Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Áp dụng pháp luật trong việc xác định tài sản riêng của vợ, chồng (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (691.76 KB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ QUYỀN

ĐỀ TÀI
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG VIỆC
XÁC ĐỊNH TÀI SẢN RIÊNG CỦA VỢ, CHỒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ QUYỀN

ĐỀ TÀI
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG VIỆC
XÁC ĐỊNH TÀI SẢN RIÊNG CỦA VỢ, CHỒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự


Mã số: 60380103

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Ngô Thị Hƣờng

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn theo đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Quyền


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN RIÊNG
CỦA VỢ, CHỒNG ....................................................................................................7
1.1 Khái niệm chế độ tài sản riêng của vợ, chồng .................................................7
1.1.1 Định nghĩa chế độ tài sản của vợ chồng ......................................................7
1.1.2. Các loại chế độ tài sản của vợ chồng ..........................................................9
1.2. Tài sản riêng của vợ, chồng ..........................................................................10
1.2.1 Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng pháp luật xác định tài sản
riêng của vợ, chồng .............................................................................................10
1.2.1.1 Cơ sở lý luận ............................................................................................10
1.2.1.2 Cơ sở thực tiễn .........................................................................................14

1.2.2 Đặc điểm của chế độ tài sản riêng của vợ, chồng......................................15
1.2.3. Ý nghĩa của chế độ tài sản riêng của vợ, chồng ........................................17
Kết luận chƣơng 1 ...................................................................................................20
CHƢƠNG 2 CĂN CỨ PHÁP LUẬT ĐỂ XÁC ĐỊNH CHẾ ĐỘ TÀI SẢN
RIÊNG CỦA VỢ, CHỒNG ....................................................................................21
2.1. Tài sản riêng của vợ, chồng ..........................................................................21
2.1.1. Tài sản mỗi bên vợ, chồng có từ trước khi kết hôn ...................................21
2.1.2. Tài sản vợ, chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ
hôn nhân ..............................................................................................................22
2.1.3. Tài sản đáp ứng nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng .....................................23
2.1.4. Tài sản mà vợ, chồng được chia khi chia tài sản chung của vợ, chồng
trong thời kỳ hôn nhân .........................................................................................25
2.1.5 Tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng vợ, chồng
.............................................................................................................................27
2.2. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng ................................................30
2.2.1. Chiếm hữu tài sản riêng của vợ, chồng ....................................................30
2.2.2. Sử dụng tài sản riêng của vợ, chồng .........................................................32
2.2.3.Định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng .......................................................33


2.3. Thực hiện nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng ......................................36
Kết luận chương 2 ....................................................................................................41
CHƢƠNG 3 THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG VIỆC XÁC
ĐỊNH TÀI SẢN RIÊNG CỦA VỢ, CHỒNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ.........42
3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc xác định tài sản riêng của vợ, chồng.
.............................................................................................................................42
3.1.1. Áp dụng chế độ tài sản riêng của vợ, chồng trong thực tiễn xét xử ..........42
3.1.1.1. Một số vụ án về tranh chấp tài sản riêng của vợ, chồng........................42
3.1.1.2. Xác định tài sản riêng của vợ chồng sau khi quan hệ hôn nhân đã kết thúc. ..50
3.1.1.3. Áp dụng tập quán để xác định tài sản riêng của vợ, chồng ...................56

3.1.2. Áp dụng chế độ tài sản riêng của vợ chồng thông qua hoạt động công
chứng tại các văn phòng công chứng ..................................................................60
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật tăng cường hiệu quả áp dụng
pháp luật về xác định chế độ tài sản riêng của vợ, chồng ...................................67
3.2.1. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chế độ tài sản riêng của
vợ, chồng..............................................................................................................67
3.2.1.1. Quy định về căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chông ......................67
3.2.1.2. Xác định tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân ..............69
3.2.1.3. Xác định tài sản riêng của vợ, chồng khi ly hôn ....................................70
3.2.1.4. Xác định tài sản riêng của vợ, chồng khi vợ hoặc chồng chết ...............71
3.2.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về chế độ tài
sản riêng của vợ, chồng .......................................................................................72
3.2.2.1. Nâng cao chất lượng xét xử ....................................................................72
3.2.2.2. Nâng cao hoạt động công chứng ............................................................73
3.2.2.3. Đăng ký tài sản thuộc sở hữu chung ......................................................75
3.2.2.4. Nâng cao chất lượng tuyên truyền, phổ biến sâu rộng pháp luật hôn
nhân và gia đình ..................................................................................................75
Kết luận chương 3 ....................................................................................................77
KẾT LUẬN ..............................................................................................................78
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Lịch sử phát triển của xã hội loài người cho thấy gia đình là tế bào của xã
hội. Trong mỗi một giai đoạn phát triển, tính chất, kết cấu của gia đình có thể khác
nhau. Tuy nhiên, các chức năng cơ bản của gia đình vẫn không đổi đó là chức năng
sinh đẻ, chức năng giáo dục và chức năng kinh tế. Chức năng kinh tế có vai trò quan

trọng trong việc đảm bảo sự phát triển của mỗi gia đình nói riêng và của toàn xã hội
nói chung. Bởi vậy, bên cạnh việc điều chỉnh quan hệ nhân thân, pháp luật về hôn
nhân và gia đình cũng dành nhiều quy định điều chỉnh quan hệ tài sản giữa các
thành viên gia đình; giữa thành viên gia đình với các chủ thể khác trong xã hội.
Cùng với sự phát triển của xã hội, vợ, chồng ngày càng có nhu cầu thực hiện các
hoạt động kinh tế độc lập, khẳng định quyền tự do định đoạt đối với tài sản thuộc sở
hữu của riêng mình.
Tuy nhiên, quy định về chế độ tài sản của vợ, chồng tại các quốc gia trên thế
giới và tại Việt Nam trong các giai đoạn là rất khác nhau. Nhiều quốc gia trên thế
giới quy định chế độ tài sản pháp định mang tính chất thay thế trong trường hợp vợ
chồng không có thỏa thuận bằng hôn ước (không có khế ước hôn nhân), hoặc quy
định vợ chồng có thể lựa chọn chế độ tài sản áp dụng cho họ, như pháp luật của các
nước Pháp, Nhật Bản, Thái Lan… Tại Việt Nam, chế độ tài sản của vợ chồng đã có
nhiều thay đổi, từ quy định tài sản trong gia đình chủ yếu là tài sản của người chồng
trong pháp luật phong kiến, đến việc không thừa nhận vợ chồng có tài sản riêng
trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, cho đến chế độ tài sản của vợ chồng
sau khi kết hôn là tài sản chung (chế độ cộng đồng tạo sản) trong pháp luật hôn
nhân và gia đình từ năm 1986 đến nay. Pháp luật điều chỉnh chế độ tài sản của vợ
chồng vừa mang tính khách quan (phù hợp với thực tiễn quan hệ pháp luật về hôn
nhân), vừa thể hiện ý chí của Nhà nước trong việc định hướng xây dựng gia đình
bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
Sự ra đời của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 tại Việt Nam đã kế thừa
các quy định về tài sản chung - tài sản riêng có giá trị pháp lý về mặt thực tiễn trong


2
các văn bản về HN&GĐ tại Việt Nam từ trước đến nay, đồng thời đã bổ sung những
điểm còn thiếu, hoàn thiện một số quy định còn chưa cụ thể, nhưng cũng vẫn còn
nhiều điểm cần phải xem xét để điều chỉnh phù hợp hơn với thực tế quan hệ hôn
nhân tại Việt Nam. Đề tài “Áp dụng pháp luật trong việc xác định tài sản riêng

của vợ, chồng” là công trình nghiên cứu nhằm làm rõ hơn pháp luật hiện hành về
chế độ tài sản của vợ chồng, đánh giá kết quả đã đạt được, đưa ra những ưu điểm đã
đạt được trong quá trình áp dụng các quy định pháp luật về chế độ tài sản riêng của
vợ, chồng và những điểm yếu cần hoàn thiện khi áp dụng Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014 tại Việt Nam, kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện chế độ tài sản
riêng của vợ, chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thực tế, đề tài chế độ tài sản của vợ chồng là một trong những đề tài
được nghiên cứu tương đối phổ biến. Trong thời gian qua đã có nhiều công trình
nghiên cứu liên quan đến chế định tài sản riêng của vợ, chồng, bao gồm nhiều hình
thức như các luận án, luận văn, các giáo trình, các sách chuyên khảo về mặt pháp lý,
các bài tạp chí, các bài báo tại Việt Nam.
Nhóm các luận văn, luận án: Các công trình nghiên cứu tiêu biểu trong
nhóm này bao gồm: Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật hôn nhân và gia đình
Việt Nam (Nguyễn Văn Cừ, luận án tiến sĩ, 2005); Xác định chế độ tài sản của vợ
chồng - một số vấn đề lý luận và thực tiễn (Nguyễn Hồng Hải, luận văn thạc sĩ,
2002); Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam (Lã
Thị Tuyền, luận văn thạc sĩ, 2014), Phân chia tài sản chung của vợ chồng theo Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014 (Nguyễn Thị Huyền, luận văn thạc sỹ, 2016)…
Các công trình này hoặc có phạm vi nghiên cứu rộng, đề cập đến nhiều khía cạnh
khác nhau trong vấn đề tài sản vợ chồng, hoặc chỉ giải quyết một khía cạnh nhỏ
trong chế định chia tài sản chung của vợ chồng. Cũng đã có công trình nghiên cứu
gần như toàn diện về chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình
Việt Nam, nhưng thực sự chưa bắt kịp sự thay đổi và luôn chuyển biến của chế độ
tài sản vợ chồng, hay cụ thể hơn, chưa chỉ ra được những điểm cần thiết đối với chế
độ tài sản riêng của vợ, chồng tại Việt Nam hiện nay.


3
Nhóm sách giáo trình, sách chuyên khảo: Trong nhóm này có thể kể đến

một số công trình tiêu biểu như: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật HN&GĐ
năm 2000 (Nguyễn Văn Cừ - Ngô Thị Hường, 2002, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội); Bình luận khoa học Luật HN&GĐ Việt Nam (Nguyễn Ngọc Điện, 2002, Nxb
Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh), Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn
nhân và gia đình Việt Nam (Nguyễn Văn Cừ, Nxb Tư pháp, 2008), Giáo trình Luật
Hôn nhân và gia đình Việt Nam (Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân
dân, 2014), Hướng dẫn học tập - tìm hiểu Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
(Tiến sĩ Ngô Thị Hường, Tiến sĩ Nguyễn Thị Lan, Tiến sĩ Bùi Thị Mừng, Nxb Lao
động, 2015) ... Trong các cuốn sách trên, việc áp dụng pháp luật trong chế độ tài sản
của vợ chồng đã được nghiên cứu một cách tổng thể, đã phân định rõ chế định tài
sản riêng, chế định chia tài sản chung của vợ chồng, nhưng về cơ bản vẫn chỉ dừng
ở mức độ phân tích một cách chung chung, có tính chất tổng quát, chứ không phân
tích một cách chuyên sâu và cụ thể, chưa thể nêu hết tất cả những điểm bất cập của
việc áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và các văn bản hướng dẫn đối
với chế độ tài sản của vợ chồng.
Nhóm các bài viết trên các báo, tạp chí: Có thể kể đến một số bài như Bàn
thêm về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo pháp luật hôn
nhân gia đình hiện hành (Nguyễn Hồng Hải, 2003, Tạp chí Luật học, số 5); Hậu
quả pháp lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân (Nguyễn Phương
Lan 2002, Tạp chí Luật học, số 6), Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận
trong pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam (Nguyễn Văn Cừ, Tạp chí Luật học
số 4/2015); Một số vấn đề cơ bản về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
theo Luật Hôn nhân và gia đình và thực tiễn giải quyết (Thu Hương - Duy Kiên,
Tạp chí Tòa án nhân dân số 5,6/2013), Một số vấn đề liên quan về chia tài sản
chung (Đặng Mạnh Cẩm Yến, TAND quận Hai Bà Trưng - Thành phố Hà Nội, Tạp
chí Tòa án nhân dân số 10, 2013); Chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng liên
hệ từ pháp luật nước ngoài đến pháp luật Việt Nam (Bùi Minh Hồng - Tạp chí Luật
học số 11, 2009).



4
Các bài viết này thường phân tích rất sâu một vấn đề trong chế định tài sản
riêng hoặc chế định chia tài sản chung vợ chồng. Do tính chất của một bài viết
nghiên cứu, các tác giả chỉ đề cập đến một khía cạnh hoặc một trường hợp cụ thể
liên quan đến việc chia tài sản chung của vợ chồng mà không thể phân tích toàn
diện các khía cạnh của chế định này.
Khi đề cập đến các bài viết trên báo, tạp chí, các công trình luận văn, luận án
và các sách giáo trình, sách chuyên khảo, điểm cơ bản nhất có thể nhận thấy là các
tác giả đã thực hiện nghiên cứu dựa trên quy định của pháp luật về chế độ tài sản
của vợ chồng, từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá về mặt pháp lý đối với việc áp
dụng pháp luật nêu trên. Một số công trình nghiên cứu, cũng đã có dẫn chiếu, liên
hệ thực tiễn áp dụng một số quy định pháp luật. Tuy nhiên, sự liên hệ, phân tích đó
chỉ có tính chất minh họa cho một số trường hợp cụ thể mà chưa có sự soi chiếu
một cách tổng thể, toàn diện tất cả các khía cạnh của chế định tài sản của vợ chồng
vào thực tiễn. Do vậy, các công trình nghiên cứu trên so với đề tài của luận văn này
là hoàn toàn không có sự trùng lắp về mặt nội dung.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Luận văn “Áp dụng pháp luật trong việc xác định tài sản riêng của vợ,
chồng” có mục đích nghiên cứu cơ bản là chỉ ra những điểm còn chưa hoàn thiện
trong việc áp dụng pháp luật xác định tài sản riêng của vợ, chồng tại Việt Nam hiện
nay và đề xuất một số biện pháp hoàn thiện những vấn đề còn chưa đầy đủ, rõ ràng
tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, giải pháp đưa Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014 được áp dụng ở mức độ cao hơn trong cuộc sống thực tế.
Để đạt được mục đích trên, luận văn đề ra những nhiệm vụ cơ bản trong quá
trình nghiên cứu:
Một là, khái quát cơ sở lý luận và thực tiễn các quy định của pháp luật về chế
độ tài sản của vợ chồng, chế định tài sản riêng của vợ, chồng tại Việt Nam;
Hai là, phân tích quy định xác định tài sản riêng của vợ, chồng theo Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành, làm sáng tỏ các
vấn đề về cơ sở pháp lý, nguyên tắc xác định tài sản riêng của vợ, chồng theo Luật

Hôn nhân và gia đình năm 2014.


5
Ba là, đánh giá những điểm mới, thành tựu đạt được trong việc áp dụng quy
định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 so với quá trình áp dụng pháp luật
hôn nhân và gia đình tại Việt Nam trước đây, chỉ rõ những điểm hạn chế, chưa hoàn
thiện và đề xuất giải pháp khắc phục các điểm hạn chế đó đối với Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2014.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu luận văn “Áp dụng pháp luật trong việc xác định tài
sản riêng của vợ, chồng” là nghiên cứu việc áp dụng các quy định pháp luật về xác
định tài sản riêng của vợ, chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình hiện hành theo
chế độ tài sản luật định, đánh giá những khó khăn, vướng mắc còn phát sinh, qua đó
phân tích và đưa ra một số nguyên nhân chính làm giảm hiệu quả áp dụng pháp luật
về chế độ tài sản riêng của vợ, chồng trên thực tế. Luận văn có nêu một số vấn đề
theo chế độ tài sản thỏa thuận nhưng chỉ dừng lại ở nghiên cứu cơ bản.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết các yêu cầu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên cứu luận
văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của Chủ nghĩa Mác - Lê nin;
- Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp bình luận,
phương pháp quy nạp, phương pháp xã hội học.
6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn “Áp dụng pháp luật trong việc xác định tài sản riêng của vợ,
chồng” có một số điểm mới như sau:
- Khái quát một số vấn đề lý luận về chế độ tài sản của vợ chồng, về tài sản
riêng của vợ, chồng, về điểm mới trong pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam
khi xác định tài sản riêng của vợ, chồng.

- Đưa ra và đánh giá vụ việc cụ thể về việc áp dụng pháp luật xác định tài sản
riêng của vợ, chồng tại Việt Nam, chỉ ra được những thuận lợi, vướng mắc khi áp
dụng pháp luật hiện hành để xác định tài sản riêng của vợ, chồng.
- Phân tích và chỉ ra một số điểm hạn chế cũng như kiến nghị giải pháp áp
dụng trên thực tế để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật, tiến tới hoàn thiện quy


6
định pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng song song với mức độ phát triển của
quan hệ hôn nhân và gia đình tại Việt Nam.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Về mặt khoa học, luận văn “Áp dụng pháp luật trong việc xác định tài sản
riêng của vợ, chồng” đã tổng hợp lại một số vấn đề lý luận về tài sản riêng của vợ,
chồng, tổng hợp lại các quy định của pháp luật Việt Nam về tài sản riêng của vợ,
chồng, từ đó đánh giá những thành tựu đã đạt được cũng như chỉ ra những mặt hạn
chế, đưa ra một số giải pháp để khắc phục những hạn chế đó. Do vậy, luận văn “Áp
dụng pháp luật trong việc xác định tài sản riêng của vợ, chồng” có thể là tài liệu
để tham khảo cho các công trình nghiên cứu khác có cùng nội dung, cũng như có
thể là một phần đóng góp trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật Việt
Nam khi quy định về chế độ tài sản riêng của vợ, chồng và là tài liệu nghiên cứu,
học tập...
Về mặt thực tiễn, luận văn “Áp dụng pháp luật trong việc xác định tài sản
riêng của vợ, chồng” sẽ là tài liệu quan trọng đối với người dân Việt Nam, đặc biệt
là các cặp vợ chồng (hoặc sẽ là vợ chồng trong tương lai) khi muốn tìm hiểu pháp
luật Việt Nam hiện đang quy định những gì về chế độ tài sản của vợ chồng, nắm rõ
quy định về quyền và nghĩa vụ của vợ hoặc của chồng đối với tài sản riêng của họ
trong và sau thời kỳ hôn nhân. Từ đó, luận văn “Áp dụng pháp luật trong việc xác
định tài sản riêng của vợ, chồng” sẽ góp phần phổ biến pháp luật một cách sâu
rộng hơn, góp phần không nhỏ trong định hướng xây dựng gia đình Việt Nam dân
chủ, hòa thuận, hạnh phúc, bền vững; là tài liệu tham khảo đối với những người làm

công tác thực tiễn như luật sư, thẩm phán...
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận về chế độ tài sản riêng của vợ, chồng theo
pháp luật Việt Nam
Chương II: Chế độ tài sản riêng của vợ, chồng theo Luật Hôn nhân và gia
đình hiện hành
Chương III: Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị hoàn thiện chế độ tài sản
riêng của vợ, chồng


7
CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN RIÊNG CỦA VỢ, CHỒNG
1.1 Khái niệm chế độ tài sản riêng của vợ, chồng
1.1.1 Định nghĩa chế độ tài sản của vợ chồng
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và các văn bản hướng dẫn đã thể hiện
quan điểm lập pháp của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong việc
điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Cụ thể là quan
hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và các con, giữa
những người thân thích ruột thịt khác và giữa các chủ thể nêu trên với người thứ ba
ngay tình, nhằm hướng tới việc xây dựng và duy trì một nền tảng gia đình tốt trên
cơ sở sự tự nguyện, bình đẳng giữa các chủ thể tham gia. Trong đó, yếu tố tài sản đã
thể hiện rõ tầm quan trọng của mình, khi từ tài sản riêng của các cá nhân khác nhau,
đã chuyển đổi thành tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng. Chế định điều
chỉnh chế độ tài sản của vợ chồng chính là một trong những chế định quan trọng và
cơ bản nhất của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và các văn bản hướng dẫn.

Khi đề cập đến vấn đề chế độ tài sản của vợ chồng, trước tiên, cần xác định
tài sản theo quy định của pháp luật Việt Nam. Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật
Dân sự năm 2015, tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Ngoài ra,
khoản 2 Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng xác định: "Tài sản bao gồm bất
động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản
hình thành trong tương lai”.
Thứ hai, cần xác định chủ thể của chế độ tài sản của vợ chồng. Theo quy
định tại khoản 5 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014, "Kết
hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật
này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn". Xét về chủ thể của quan hệ sở hữu
trong chế độ tài sản này, thì các bên phải có quan hệ hôn nhân hợp pháp với tư cách
là vợ chồng của nhau. Do vậy, để trở thành chủ thể của quan hệ sở hữu này, các chủ


8
thể ngoài việc có đầy đủ năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự còn đòi
hỏi họ phải tuân thủ các điều kiện kết hôn được quy định trong pháp luật hôn nhân
và gia đình, nhằm chung sống với nhau và xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến
bộ, hạnh phúc và bền vững.
Về định nghĩa, chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp
luật điều chỉnh về (sở hữu) tài sản của vợ chồng, bao gồm các quy định về căn cứ
xác lập tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng;
các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản giữa vợ và chồng theo luật định. Việc xác
định chế độ tài sản của vợ chồng tạo điều kiện định hướng hành vi ứng xử của vợ
chồng đối với tài sản, là cơ sở pháp lý để vợ chồng thực hiện các quyền và nghĩa vụ
của mình và là cơ sở để đảm bảo nhu cầu đời sống chung của vợ chồng, của các
thành viên trong gia đình và là căn cứ để phân định quyền lợi giữa vợ chồng và bên
thứ ba.
Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, có hai loại chế độ
tài sản của vợ chồng, bao gồm chế độ tài sản theo thỏa thuận và chế độ tài sản theo

quy định của pháp luật (khoản 1 Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014).
Trong đó, chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định được thực hiện theo quy định tại
các điều từ Điều 33 đến Điều 46 và từ Điều 59 đến Điều 64 của Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được thực hiện theo quy
định tại các điều 47, 48, 49, 50 và 59 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, và các
quy định tại các điều 29, 30, 31 và 32 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 được
áp dụng không phụ thuộc vào chế độ tài sản mà vợ chồng đã lựa chọn.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 là đạo luật đầu tiên của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho phép vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ
tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận, đánh dấu bước chuyển
biến quan trọng trong quan điểm lập pháp của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam về chế độ tài sản của vợ chồng. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng đã
quy định các nguyên tắc chung áp dụng cho chế độ tài sản theo thỏa thuận và chế độ
tài sản theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ
chồng, của các thành viên trong gia đình và của người thứ ba ngay tình.


9
1.1.2. Các loại chế độ tài sản của vợ chồng
Luật hôn nhân và gia đình 2014 đã chú trọng thay đổi những quy định về chế
độ tài sản của vợ chồng gồm có hai loại chế độ tài sản của vợ chồng. Đó là chế độ
tài sản theo luật định và chế độ tài sản theo thỏa thuận.
- Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định được quy định tại các điều từ 33
đến 46 và từ điều 59 đến điều 64 của Luật hôn nhân và gia đình 2014. Trong chế độ
tài sản của vợ chồng theo luật định có quy định tài sản chung của vợ chồng, tài sản
riêng của vợ chồng, ngoài ra còn có quy định về việc chia tài sản chung trong thời
kỳ hôn nhân hoặc thỏa thuận nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung.
Điểm cần lưu ý đó là tài sản của vợ chồng nếu không phải là tài sản riêng thì
thường được xem là tài sản chung, nếu trong trường hợp không có căn cứ để chứng
minh tài sản mà vợ chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản

đó được coi là tài sản chung (tài sản riêng bao gồm tài sản mà họ có trước khi kết
hôn, thừa kế riêng, tặng cho riêng, và tài sản riêng khác). Nếu tài sản chung mà
pháp luật bắt buộc phải đăng ký thì phải ghi tên cả hai vợ chồng, nếu không ghi đầy
đủ cả tên của vợ và chồng thì nếu có tranh chấp, bên nào cho rằng đó là tài sản riêng
thì phải chứng minh.
Chế độ tài sản theo luật định quy định tài sản riêng khác của vợ chồng còn là
quyền tài sản đối với quyền sở hữu trí tuệ, tài sản mà vợ chồng xác lập quyền sở
hữu riêng theo bản án, quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền, khoản
trợ cấp, ưu đãi mà vợ chồng được nhận theo quy định pháp luật về ưu đãi người có
công với cách mạng, quyền tài sản gắn liền với thân nhân của vợ chồng.
- Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được quy định tại các điều 47,
48, 49, 50 và 59 của Luật hôn nhân và gia đình 2014. Đây có thể xem là quy định
hoàn toàn mới so với luật cũ. Luật mới thể hiện chế định này một cách rõ ràng hơn,
cụ thể vợ chồng có thể xác lập tài sản riêng từ trước khi kết hôn, bằng hình thức văn
bản có công chứng, chứng thực. Chế độ tài sản riêng của vợ, chồng theo thỏa thuận
được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn.


10
1.2. Tài sản riêng của vợ, chồng
1.2.1 Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng pháp luật xác định tài
sản riêng của vợ, chồng
1.2.1.1 Cơ sở lý luận
a) Cơ sở về quyền sở hữu tài sản riêng của cá nhân:
Trong kinh tế chính trị, sở hữu là một phạm trù cơ bản dùng để chỉ mối quan
hệ giữa người với người trong việc chiếm dụng của cải. Phạm trù sở hữu là hình
thức xã hội của sự chiếm hữu của cải, có thể được luật hóa thành quyền sở hữu và
được thực hiện theo cơ chế nhất định gọi là chế độ sở hữu. Trên thực tế, có nhiều
loại hình sở hữu khác nhau như: sở hữu tập thể, sở hữu Nhà nước, sở hữu cá nhân.
Về mặt pháp luật, quyền sở hữu bao gồm cả ba quyền sau đối với tài sản:

chiếm hữu, sử dụng và định đoạt, trong đó quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ tài
sản/tiêu sản trong tay, quyền sử dụng có thể hiểu là việc tự do sử dụng tài sản/tiêu
sản theo ý muốn, và quyền định đoạt là quyền quyết định cho mượn, cho thuê, bán,
cầm cố, thế chấp, phá hủy hoặc bất kỳ hình thức nào khác tác động lên tài sản.
Người chủ sở hữu (có thể là cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác) sẽ có đủ ba quyền:
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền quyết định tài sản. Trên thực tế, khi
người chủ sở hữu một tài sản nào đó cho tổ chức hoặc cá nhân khác mượn hoặc
thuê tài sản nào đó cho tổ chức hoặc cá nhân khác, cá nhân đó có hai quyền: quyền
chiếm hữu và quyền sử dụng, còn quyền định đoạt vẫn nằm trong tay của chủ sở
hữu. Theo đó, các tổ chức hoặc cá nhân này không có quyền định đoạt (như bán,
tặng, cho, để lại thừa kế, phá hủy…) đối với tài sản của người chủ sở hữu (là người
có tài sản cho thuê, cho mượn).
Tại Việt Nam, trải qua các giai đoạn từ thời kỳ phong kiến cho đến nay, bên
cạnh việc sở hữu công, quyền sở hữu tài sản của cá nhân luôn được tôn trọng, bao
gồm cả tài sản là tư liệu lao động, tài sản có được do kinh doanh thương mại, hoa
lợi, lợi tức từ tài sản của cá nhân và bất kỳ hình thức tài sản nào khác. Bộ luật Hồng
Đức thời nhà Lê đã có một số điều khoản quy định rõ về việc thừa nhận chế độ
ruộng đất thuộc sở hữu cá nhân và bảo vệ như: Cấm xâm lấn ruộng đất của người


11
khác (Điều 357), cấm nhà quyền quý chiếm đoạt ruộng đất của lương dân (Điều
370); cấm tá điền tranh chấp ruộng đất của chủ (Điều 356); cấm bán trộm ruộng đất
của người khác (Điều 382). Quyền sở hữu cá nhân cũng được thừa nhận và bảo vệ
trong Hoàng Việt luật lệ thời nhà Nguyễn. Sau khi nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra đời, ngày 8/11/1946, bản Hiến pháp mới đã được thông qua thì các
nguyên tắc về quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong đó có quyền sở hữu
của công dân đã được pháp luật thừa nhận, do đó, quyền sở hữu tài sản riêng của cá
nhân đã trở thành quyền hiến định. Điều 12, Hiến pháp 1946 đã quy định “quyền tư
hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm”. Kế tiếp Hiến pháp năm 1946,

các bản Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992 và mới nhất là Hiến pháp năm
2013, quyền sở hữu tài sản của cá nhân được Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
bảo đảm, như khoản 2 Điều 32 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Quyền sở hữu tư
nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ". Do vậy, hệ thống pháp luật đang có
hiệu lực của Việt Nam phải cụ thể hóa Hiến pháp và bảo đảm sở hữu riêng của công
dân. Điều này được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam năm 2015 tại Mục 2 Chương XI, Phần thứ hai - Quyền sở hữu và quyền khác
đối với tài sản, từ Điều 163 đến Điều 170. Điều 205 và 206 Bộ luật Dân sự năm
2015 đã ghi nhận quyền sở hữu tài sản của cá nhân là một phần trong sở hữu riêng,
tài sản hợp pháp thuộc sở hữu riêng không bị hạn chế về số lượng, giá trị, cũng như
chủ sở hữu có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng nhằm
phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, sản xuất, kinh doanh và các mục đích khác
không trái pháp luật.
Theo luật định, sự kiện kết hôn không làm mất đi quyền sở hữu tài sản riêng
của người vợ và người chồng. Như vậy, việc quy định vợ chồng có tài sản riêng sẽ
tạo điều kiện thuận lợi để vợ chồng có thể sử dụng tài sản thuộc sở hữu riêng phục vụ
cho nhu cầu của mình với bất kỳ mục đích nào miễn là không trái pháp luật và đạo
đức xã hội mà không cần phải có sự đồng ý của người còn lại, phù hợp với quy định
bảo vệ quyền sở hữu tài sản riêng của cá nhân trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
b) Cơ sở về quyền bình đẳng của phụ nữ


12
Bình đẳng được coi là hòn đá tảng của hòa bình, ổn định, dân chủ và tiến bộ
xã hội. Tuy nhiên, trong lịch sử và ngày nay, ở hầu khắp các khu vực trên thế giới
vẫn tồn tại ba hình thức bất bình đẳng chủ yếu, đó là: bất bình đẳng về chủng tộc,
giai cấp và giới. Xét riêng về bình đẳng giới, cựu Tổng thư kí Liên Hợp Quốc B. Ga
- Li đã từng nhận định: “phụ nữ chiếm hơn một nửa nhân loại nhưng chưa có quốc
gia nào trên thế giới đối xử với phụ nữ một cách bình đẳng”. Ở Việt Nam, trong
suốt thời kỳ phong kiến, rồi đến thời kỳ Pháp thuộc, với quan niệm “trọng nam

khinh nữ”, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” đã làm cho địa vị của người phụ nữ
trong gia đình và xã hội hết sức thấp kém, thuyết “tam tòng” như sợi dây trói buộc
người phụ nữ, cuộc sống của họ bị phụ thuộc vào người cha, người chồng, thậm chí
là con trai. Họ không có bất cứ quyền hành nào ở gia đình và xã hội.
Cách mạng tháng Tám thành công đã đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong
lịch sử dân tộc ta. Nhân dân ta từ những người nô lệ lầm than trở thành những
người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Ngày 2/9/1945, tại quảng
trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt nhân dân cả nước đọc
Bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Người đã
mở đầu bản tuyên ngôn bằng câu nói bất hủ trích trong bản Tuyên ngôn độc lập Mỹ
1776: “tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng”. Đây chính là cơ sở lý
luận đầu tiên để khẳng định quyền bình đẳng của phụ nữ với nam giới.
Năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên được thông qua, trong đó, điều 9 quy
định: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”. Các bản hiến pháp
sau này của Nhà nước ta, dựa trên cơ sở kế thừa và phát triển Hiến pháp 1946 đều
quy định về quyền bình đẳng của phụ nữ. Hiến pháp 1959 quy định: “phụ nữ nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt
chính tri, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình” (Điều 24). Đến Hiến pháp 1980,
quyền bình đẳng của phụ nữ tiếp tục được ghi nhận trong điều 63: “phụ nữ và nam
giới có quyền ngang nhau về mọi mặt chính tri, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia
đình”. Hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) một lần nữa đã khẳng định
quyền bình đẳng của người phụ nữ khi quy định: “công dân nam và nữ có quyền


13
ngang nhau về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và gia đình. Nghiêm cấm
mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ…” (điều 63). Tại Hiến pháp năm 2013 bản hiến pháp đang có hiệu lực trên lãnh thổ Việt Nam, quyền bình đẳng của người
phụ nữ đã được ghi nhận tại Điều 26:
"1. Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo
đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới.

2. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện,
phát huy vai trò của mình trong xã hội.
3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới."
Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, nhằm cụ thể hóa Hiến pháp, Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014 đã quy định tại Điều 17 như sau: "Vợ, chồng bình đẳng
với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong việc thực
hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp, Luật này và
các luật khác có liên quan."
Nếu như trước đây, người phụ nữ không có vai trò gì trong gia đình và hoàn
toàn phụ thuộc vào người cha, người chồng hay con trai thì ngày nay, người phụ nữ
đã được xã hội nhìn nhận là có vai trò, địa vị bình đẳng như nam giới và được pháp
luật bảo vệ. Khái niệm bình đẳng ở đây được hiểu theo hai khía cạnh. Thứ nhất,
bình đẳng là sự ngang nhau về các quyền và nghĩa vụ trong gia đình. Thứ hai,
quyền bình đẳng còn được thể hiện ở việc hôn nhân không làm cho vợ chồng hòa
nhập về mặt tư cách pháp lý. Mỗi người với tư cách là cá thể độc lập đều có năng
lực pháp luật và năng lực hành vi riêng, được giữ lai lịch pháp lý riêng của mình,
không bị phụ thuộc hay triệt tiêu quyền và nghĩa vụ hay tên họ. Khác với quy định
pháp luật thời kỳ phong kiến và Pháp thuộc, nhằm thiết lập một trật tự gia đình,
trong đó, người chồng giữ vị trí chủ gia đình, giữ vị trí bảo hộ đối với người vợ, hạn
chế quyền tự do tham gia các giao dịch, ký kết hợp đồng của người phụ nữ khi đã
kết hôn; ngày nay, để giải phóng phụ nữ khỏi những bất công này, Đảng và Nhà
nước chủ trương xóa bỏ bất bình đẳng giữa vợ và chồng, thừa nhận, đề cao và bảo
vệ quyền lợi của người phụ nữ ở tất cả các lĩnh vực như nhân thân, tài sản, văn hóa,


14
chính trị…Muốn như vậy, trước hết cần phải bảo đảm quyền lợi về tài sản giữa vợ
chồng trong gia đình. Như vậy, cơ sở pháp lý quan trọng để ghi nhận quyền có tài
sản riêng của mỗi bên vợ chồng đó chính là sự ghi nhận quyền bình đẳng của người
phụ nữ đối với nam giới trong gia đình và xã hội trong Hiến pháp và các văn bản

luật khác, đặc biệt là tại Luật Hôn nhân và gia đình.
1.2.1.2 Cơ sở thực tiễn
Theo quy định tại khoản 1 Điều 35 Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam năm 2013: "1. Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và
nơi làm việc.". Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, với tư cách là công dân,
vợ, chồng trước khi kết hôn bằng sức lao động và nghề nghiệp của mình có thể tạo
ra được khối lượng tài sản lớn hoặc có thể tặng, cho, thừa kế riêng những tài sản có
giá trị như: xe máy, quyền sử dụng đất, nhà cửa… Những tài sản này được tạo lập
trước thời kỳ hôn nhân và không thể coi là tài sản chung của vợ chồng nếu không có
sự đồng ý của chủ sở hữu. Trước đây, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 chỉ quy
định một chế độ tài sản của vợ chồng, đó là tài sản chung hợp nhất. Điều đó là phù
hợp với điều kiện về phát triển kinh tế - xã hội thời bấy giờ; đáp ứng với sự nghiệp
giải phóng phụ nữ, nhằm xóa bỏ sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, bảo vệ quyền lợi
của người phụ nữ trong gia đình. Tuy nhiên, quy định như vậy đã dẫn đến một số
quan hệ hôn nhân được xác lập chỉ nhằm vào tài sản, tiền bạc của nhau chứ không
dựa trên cơ sở tình cảm, tình yêu tự nguyện nhằm xây dựng gia đình ấm no, hạnh
phúc. Để khắc phục tình trạng này, đồng thời để theo kịp với phong trào giải phóng
phụ nữ đang ngày càng phát triển, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, năm 2000
và mới nhất là Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định vợ chồng có quyền
có tài sản riêng.
Bên cạnh đó, việc quy định tài sản riêng sẽ giúp cho mỗi bên giải quyết tốt
vấn đề tế nhị như giúp đỡ bà con, bạn bè, đùm bọc người thân những lúc khó khăn
mà vẫn giữ vẹn toàn tình nghĩa vợ chồng, góp phần xây dựng gia đình hạnh phúc.
Thực tế cho thấy, nếu không quy định vợ chồng có quyền sở hữu tài sản riêng, đôi
khi vợ hoặc chồng muốn giúp đỡ gia đình, bạn bè của mình nhưng không được sự


15
đồng ý của người còn lại, dẫn đến tình trạng vợ chồng có mâu thuẫn, xích mích với
nhau. Đồng thời, việc ghi nhận tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng sẽ bảo đảm

quyền tự do thể hiện ý chí, quyền tự định đoạt của người chủ sở hữu tài sản khi để
lại thừa kế hay tặng, cho tài sản của mình.
Tại Điều 33 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Mọi người có quyền tự do kinh
doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm.". Khoản 1 Điều 44. về
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
đã quy định: "1. Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng
của mình; nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung." Trong một số
trường hợp, khi sử dụng tài sản riêng đối với công việc kinh doanh buôn bán, vợ
chồng cần phải chớp thời cơ để đạt hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên, liên quan tới “vốn
liếng” mà người vợ hoặc người chồng không đủ để dùng vào công việc đầu tư, kinh
doanh, buôn bán; khi sử dụng tài sản chung, phía người vợ hoặc người chồng kia lại
không đồng ý. Do đó, vợ chồng có quyền yêu cầu Tòa án hoặc tự thỏa thuận với
nhau chia tài sản chung để lấy tài sản riêng đó sử dụng vào mục đích kinh doanh
của mìn. Khi thua lỗ dẫn đến phá sản, trước hết người vợ hoặc chồng phải lấy tài
sản riêng của mình để chịu trách nhiệm về tài sản. Chỉ khi nào tài sản riêng không
đủ mới lấy tài sản của người đó trong khối tài sản chung để thực hiện nghĩa vụ. Như
vây, quyền lợi của mỗi bên vợ chồng cũng như của những người có liên quan được
bảo đảm.
Với sự phát triển của xã hội hiện nay, bên cạnh những mặt tích cực cũng
đang còn tồn tại những vấn đề tiêu cực, một trong số đó là tệ nạn xã hội ngày càng
gia tăng. Có nhiều gia đình, vợ hoặc chồng sa ngã vào các tệ nạn xã hội như: cờ
bạc, nghiện ma túy… dẫn đến phá tán tài sản. Khi tài sản riêng không đủ đáp ứng
các nhu cầu của họ, họ có thể lấy cả tài sản của người kia để tiêu dùng. Quy định vợ
chồng có quyền có tài sản riêng để nhằm bảo vệ lợi ích về tài sản của vợ hoặc
chồng, tránh bị người kia xâm hại…
1.2.2 Đặc điểm của chế độ tài sản riêng của vợ, chồng
Tài sản riêng của vợ chồng là một chế định quan trọng trong Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2014, cùng với chế định về chế độ tài sản chung của vợ, chồng tạo



16
nên một nền tảng pháp lý vững chắc cho các cặp vợ chồng sau khi kết hôn có thể
xác định tài sản chung và tài sản riêng, xác định các quyền và nghĩa vụ sẽ phải thực
hiện đối với tài sản chung và tài sản riêng. Do vậy, đặc điểm của tài sản riêng vợ
chồng bao gồm:
Thứ nhất, tài sản riêng của vợ,chồng là một chế định quan trọng để cá nhân
người vợ hoặc người chồng được pháp luật bảo vệ quyền sở hữu tài sản riêng của
mình, và quyền sở hữu tài sản riêng đó sẽ không bị thay đổi hay chịu thiệt hại từ
hành vi của người còn lại trong quan hệ vợ chồng, trừ những trường hợp pháp luật
đã quy định.
Thứ hai, về đối tượng chủ sở hữu đối với tài sản riêng của vợ, chồng, đương
nhiên người chủ sở hữu tại đây là người vợ hoặc người chồng trong thời kỳ hôn
nhân và quan hệ hôn nhân đó là hợp pháp theo quy định của Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014. Nếu người chủ sở hữu đó không phải là người vợ hoặc người chồng
của một quan hệ hôn nhân, thì những quan hệ liên quan đến tài sản riêng đó sẽ là
quan hệ dân sự giữa các chủ thể cá nhân với nhau, và chủ thể cá nhân này có thể là
bất kỳ đối tượng nào không phân biệt giới tính, tuổi tác, địa vị xã hội, .v.v. Quan hệ
liên quan đến tài sản khi đó sẽ có phạm vi rất rộng, không chỉ bị ảnh hưởng bởi
quan hệ vợ chồng, quan hệ gia đình mà còn bị ảnh hưởng bởi quan hệ kinh doanh,
quan hệ thừa kế hay rất nhiều sự ảnh hưởng khác.
Thứ ba, tài sản riêng của vợ, chồng là một trong những quy định thể hiện sự
tiến bộ của pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, thể hiện việc các nhà làm luật
tại Việt Nam đã hết sức coi trọng quyền bình đẳng giới của phụ nữ và quyền tự do
sở hữu cá nhân. Tuy nhiên, những quyền được coi trọng đó vẫn phải nằm trong
phạm vi kiểm soát của pháp luật. Tài sản riêng của người vợ phân biệt với tài sản
riêng của người chồng, các quyết định liên quan đến tài sản riêng chỉ bị giới hạn
trong một số trường hợp nhất định (như giới hạn về sự thống nhất của cả người vợ
và người chồng trong trường hợp hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng là nguồn
sống duy nhất của gia đình), tạo điều kiện và là cơ sở pháp lý để các cơ quan chức
năng có thể bảo đảm quyền và lợi ích của người phụ nữ trong quan hệ gia đình tại

Việt Nam.


17
Thứ tư, khác với tài sản chung của vợ chồng, theo pháp luật hôn nhân và gia
đình tại Việt Nam, tài sản riêng của vợ, chồng có một số giới hạn về căn cứ xác
định, về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản riêng, về thỏa thuận liên
quan đến tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân và các trường hợp thỏa thuận về tài
sản riêng trong thời kỳ hôn nhân sẽ bị Tòa án nhân dân có thẩm quyền tuyên vô
hiệu. Đây cũng là những quy định pháp luật cơ bản của Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014 về tài sản riêng của vợ, chồng có giá trị so sánh với những quy định khác
về tài sản chung của vợ chồng và các quy định về tài sản trong pháp luật dân sự tại
Việt nam.
1.2.3. Ý nghĩa của chế độ tài sản riêng của vợ, chồng
Sự phát triển của một quốc gia được đánh giá trên nhiều lĩnh vực, trong đó
có sự phát triển của hệ thống pháp luật đang được vận hành tại quốc gia đó và sự
phù hợp của hệ thống pháp luật hiện hành đối với mức độ phát triển về kinh tế - xã
hội, mức độ phù hợp đối với đời sống của người dân. Một quốc gia phát triển sẽ có
thể vận dụng pháp luật làm công cụ để định hướng người dân thực thi các nghĩa vụ
cần thiết, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong các mối quan hệ,
bảo vệ tài sản của người dân một cách hợp pháp khi có tranh chấp xảy ra. Chế độ tài
sản của vợ chồng cũng là một công cụ pháp lý để thực hiện nhiệm vụ này.
Chế độ tài sản riêng của vợ, chồng mang một số ý nghĩa quan trọng như sau:
- Là cơ sở pháp lý để bảo đảm và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ,
chồng về tài sản
Với ý nghĩa là một chế định trong pháp luật về hôn nhân và gia đình, chế độ
tài sản riêng của vợ, chồng được Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam quy định
dựa trên sự phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội và sự phát triển của bản thân
chế độ tài sản của vợ chồng qua các thời kỳ từ pháp luật phong kiến cho đến pháp
luật hiện hành. Chế độ tài sản riêng của vợ, chồng đã quy định rõ những điều kiện

phát sinh tài sản của vợ chồng, quy định về quyền và nghĩa vụ của vợ hoặc của
chồng trong việc sử dụng, định đoạt các tài sản này. Do đó, chế độ tài sản riêng của
vợ, chồng cũng chính là các quy định pháp luật bảo đảm các quyền và nghĩa vụ hợp


18
pháp của vợ, chồng về tài sản khi xem xét giải quyết trong mối quan hệ với các chế
định pháp lý khác.
- Là cơ sở pháp lý để các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có căn cứ giải
quyết các tranh chấp xảy ra trong quá trình sử dụng tài sản.
Mối quan hệ về sử dụng tài sản giữa các cá nhân trên toàn bộ xã hội Việt
Nam luôn rất phức tạp. Bởi lẽ tài sản chính là đối tượng mà mỗi cá nhân hướng đến
khi tạo lập mối quan hệ đối với các cá nhân, đối tác khác. Chính vì vậy, tranh chấp
xảy ra cũng không thể không gắn với tài sản. Mối quan hệ liên quan đến tài sản giữa
một bên là cá nhân hoặc chủ thể pháp lý khác với một bên là một đôi vợ chồng theo
pháp luật Việt Nam cũng không thể tránh khỏi nguy cơ xảy ra tranh chấp. Khi đó,
chế độ tài sản riêng của vợ, chồng là căn cứ quan trọng để các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền (như Ủy ban nhân dân các cấp, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân
dân…) có thể dựa vào đó xác định tài sản nào là tài sản riêng của vợ, chồng, quyền
và nghĩa vụ mà pháp luật đã xác định đối với tài sản đó, và quyền và nghĩa vụ đối
với tài sản riêng của vợ, chồng mà bên thứ ba bắt buộc phải tôn trọng… để giải
quyết tranh chấp.
- Là cơ sở pháp lý nhằm xác định các quyền và nghĩa vụ của bên vợ hoặc bên
chồng trong mối quan hệ về tài sản
Chế độ tài sản riêng của vợ, chồng được sử dụng với ý nghĩa là cơ sở pháp lý
để giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng với nhau hoặc với những
người khác trong thực tế, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng về tài sản cho
các bên vợ, chồng hoặc người thứ ba tham gia giao dịch liên quan đến tài sản của vợ
chồng. Khi vợ, chồng tham gia các giao dịch nhằm đáp ứng cho nhu cầu thiết yếu
của gia đình như ăn, mặc, ở, học hành của con,… Những giao dịch đó được xác lập

vì lợi ích chung của gia đình nên cả vợ và chồng đều phải liên đới chịu trách nhiệm
trong việc thực hiện giao dịch với người khác. Trong suốt thời kỳ hôn nhân, vợ,
chồng sẽ tham gia rất nhiều các giao dịch vì cuộc sống chung của gia đình hay vì
mục đích riêng của mỗi bên vợ, chồng. Căn cứ vào những quy định của pháp luật về
chế độ tài sản riêng của vợ, chồng mà các cơ quan có thẩm quyền có cơ sở để giải


19
quyết các tranh chấp liên quan, bảo vệ quyền lợi của các bên, góp phần tạo sự ổn
định trật tự xã hội.
- Là cơ sở pháp lý để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba
trong mối quan hệ về tài sản giữa họ đối với vợ, chồng
Một trong những điểm mới được đề cập khi nhắc đến chế độ tài sản riêng của
vợ, chồng trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và các văn bản hướng dẫn là
những quy phạm pháp luật thể hiện việc các cơ quan lập pháp đã chú ý tới quyền và
nghĩa vụ của bên thứ ba khi họ xác lập, thực hiện giao dịch đối với tài sản riêng của
vợ, chồng. Khi một bên thứ ba xác lập, thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản
riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân, để xác định đó là tài sản chung hay
riêng, cần lưu ý: Ngoài việc xác định rõ hai vợ chồng có thỏa thuận chia tài sản
trong thời kỳ hôn nhân hay nhập tài sản riêng thành tài sản chung hay không, cần
xác định có thỏa thuận lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận hay không.
Bên cạnh đó vợ chồng áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận khi xác lập, thực hiện
giao dịch có nghĩa vụ thông báo với bên thứ ba, nếu không thông báo cho bên thứ
ba sẽ được coi là người ngay tình và được bảo vệ theo quy định tại Điều 138, 257,
258 của Bộ luật Dân sự 2005 (và các điều khoản tương tự khi Bộ luật Dân sự năm
2015 có hiệu lực thi hành).


20
Kết luận chƣơng 1

Chương 1 đã thể hiện toàn bộ nội dung nghiên cứu về vấn đề lý luận về chế
độ tài sản riêng của vợ, chồng theo pháp luật Việt Nam, trong đó có đưa ra định
nghĩa chế độ tài sản của vợ chồng và ý nghĩa của khái niệm chế độ tài sản của vợ
chồng đối với thực tiễn. Chương 1 cũng đã nghiên cứu và xác định các loại chế độ
tài sản của vợ, chồng theo quy định tại Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014. Đó là chế độ tài sản theo luật định (chế độ tài sản pháp định) và chế độ tài sản
theo thỏa thuận của vợ chồng (chế độ tài sản ước định). Xuất phát từ việc nghiên
cứu khái niệm và ý nghĩa của chế độ tài sản của vợ chồng, Chương 1 đã đi sâu hơn
vào nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng pháp luật xác định tài
sản riêng của vợ, chồng, bao gồm: cơ sở về quyền sở hữu tài sản riêng của cá nhân,
cơ sở về quyền bình đẳng của phụ nữ (cơ sở lý luận) và quá trình phát triển của quy
định về tài sản riêng của vợ, chồng trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ trước tới
nay (cơ sở thực tiễn). Mục đích Chương 1 của luận văn nhằm nêu rõ các đặc điểm
cơ bản của chế độ tài sản riêng của vợ, chồng, giúp người đọc có thể nhận thấy chế
độ tài sản riêng của vợ, chồng theo pháp luật Việt Nam có một vị trí riêng biệt khi
so sánh với chế độ tài sản chung của vợ chồng và chế độ khác về tài sản trong pháp
luật dân sự tại Việt Nam.


×