và mẫu ngẫu nhiên, chúng
tôi sử dụng chủ yếu là mẫu ngẫu nhiên. Lí do là vì phạm vi tư liệu rộng và nhiều,
nếu chọn mẫu chủ ý sẽ làm hạn chế tư liệu nên chúng tôi sử dụng mẫu ngẫu nhiên
để nguồn tư liệu được phong phú hơn.
Các phương pháp và thủ pháp khác được sử dụng trong luận văn knày như:
phân tích diễn ngôn, quy nạp, diễn dịch, thống kê, miêu tả, phân tích hệ thống.
4. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI VÀ TƢ LIỆU NGHIÊN CỨU
1) Đối tượng nghiên cứu, khảo sát của luận vănnày là hành vi tiếp nhận lời
khen được biểu hiện bằng ngôn từ (bằng lời). Các biểu hiện bằng cử chỉ (phi lời)
như bắt tay, mỉm cười, ra dấu hiệu, nháy mắt,... chưa được xem xét đến trong luận
văn này.
2) Tư liệu mà chúng tôi thu thập chủ yếu bằng hai nguồn là giao tiếp nói và
giao tiếp viết.
- Đối với tư liệu từ giao tiếp nói, chúng tôitiến hành thu thập tư liệu bằng

cách ghi âm, quan sát ghi chép và tiến hành phỏng vấn.
- Luận vănsử dụng tư liệu từ các phim phát sóng trên các chương trình truyền
hình của Trung Quốc và Việt Nam.
- Đối với tư liệu từ giao tiếp viết, chúng tôi thu thập tư liệu từ các báo điện
tử, các website, blog, facebook,...và một số truyện đã phát hành.
3) Nguồn tư liệu của luận văn là các cuộc giao tiếp hiện nay. Nếu trong luận
văncó sử dụng các tư liệu giao tiếp củaluận văn khác hay của người nghiên
cứutrước thì đây chỉ là tư liệu được lấy làm gương mà thôi.
-4-


5. Ý NGHĨA LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN
Về mặt lí luận, luận văn muốn góp phần vào nghiên cứu những vấn đề về
giao tiếp trong ngôn ngữtiếng Hán và tiếng Việt dưới tác động của các nhân tố xã
hội - ngôn ngữ. Tách nhân tố giới ra thành một biến xã hội để nghiên cứu hồi đáp
lời khen, luận văn cũng góp phần vào nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và
giới tính.
Về mặt thực tiễn, luận văn góp phần vào nghiên cứu giao tiếp trong tiếng
Hán và tiếng Việt dưới tác động của nhân tố giới. Thông qua tiếp nhận lời khen có
thể thấy được những biến đổi về lối ứng xử văn hóa - ngôn ngữ của người Trung
Quốc và người Việt cũng như những thay đổi trong cách nhìn nhận về giới của
người Trung Quốc và người Việt.
6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính
của luận vănđược cấu trúc thành 3 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết liên quan đến luận
văn.
Chương 2. Đặc điểm của hồi đáp lời khen trong tiếng Hán của giới trẻ Trung
Quốc và trong tiếng Việt của giới trẻ Việt Nam.
Chương 3. Tác động của các nhân tố ngoàingôn ngữ đếnhồi đáp lời khen của giới

trẻ Trung Quốc và Việt Nam.

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ
-5-


THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN
1.1

Tổng quan tình hình nghiên cứu

1.1.1 Tình hình nghiên cứu ởphương Tây
Từ năm 1970 của thế kỉ xx, ngôn ngữ học phương Tây đã có nhiều nghiên
cứu về lời khen, ví dụ nh ư:Pomerantz 1978, Manes and Wolfson 1981, Wolfson
1983, Holmes 1988, Holmes and Brown 1987, Herbert 1989, Herbert 1990, v.v.
Các tác giả này đã thu thập nhiều ví dụ thực tế về lời khen để nghiên cứu định
lượng định tính từ cuộc sống hằng ngày.
Theo Wolfson (1983) [57], ở Mĩ, các lời khen thường tập trung vào hai chủ
đề chính là vẻ bề ngoài và khả năng (năng lực) của con người. Chẳng hạn:
– Các lời khen về vẻ bề ngoài có thể xuất hiện ở mọi mối quan hệ thân – sơ,
thậm chí, phổ biến ngay trong lần gặp đầu tiên. Hơn nữa, tạm gác lại tính chất
châm biếm thì lời khen về vẻ bề ngoài của ai đó được coi là phát ngôn lịch sự tích
cực, dễ được chấp nhận hơn. Trong vẻ bề ngoài ấy, trang phục và kiểu tóc luôn là
chủ đề nổi trội của các lời khen.
– Các lời khen về kĩ năng thường tập trung vào sự hoàn thành tốt công việc
hoặc các kĩ năng khác như việc nấu một bữa ăn ngon chẳng hạn.
Hai chủ đề khen này cũng được phổ biến ở New Zealand: lời khen về vẻ bề
ngoài chiếm 45%; lời khen về khả năng chiếm 27.5%; lời khen về vật sở hữu (tài
sản) chiếm 10,5% ; lời khen liên quan đến tính cách chiếm 13.5%. Một điểm đáng
chú ý là, ở Mĩ và New Zealand, giới nữ nhận được nhiều lời khen về vẻ bề ngoài

còn đ àn ông New Zealand cũng nhận được những lời khen về vẻ bề ngoài nhưng
-6-


chỉ khoảng 40%, phần lớn các lời khen này là từ giới nữ. Kết quả nghiên cứu được
tiến hành tại khuôn viên của một trường đại học của Mĩ cho thấy, giớinam khen
về ngoại hình của giới nữ nhiều gấp hai lần so với giới nữ khen ngoại hình của
giớinam (52% so với 26%). Phụ nữ thường khá thận trọng trong việc đưa ra lời
khen có liên quan đến bề ngoài,đến vẻ đẹp hình thể của đàn ông bởi đó được coi là
vấn đề khá nhạy cảm. Có thể nói, trong khi đàn ông không để ý thậm chí không
thích nhận được lời khen về ngoại hình thì giới nữ lại đặc biệt coi trọng các lời
khen về vẻ bề ngoài của mình.
Kết quả khảo sát của Wolfson cho thấy, trong thói quen giao tiếp của người
Mĩ, giớinam hiếm khi đưa ra hoặc nhận được những lời khen về ngoại hình từ
những giớinam khác và cũng hiếm khi nhận được những lời khen này từ phụ nữ,
nên nhìn chung, đây không phải là một chủ đề thú vị đối với cả nam và nữ. Tác
giả cũng lưu ý thêm rằng, những lời khen như vậy thường có ởgiớinam còn trẻ
tuổi (hơn là giới nữ cùng độ tuổi này) và đối với giớinam có địa vị cao hơn hoặc
đang thực hiện một số công việc mang tính đặc thù thì dường như có phần khắt
khe hơn. Như vậy thì giới tính,quan hệ tuổi t ác và địa vị xã hội là nh ững nhân tố
quan trọng trong việc lựa chọn chủ đề khen.
Nam và nữ khen như thế nào cũng là một nội dung của mối quan hệ giữa
hành vi khen và giới. Kết quả nghiên cứu đối với hành vi khen cho thấy có sự lặp
đi lặp lại đáng ngạc nhiên của cả chủ đề khen cũng như các từ ngữ chuyên dùng
để miêu tả các chủ đề này, đến mức chúng trở thành các mô thức. Dưới đây là một
số mô hình khen mà Manes và Wolfson đã tổng kết được qua tư liệu khảo sát ở Mĩ
-7-


và New Zealand [55]:

1/ NP + be/look + (Intensifier) + adj. Ví dụ: You look really lovely. (Trông
em thật đáng yêu!).
2/ (Intensifier) + like/love + NP. Ví dụ: I simply love that skirt (Đơn giản vì
mình thích chiếc áo sơmi ấy).
3/ Pro + be + (Intensifier) + (a) + Adj + NP/ Pro + be + a + (Intensifier) + Adj
+ NP. Ví dụ: That's a really nice coat. ( Đó là một chiếc áo khoác thật tuyệt).
Herbert đã đưa ra những nhận xét như sau về hành vi khen xét từ góc độ giới:
1/Trong lời khen của giới nữ thường đi kèm hành vi chào đón; 2/ Giớinam thường
khen ngôi thứ ba nhiều hơn (người không trực tiếp trong cuộc thoại); 3/ Nữ đưa ra
lời khen nhiều hơn nam và không quan tâm đến giới tính của người nghe; 4/ Nam
ít đưa ra lời khen hơn nữ nhất là khen đối tượng cùng giới [49].
R. Lakoff là người có công đưa ra nhận xét về việc sử dụng ngôn ngữ của
mỗi giới, trong đó có lời khen. Theo Lakoff, trong lời khen của giới nữ thường có
các tính từ như: adorable, charming, lovely, divine,… (thật đáng ngưỡng mộ,
quyến rũ, đáng yêu, siêu phàm); còn trong lời khen của giớinam lại thường là các
tính từ trung tính như: good, great…(tuyệt, tuyệt vời, tốt) [53].
1.1.2 Tình hình nghiên cứu ở Trung Quốc
Từ năm 1980 đến nay, các nhà Hán ngữ học đã nghiên cứu đối chiếu lời khen
và tiếp nhận lời khen về hình thức bên ngoài của con người trong tiếng Hán với
các ngôn ngữ khác nhau và chỉ ra sự khác biệt giữa chúng. (Zuo 1988, Chen 1993,
Ye 1995, 邹维诚 “Zou weicheng” 1990, 何自然 “He ziran” 1995,郭爱先“Guo
-8-


xianai” 1996,李悦娥 “Li yuee” 2000,施家伟 “Shi jiawei” 2000)
王集杰, 徐正华 “Wang jijie, Xu zhenghua” (2005: 221-223) [40] so sánh
nghiên cứu lời khen và tiếp nhận lời khen trên cơ sở lí thuyết củaHerber: tiếp nhận
lờikhen có hồi đápchấp nhận là : 41.30%; tiếp nhận lời khen theo cách không
đồng ý là: 27.50%. Trong đó có 31.30%mang đặc trưng văn hóa Trung Quốc.Cụ
thể các tác giả chia 31.30% cách hồi đáp này thành ba loại:1.Tiếp nhận tính

nguyên nhân, chỉ ra nguyên nhân được khenkhi tiếp nhận lời khen.
2.Giảm mức độ lời khen, cách hồi đáp này biểu thị sự khiêm tốn của người Trung
Quốc, trong tiếng Anh, cách tiếp nhận thường là không tiếp nhận hoặc không
chân thành.
3.Hỏi lại, như “thế ạ?” để hồi đáp lời khen, đây không nên hồi đáp vấn đề của đối
phương, thường biểu thị hài lòng, vui vẻ hoặc biểu thị đồng ý.
Các nghiên cứu còn chỉ ra đặc trưng của lời khen và hồi đáp khen về hình
thức trong tiếng Hán nh ư: về đặc trưng từ vựng, sử dụng số lượng cao nhất là tính
từ; trong lời khen tiếng Hán,sử dụng chủ ngữ ngôi thứ nhất cực kỳ ít, đa số đều sử
dụng ngôi thứ hai; nội dung khen chủ yếu tập trung vào bên ngoài và thành tích;
trong lời khen tiếng Hán có hai chủ đ ề đặc biệt hơn là khen v ề tính cách và khen
thành viên gia đình. Truyền thống hồi đáp lời khen tiếng Hán là “từ chối” ( Ye
1995, 何自然 “He ziran” 1995)[58,35]. Tuy nhiên, trong 20 năm trở lại đây có
nhiều biến đổi “nói chung, trong khi từ chối càng ngày càng ít, thì tiếp nhận càng
ngày càng lên cao.” (冯友 “Feng you” 2006:28)[33].Lý do có một số khác biệtđ
ó là do tùy theo xã hội phát triển và văn hóa giao tiếp phương Tây, người Trung
-9-


Quốc sử dụng lời khen tiếng Hán có nhiều biến đổi.
Bắt đầu từ năm 1990, người nghiên cứu lời khen bắt đầu từ góc độ giới
tính.Trong đó, đáng chú ý là nghiên cứu của Ye.Ye (1995: 207-302)[58] áp dụng
phương pháp điều tra bằng anket để thu thập tư liệu, trong nghiên cứu sủ dụng
DCT(Discourse Completion) hoàn thành đối thoại, từ bên ngoài và tính cách để
điều tra tình hình sử dụng lời khen nam và nữ.Kết quả cho thấy, giới nữ sử dụng
khen trực tiếp và khen gián tiếp nhiều hơn, giới nam sử dụng không đồng ý và
không phản ứng.Trong hồi đáp lời khen, giới nữ sử dụng tiếp nhận nhiều và “tiếp
nhận + bổ sung”, giới nam sử dụng không tiếp nhận và không hồi đáp nhiều hơn.
Trong tiếng Hán cũng đã có một số người nghiên cứu lời khen từ góc độ giới
tính(贾玉新 “Jia yuxin” 1997, 魏耀章 “Wei yaozhang” 2001,权立宏 “Quan

lihong” 2004)贾玉新 “Jia yuxin” (1997). Kết quả nghiên cứu cho thấy, bất kể lời
khen tiếng Hán hay là lời khen tiếng Anh, giới nam càng ngày càng thích sử dụng
ngôi thứ ba hoặc không xưng hô; còn giới nữ thích sử dụng ngôi thứ nhất và ngôi
thứ hai hơn giới nam. Năm 1998, 魏耀章 “Wei yaozhang” sử dụng phương pháp
quan sát tham dự (Participant-observation) nghiên cứu lời khen tiếng Hán và đưa
ra kết luận rằng, giới namvà giới nữ sử dụng lời khen khác biệt chủ yếu làởchủ đề:
chủ đề của nam chủ yếu là trí tuệ, chủ đề của nữ chủ yếu biểu hiện ở bên ngoài,
trang phục.
冯鸿江 “Feng hongjiang” (2003) và 权立宏 “Quan lihong” (2004) đều áp
dụng mô hình nghiên cứu của Ye, sử dụng quyển câu hỏi DCT điều tra tình hình
sử dụng lời khen của sinh viên trong trường đại học.Khác biệt là giới nữ khen
- 10 -


người khác càng đơn giản, càng được người khác khen.Trong cách hồi đáp lời
khen khác biệt về giới tính thể hiện rõ rệt hơn, cụ thể, đa số giớinam sử dụng cách
không hồi đáp, còn giớinữsử dụng hồi đáp nhiều.Nghiên cứu của 权立宏 “Quan
lihong” [37] cho thấy, giớinam vàgiớinữ sửdụng lời khen và hồi đáp lời khen đều
có khác biệt: giớinữ thích khen trực tiếp, giớinam sử dụng không khen, khen gián
tiếp và không hồi đáp;giớinữ tiếp nhận lời khen nhiều, giớinamđa số tiếp nhận lời
khen bằng cách từ chối.
Tại Trung Quốc, khảo sát thực tế về lời khen trong tiếng Hán hiện đại tại
Côn Minh, các tác giả cho thấy,giớinam thường sử dụng lời khen “có ẩn ý”, còn
lời khen của giới nữ thường kèm theo phần giải thích cho những lời khen của họ.
Một nghiên cứu khác ở Trung Quốc cũng cho thấy kết quả tương tự: 80.5% các
hành vi khen tường minh được giới nữ chọn lựa để thực hiện với những người
cùng giới khác, trong khi đó số liệu thu được ở giớinam là 57.2%; 9% hành vi
khen “có ẩn ý” được giớinam đưa ra với đối tượng cùng giới và chỉ có 2.3% các
hành vi khen “có ẩn ý” được đưa ra giữa giới nữ. Giớinam cũng chọn cách không
phản ứng lại thay vì chấp nhận hoặc từ chối lời khen (28%), trong khi đó số giới

nữ chọn cách này là 12.8% [59].
1.1.3 Tình hình nghiên cứu ởViệt Nam
1.1.3.1Nghiên cứu hành vi khen và tiếp nhận lời khen ở Việt Nam
Khen là một động từ thường dùng trong tiếng Việt, vì thế, từ góc nhìn hệ
thống - cấu trúc, động từ khen thường được đề cập đến trong những công trình
nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt của các tác giả như Nguyễn Kim Thản, Diệp
- 11 -


Quang Ban,… những công trình về từ vựng ngữ nghĩa như của Nguyễn Văn Tu,
Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp,… và một số luận văn, luận áncó liên quan. Ví
dụ, luận văn thạc sĩ của Lê Thị Thu Hoa (1996) “Cấu trúc nghĩa của động từ nói
năng “khen”, “tặng”, “chê”. Khi ngữ dụng học được nghiên cứu ở Việt Nam, khen
được nghiên cứu với tư cách là một hành vi ngôn ngữ. Một số bài viết, công trình
nghiên cứu về ngữ dụng học trên cứ liệu của tiếng Việt đã đề cập đến hành vi khen.
Điều cần nhấn mạnh là, cả 4 công trình này đều nghiên cứu hành vi khen và hồi
đáp khen theo hướng đối chiếu với tiếng Anh/Anh Mĩ.
Thứ nhất, luận văntiến sĩ của Nguyễn Quang (1999) về “Một số khác biệt
giao tiếp lời nói Việt - Mỹ trong cách thức khen và tiếp nhận lời khen”, luận văn
này chú trọng tới yếu tố văn hóa và xuyên văn hóa trong lời khen và tiếp nhận lời
khen giữa hai dân tộc Việt - Mĩ. Trên cơ sở điều tra thực tế 100 phiếu tiếng Việt và
100 phiếu tiếng Anh, luận vănđã đưa ra được các mô hình cũng như những nhận
xét đáng chú ý. Chẳng hạn, theo tác giả, hành vi khen thường phải thỏa mãn hai
điều kiện là không làm mất thể diện của người được khen và cũng không đe dọa
thể diện của chính mình; cách thức tiếp nhận lời khen phụ thuộc nhiều vào thông
số của đối tượng được khen như quan hệ giữa đối tượng khen và đối tượng được
khen,chủ đề khen, ngữ cảnh khen, các yếu tố cận ngôn và phi lời nói đi kèm, ngôn
ngữ vật thể. Theo tác giả Nguyễn Quang, chủ đề khen gồm bốn nhóm: dáng vẻ bề
ngoài; điều kiện kinh tế, cuộc sống vật chất; cuộc sống tinh thần, khả năng trí tuệ,
thăng tiến sự nghiệp; giao tiếp xã hội [25]; Các chiến lược người Việt tiếp nhận

lời khen gồm: khẳng định, phủ định, lảng tránh, phân vân, khen phản hồi, phản
- 12 -


ứng lồng ghép, im lặng [25].
Thứ hai, “Về cách thức khen và tiếp nhận lời khen trong phát ngôn Việt và
Mĩ” [8], tác giả Hồ Thị Kiều Oanh đã lấy khen làm điểm xuất phát để đối chiếu.
Theo tác giả, “người Việt và người Mĩ có thể khen bất cứ ai nói chuyện với mình
(từ người bạn rất thân cho đến người mới quen) về nhiều lĩnh vực khác nhau như:
dáng vẻ bề ngoài, điều kiện kinh tế, cuộc sống vật chất, khả năng trí tuệ, kĩ năng,
năng khiếu, sự hoàn thành công việc, nhiệm vụ và thuật giao tiếp xã hội, v.v. [23].
Tác giả đã tiến hành đối chiếu và chỉ ra một số nét khác biệt về hành vi khen, hồi
đáp khen giữa hai nền văn hóa Mĩ - Việt theo 5 nhóm: khen và hồi đáp khen về
dáng vẻ bề ngoài; khen và hồi đáp khen về điều kiện kinh tế, cuộc sống vật chất;
khen và hồi đáp khen về khả năng trí tuệ, kĩ năng, năng khiếu; khen và hồi đáp
khen về sự hoàn thành công việc, nhiệm vụ; khen và hồi đáp khen trong xã giao.
Thứ ba, “Cách đáp lại lời khen trong tiếng Anh và tiếng Việt trên bình diện
hội thoại”, tác giả Kiều Thị Thu Hương đã xuất phát từ lí thuyết phân tích hội
thoại để lần lượt khảo sát cách đáp lại lời khen trong tiếng Anh và cách đáp lại lời
khen trong tiếng Việt; cấu trúc tán thành hạ ngôn; giảm nhẹ mức độ khen; chuyển
đối tượng khen; khen lại; phủ nhận lời khen. Từ sự mô tả ấy, bài viết chỉ ra những
tương đồng và khác biệt cơ bản trong hành vi hồi đáp khen giữa tiếng Anh và
tiếng Việt [13].
Thứ tư, luận văntiến sĩ của Trần Kim Hằng (2011) về “Văn hóa ứng xử của
người Việt và người Anh: những cặp thoại phổ biến (khen và hồi đáp khen)”, đã
thực hiện trên cơ sở hội thoại tự nhiên của người Mĩ và người Việt Nam. Luận
- 13 -


vănkhảo sát hành vi khen và hồi đáp khen của người Mĩ và người Việt Nam được

phân theo các nhóm xã hội như vùng miền, tuổi tác, học vấn, giới tính. Điểm đáng
chú ý của luận vănnày là tác giả đưa ra được nhiều mô hình khen - hồi đáp khen,
việc sử dụng ngôn từ trong đó cũng như bổ sung thêm về lí thuyết. Chẳng hạn,
theo tác giả, về mục đích khen, ngoài những nội dung mà các tác giả phương Tây
đưa ra như đã nêu ở trên, hành vi khen còn có những mục đích như: thể hiện sự
khiêm tốn, nhường nhịn; bày tỏ sự ăn năn, hối hận; để khuyên, dạy; để từ chối lời
đề nghị; để đối phó với những tình huống không hay, nhằm cải thiện tình
hình,…[7].
1.1.3.2Nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và giới tính ở Việt Nam
Về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và giới tính ở Việt Nam cũng đ ã sớm được
chú ý [29], tuy nhiên, theo Nguyễn Thị Thanh Bình (2003), người đặt vấn đề và
nghiên cứu một cách có hệ thống phải kể đến tác giả Nguyễn Văn Khang, trong
bài “Sự bộc lộ giới tính trong giao tiếp ngôn ngữ (trên cứ liệu gia đình người
Việt-1996) ”, Nguyễn Văn Khang cho rằng: “yếu tố giới tính là sự tồn tại có thực
trong giao tiếp ngôn ngữ. Nó tồn tại từ hai chiều: chiều tác động của giới tính đến
việc lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ để giao tiếp và chiều thông qua giao tiếp
thì giới tính được bộc lộ” [14, tr187]. Vấn đề này đã được tác giả trình bày một
cách hệ thống thành một chương và chuyên sâu tại ba cuốn sách về Ngôn ngữ học
xã hội [15,16,17].
Từ đó đến nay, cùng với sự phát triển của các chuyên ngành ngôn ngữ học xã
hội, ngữ dụng học, ngôn ngữ học nhân chủng ở Việt Nam, vấn đề về mối tương
- 14 -


quan ngôn ngữ và giới tính đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả
với tư liệu là tiếng Việt hoặc đối chiếu giữa tiếng Việt với các ngôn ngữ khác. Có
thể chỉ ra một số hướng nghiên cứu chính như sau:
Thứ nhất, coi giới tính là một nhân tố tác động đến giao tiếp, các công trình
nghiên cứu trên cơ sở của tư liệu tiếng Việt hoặc theo hướng đối chiếu (tiếng Việt
với các ngôn ngữ khác) đã chỉ ra tác động của giới tính đối với giao tiếp ngôn ngữ

của người Việt:
– Nghiên cứu vấn đề lịch sự gắn với yếu tố giới: Vũ Thị Thanh Hương
“Giới tính và lịch sự” [10]; Vũ Tiến Dũng “Lịch sự trong tiếng Việt và giới tính
(qua một số hành động nói)”[3].
– Nghiên cứu sự bộc lộ giới tính trong ngôn ngữ theo sự phát triển của lứa
tuổi: Nguyễn Thị Thanh Bình (2000) “Xưng và gọi: bằng chứng về giới trong
ngôn từ của trẻ em trước tuổi đến trường ở Hà Nội và Hoài Thị” [1], “Một số
khuynh hướng nghiên cứu về mối liên hệ giới và sự phát triển ngôn ngữ ở trẻ em”
[2].
– Nghiên cứu giao tiếp tiếng Việt của người Việt dưới tác động của nhân tố
giới có: Hoàng Thị Sâm “Đặc điểm lời thoại nhân vật nữ trong truyện ngắn
Nguyễn Thi” [26]; Nguyễn Đức Thắng “Về giới và ngôi ở những từ xưng hô
trong giao tiếp tiếng Việt” [28]; Hoàng Thị Tưới “Đặc điểm ngôn ngữ giới tính
qua hình thức các cặp hỏi – đáp trong một số truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp
và Nguyễn Thị Thu Huệ” [30],.. cùng nhiều khóa luận ngôn ngữ khác. Đáng chú
ý là 2 luận văntiến sĩ c ủa: Nguyễn Thị Mai Hoa “Đặc điểm ngôn ngữ giới tính
- 15 -


trong hát phường vải Nghệ Tĩnh ” [9] và Trần Thanh Vân “Đặc trưng giới tính
biểu hiện cuộc thoại mua bán ở chợ Đồng Tháp” [16].
– Nghiên cứu về sự tác động của yếu tố giới tới tư duy ngôn ngữ có Nguyễn
Trà My “Tác động của nhân tố giới tính đến sự sử dụng ngôn ngữ và tư duy của
người Việt khảo sát trên đối tượng là sinh viên” [21].
– Nghiên cứu yếu tố giới được phản ánh trong thành ngữ tiếng Việt từ góc
nhìn ngôn ngữ học nhân chủng là một phần nội dung luận văntiến sĩ của Trần Thị
Hồng Hạnh [8].
– Nghiên cứu đối chiếu sự tác động của nhân tố giới tới sử dụng ngôn ngữ
giữa tiếng Việt với các ngôn ngữ khác. Ví dụ: Đỗ Thu Lan (2006), “Tác động của
nhân tố giới tính đối với việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp (trên cứ liệu ngữ

khí từ tiếng Hán và việc chuyển dịch chúng sang tiếng Việt) [33], Đại học Quốc
gia Hà Nội; Nguyễn Thị Việt Thanh (1999), “Hiện tượng phân biệt giới tính của
người sử dụng ngôn ngữ trong tiếng Nhật” [27].
Thứ hai, nghiên cứu quan niệm về giới cũng như sự kì thị về giới nữ được
thể hiện trong ngôn ngữ và qua đó góp phần vào việc kế hoạch hóa ngôn ngữ
chống kì thị, tạo ra sự bình đẳng về giới. Ví dụ: Đỗ Thị Kim Liên “Trường ngữ
nghĩa biểu hiện quan niệm về giới nữ trong tục ngữ Việt” [19], Nguyễn Văn
Khang “Kế hoạch hóa ngôn ngữ về chống kì thị giới tính” [15], Nguyễn Văn
Khang “Xã hội học ngôn ngữ về giới: Kỳ thị và kế hoạch hóa ngôn ngữ chống kì
thị đối với giới nữ trong việc sử dụng ngôn ngữ” [16], Trần Xuân Điệp “Sự kỳ thị
giới tính trong ngôn ngữ qua cứ liệu tiếng Anh và tiếng Việt” [4], Quang Minh,
- 16 -


“Thêm một cách nhìn về một số biểu hiện của sự kỳ thị giới tính trong việc sử
dụng tiếng Việt” [20].
Có thể nói, trên cơ sở lí thuyết về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và giới cùng
các nội dung đặt ra trong nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và giới, giới
ngôn ngữ học Việt Nam đã có đóng góp, một mặt từ tư liệu tiếng Việt để khẳng
định biểu hiện của giới trong ngôn ngữ và tác động của nhân tố giới đến việc sử
dụng ngôn ngữ, mặt khác, góp phân đi sâu, bổ sung thêm những nhận xét về mối
quan hệ này.
1.2 Cơ sở lý thuyết liên quan đến luận văn
1.2.1 Xung quanh thuật ngữ “giới tính” và “giới”
1.2.1.1Từ “giới tính”, “giới” trong đời sống xã hội
Xung quanh hai thuật ngữ “giới tính”, “giới” và mối quan hệ giữa chúng
hiện có những quan niệm như sau:
Giới tính: Khi một đứa trẻ chào đời, một trong những câu hỏi đầu tiên
thường được đặt ra, đó là “con trai hay con gái? ”. Đây chính là giới tính. Trong
tiếng Việt, giới tính được hiểu là “những đặc điểm chung phân biệt nam với nữ,

giống đực với giống cái, nói tổng quát” [24]. Trong các mối quan hệ xã hội, có thể
nói, cùng với tuổi tác, nghề nghiệp, giáo dục,... giới tính là một trong những yếu
tố được quan tâm và thường được quan tâm trước hết (như trong hồ sơ lí lịch, hộ
chiếu, chứng minh thư, các tờ khai,...).
Giới: Trong tiếng Việt, giới được hiểu là “những lớp người trong xã hội được
phân theo một đặc điểm rất chung nào đó như về nghề nghiệp, địa vị xã hội” [24].
- 17 -


Tuy định nghĩa này mới chỉ nhắc đến nghề nghiệp, địa vị xã hội, nhưng cách dùng
của nó có thể hiểu là còn có thể có những sự phân chia khác nữa, chẳng hạn như
giới tính, đó là cách gọi: giớinam/giới nam, giới nữ/giới nữ.
Trong tiếng Hán có hai từtương đương với giới tính (性别) và giới (性). 性
别(giới tính) được giải thích là phân biệt đực hay là cái, thường chỉ giới nam và
giới nữ.性 (giới) được giải thích là:
a. Sự biểu thị năng lực và tác dụng của người và sự vật bản thân, ví dụ: 性
格(tính cách),属性(thuộc tính).
b. Sự biếu thị tính chất, tư tưởng, tình cảm vv, ví dụ: 典型性(tính tiêu biểu).
c. Sự biểu thị phạm vi ngữ phát của danh từ hay đại từ tính từ.
d. Sự biểu thị sinh dục của động vật,ví dụ: 性交(tính giao).
e. Sự phân chia về giới tính nam nữ và giống đực giống cái, ví dụ: 性别
(giới tính).
1.2.1.2Giới với tư cách là một thuật ngữ chuyên ngành
Vào cuối những năm 60 của thế kỉ XX, ở các nước nói tiếng Anh xuất hiện
một ngành khoa học về gender (giới), sau đó lan toả sang các quốc gia khác. Ở
Việt Nam, ngành khoa học này bắt đầu được chú ý vào những năm 80 của thế kỉ
XX. Giới được quan niệm như sau: “Giới là một thuật ngữ để chỉ vai trò xã hội,
hành vi ứng xử xã hội và những kì vọng liên quan đến nam và nữ.” [5]; “Giới là sự
tập hợp các hành vi học được từ xã hội và những kì vọng về các đặc điểm và năng
lực cần được cân nhắc nhằm xác định thế nào là một giớinam hay một phụ nữ

(hoặc một cậu bé hay một cô bé) trong một xã hội hay một nền văn hóa nhất định”
- 18 -


×