BỘ GIÁO DỤC VÀO ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
TRIỆU THỊ MAI PHƢƠNG
ĐỀ TÀI
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI TỈNH CAO BẰNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀO ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
TRIỆU THỊ MAI PHƢƠNG
ĐỀ TÀI
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC VÀ
THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI TỈNH CAO BẰNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Kinh tế
Mã số: 60380107
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Thị Thúy Lâm
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học độc lập
của riêng tôi.
Các kết quả được nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc
rõ ràng, được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.
Tác giả luận văn
Triệu Thị Mai Phƣơng
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt
Viết đầy đủ
BHXH
Bảo hiểm xã hội
BHYT
Bảo hiểm y tế
NLĐ
Người lao động
NSDLĐ
Người sử dụng lao động
TNLĐ, BNN
Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
STT
Tên bảng
Trang
1
Bảng 1. Số đơn vị tham gia BHXH giai đoạn 2010 – 2016
71
2
Bảng 2. Số người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc giaiđoạn
2010-2016
72
3
Bảng 3. Tổng hợp thu, chi quỹ BHXH bắt buộc giai đoạn
2010-2016
73
4
Bảng 4. Giải quyết chế độ ốm đau, TS, DSPHSK giai đoạn
2010 - 2016
74
5
Bảng 5. Giải quyết chế độ tai nạn lao động giai đoạn 2010 2016
75
6
Bảng 6. Tình hình giải quyết chế độ hưu trí giai đoạn 20102016
76
7
Bảng 7. Tình hình giải quyết chế độ tử tuất giai đoạn 20102016
77
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài.............................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................ 2
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu ............................................... 3
3.1. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................. 3
3.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 3
4.1. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................ 4
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 4
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 4
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.................................................... 4
7. Bố cục của luận văn .................................................................................... 5
Chương 1 ........................................................................................................ 6
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC ....... 6
VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC ............................ 6
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của bảo hiểm xã hội bắt buộc ............................... 6
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội bắt buộc .................................................... 6
1.1.2. Ý nghĩa của bảo hiểm xã hội bắt buộc ................................................. 8
1.2. Các nguyên tắc của bảo hiểm xã hội bắt buộc....................................... 11
1.3. Điều chỉnh pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc................................ 13
1.3.1. Khái niệm pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ............................. 13
1.3.2. Nội dung pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ............................... 13
Kết luận chương 1......................................................................................... 29
Chương 2 ...................................................................................................... 30
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ .............................................. 30
BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC .............................................................. 30
2.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm bắt buộc ................................................. 30
2.2. Các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc .................................................... 32
2.2.1. Chế độ ốm đau .................................................................................... 32
2.2.2. Chế độ bảo hiểm thai sản.................................................................... 39
2.2.3. Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ....................................... 42
2.2.4. Chế độ hưu trí ..................................................................................... 47
2.2.5. Chế độ tử tuất...................................................................................... 54
2.3. Hồ sơ, thủ tục giải quyết chế độ bảo hiểm bắt buộc.............................. 56
2.3.1. Chế độ bảo hiểm ốm đau, thai sinh .................................................... 56
2.3.2. Chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN ........................................................... 58
2.3.3. Chế độ bảo hiểm hưu trí ..................................................................... 59
2.3.4. Chế độ bảo hiểm tử tuất ...................................................................... 60
2.4. Quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc ............................................................... 62
2.5. Xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp về bảo hiểm xã hội bắt
buộc............................................................................................................... 64
Kết luận chương 2......................................................................................... 68
Chương 3 ...................................................................................................... 69
THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI............ 69
BẮT BUỘC Ở TỈNH CAO BẰNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ................. 69
3.1. Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Cao Bằng .......................... 69
3.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ở tỉnh Cao
Bằng .............................................................................................................. 71
3.2.1. Những kết quả đạt được ..................................................................... 71
3.2.2. Những hạn chế trong việc thi hành pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt
buộc và nguyên nhân.................................................................................. 78
3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thi hành pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ở tỉnh Cao Bằng . 80
3.3.1. Hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ............................ 80
3.3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về bảo hiểm xã
hội bắt buộc ở tỉnh Cao Bằng..................................................................... 84
Kết luận chương 3......................................................................................... 87
KẾT LUẬN .................................................................................................. 88
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lao động là hoạt động gắn với sự hình thành, tồn tại và phát triển của
xã hội loài người. Thông qua hoạt động lao động con người đã cải biến thế
giới khách quan để tạo ra của cải, vật chất và sáng tạo nên những giá trị tinh
thần nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình. Trong thực tế cuộc sống, không phải
người lao động nào cũng có đủ điều kiện về sức khỏe, khả năng lao động hoặc
những may mắn khác để hoàn thành nhiệm vụ lao động, công tác hoặc tạo nên
cho mình và gia đình một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Ngược lại, người nào
cũng có thể gặp phải những rủi ro, bất hạnh như ốm đau, tai nạn, hay già yếu,
chết hoặc thiếu công việc làm do những ảnh hưởng của tự nhiên, của những
điều kiện sống và sinh hoạt cũng như các tác nhân xã hội khác… Khi rơi vào
các trường hợp đó, các nhu cầu thiết yếu của con người không vì thế mà mất
đi. Trái lại, có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm nhu cầu mới. Bởi
vậy, để khắc phục những rủi ro, bất hạnh giảm bớt khó khăn cho bản thân và
gia đình thì ngoài việc tự mình khắc phục, người lao động phải được sự bảo
trợ của cộng đồng và xã hội. Sự tương trợ dần dần được mở rộng và phát triển
dưới nhiều hình thức khác nhau. Và một trong những hình thức đó chính là
bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội xuất hiện đầu tiên ở Đức vào khoảng giữa thế kỷ XIX
khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ với một số chế
độ bảo hiểm xã hội mang tính bắt buộc. Mô hình này của Đức đã lan dần ra
châu Âu, sau đó sang các nước Mỹ Latinh, rồi đến Bắc Mỹ và Canada vào
những năm 30 của thế kỷ XX. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, BHXH đã lan
rộng sang các nước giành được độc lập ở châu Á, châu Phi và vùng Caribê.
BHXH dần dần đã trở thành một trụ cột cơ bản của hệ thống An sinh xã hội
và được tất cả các nước thừa nhận là một trong những quyền con người. Cho
đến nay các quốc gia đã xây dựng chế độ bảo hiểm xã hội.
Ở Việt Nam, bảo hiểm xã hội cũng là vấn đề được Đảng và Nhà nước
quan tâm. Điểm mốc đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong lịch sử pháp luật
về bảo hiểm xã hội Việt Nam là sự ra đời của Luật Bảo hiểm xã hội năm
2
2006, trong đó có quy định cụ thể 5 chế độ bảo hiểm xã hội mang tính bắt
buộc, đó là chế độ bảo hiểm xã hội ốm đau; thai sản; tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp; hưu trí; tử tuất. Sau gần 10 năm thực hiện, Luật Bảo hiểm xã hội
đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, mâu thuẫn và so với thực tế thì còn nhiều
điểm chưa đáp ứng. Để khắc phục những hạn chế, Quốc hội đã ban hành Luật
Bảo hiểm xã hội năm 2014, có hiệu lực từ ngày 01/01/2016. Việc triển khai
thực hiện có hiệu quả là một trong những vấn đề cần thiết phải đặt ra. Cao
Bằng là một trong những tỉnh vùng núi Đông Bắc – nơi tập trung nhiều đồng
bào dân tộc sinh sống. Sự hiểu biết pháp luật nói chung và pháp luật bảo hiểm
xã hội nói riêng còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy nắm bắt và hiểu rõ hơn
những quy định của pháp luật và việc triển khai thực hiện có hiệu quả là rất
quan trọng.
Với mong muốn làm rõ hơn và sâu sắc hơn những vấn đề lý luận cũng
như pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định của Luật BHXH
năm 2014 cũng như thực tiễn thực hiện thực tế, tác giả chọn đề tài: “Pháp
luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực tiễn thi hành tại tỉnh Cao Bằng”
làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
BHXH không phải là vấn đề mới nhưng nó trở thành mối quan tâm cả
các nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn. Ở phạm vi, mức độ khác nhau đã
có một số công trình nghiên cứu, bài viết đề cập đến pháp luật về bảo hiểm xã
hội bắt buộc nói chung và các chế độ nói riêng, cụ thể:
- Vụ Bảo hiểm xã hội (2010), “Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện
chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc giai đoạn đến 2020”, Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp Bộ.
- PGS.TS. Nguyễn Hữu Chí và ThS.Bùi Thị Kim Ngân (2015), “Một số
bình luận pháp lý liên quan đến Điều 60 Luật BHXH năm 2014”, Tạp chí
Luật học.
- PGS.TS. Nguyễn Hữu Chí và ThS. Bùi Thị Kim Ngân (2015), “Sửa
đổi Điều 60 Luật BHXH năm 2014 dưới góc nhìn quan hệ lao động tập thể”,
Tạp chí dân chủ và pháp luật.
3
- Đặng Như Lợi (2014), “Cải cách Luật BHXH để mở rộng bảo hiểm
hưu trí đối với người cao tuổi”, Tạp chí chính trị.
- Bùi Sỹ Lợi (2015), “Tính ưu việt của Luật Bảo hiểm xã hội, Luật bảo
hiểm y tế - thách thức trong triển khai và giải pháp bảo đảm an ninh xã hội”,
Tạp chí Cộng sản.
- TS. Nguyễn Hiền Phương (chủ biên, 2015), “Bình luận khoa học một
số quy định của Luật bảo hiểm xã hội năm 2014”, Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Lường Thanh Huyền (2016), Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Sơn La, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại
học Luật Hà Nội.
Những bài viết này tuy đã đề cập đến một số chế độ của bảo hiểm xã
hội bắt buộc và Luật BHXH năm 2014 như chế độ bảo hiểm thai sản, chế độ
bảo hiểm xã hội hưu trí song chủ yếu mới dừng lại ở việc đề cập các điểm
mới hoặc về cách hiểu, cách áp dụng các quy định của luật BHXH… chứ
chưa có sự đánh giá một cách toàn diện đầy đủ các chế độ bảo hiểm xã hội bắt
buộc cũng như thực tiễn thực hiện. Đặc biệt, chưa có công trình nào nghiên
cứu riêng về việc thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc ở tỉnh Cao Bằng.
Vì vậy, đây sẽ là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu về bảo hiểm xã hội
bắt buộc và thực tiễn thi hành trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Luật BHXH năm 2014 về bảo
hiểm xã hội bắt buộc và các văn bản hướng dẫn thi hành. Bên cạnh đó, luận
văn cũng nghiên cứu pháp luật về bảo hiểm xã hội của một số nước là cơ sở
cho sự so sánh với pháp luật Việt Nam.
3.1.
3.2.
Phạm vi nghiên cứu
Cũng như nhiều lĩnh vực khác, bảo hiểm xã hội bắt buộc là một lĩnh
vực rộng có thể được nghiên cứu dưới nhiều hình thức và góc độ khác nhau
với mức độ tiếp cận khác nhau. Trong luận văn này, tác giả chủ yếu chỉ
nghiên cứu dưới góc độ pháp lý và cụ thể ở một số khía cạnh như đối tượng
4
tham gia, quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc, các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc
và xử lý các vi phạm pháp luật về BHXH bắt buộc…
4. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận
về bảo hiểm xã hội bắt buộc, thực trạng pháp luật về BHXH bắt buộc và thực
tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tại tỉnh Cao Bằng từ đó đề xuất
những giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật bảo
hiểm xã hội bắt buộc trong giai đoạn hiện nay tại tỉnh Cao Bằng.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn
đề lý luận về bảo hiểm xã hội bắt buộc, các quy định pháp luật đang có hiệu
lực; phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về BHXH bắt buộc trên địa bàn
tỉnh Cao Bằng, chỉ rõ thành tựu, những tồn tại và nguyên nhân. Đề xuất các
giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
hiện tại tỉnh Cao Bằng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Triết học Mác
– Lê-nin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra còn sử
dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp với nội dung nghiên cứu
của đề tài như: phương pháp tổng hợp, thống kê, so sánh, phân tích… Các
phương pháp này được sử dụng để xem xét một cách toàn diện các vấn đề lý
luận và thực tiễn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Luận văn đã làm sâu sắc và hoàn thiện hơn những vấn đề lý luận về
Bảo hiểm xã hội bắt buộc.
- Đánh giá một cách toàn diện thực trạng pháp luật về BHXH bắt buộc
cũng như thực tiễn thi hành các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc trên địa bàn
tỉnh Cao Bằng.
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc.
5
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn được trình bày trong
ba chương:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về Bảo hiểm xã hội bắt buộc và
pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
- Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về pháp luật bảo hiểm xã
hội bắt buộc
- Chương 3: Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ở
tỉnh Cao Bằng và một số kiến nghị
6
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của bảo hiểm xã hội bắt buộc
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội bắt buộc
Người lao động tham gia vào quan quan hệ lao động thường với mục
đích để có thu nhập đảm bảo cuộc sống cho mình và gia đình. Khi họ gặp phải
những khó khăn, rủi ro trong cuộc sống như tai nạn lao động, bệnh tật… hoặc
đến lúc về già thì nguồn thu nhập thường xuyên đó thường bị mất hoặc bị
giảm. Đặc biệt quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự cạnh tranh trong
nền kinh tế thị trường còn làm xuất hiện một số rủi ro mới như mất việc làm,
thất nghiệp… Chính vì vậy, để ổn định cuộc sống, NLĐ phải tìm các biện
pháp đảm bảo thu nhập cho mình trong những trường hợp rủi ro nói trên. Một
trong các biện pháp đó là tham gia BHXH.
BHXH đã xuất hiện và phát triển cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội của nhân loại. Hệ thống BHXH hình thành đầu tiên trên thế giới ở Đức
dưới thời thủ tướng Bismark với cơ chế ba bên là nhà nước – giới chủ - giới
thợ. Sự phát triển của BHXH được thiết lập từng bước. Từ năm 1881 đến
1989, các chế độ BHXH bắt buộc lần lượt ra đời từ chế độ BHXH ốm đau,
chế độ bảo hiểm tai nạn lao động cho đến chế độ bảo hiểm tuổi già. Vào cuối
thế kỷ XIX, ở Đức chỉ có 10% dân số tham gia BHXH bắt buộc. Tuy nhiên
đến cuối thế kỷ XX, đặc biệt là từ năm 1950, BHXH bắt buộc phát triển đến
mức số người tham gia chiếm hơn 90% dân số1. Trong Tuyên ngôn nhân
quyền của Liên Hợp Quốc (10/12/1948) đã ghi nhận: “Tất cả mọi người với
tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH”. Ngày 04/6/1952,
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã kí công ước Giơnevơ về Bảo hiểm xã hội
cho người lao động đã khẳng định tất yếu các nước phải tiến hành BHXH cho
NLĐ và gia đình họ.
1
Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội (2005), Pháp luật Bảo hiểm xã hội của một số nước trên thế giới,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr.319
7
Cho đến nay, hầu hết các nước trên thế giới đã thực hiện chính sách
bảo hiểm xã hội và coi nó là trụ cột trong hệ thống an sinh xã hội. Phạm vi và
đối tượng áp dụng của pháp luật BHXH bắt buộc ngày càng được mở rộng.
Các chế độ trợ cấp BHXH bắt buộc cũng được bổ sung nhằm đảm bảo và
khắc phục rủi ro có thể xảy ra với NLĐ.
Khi bàn đến khái niệm BHXH thì tùy theo góc độ nhìn nhận mà khái
niệm BHXH được tiếp cận ở khía cạnh khác nhau. Theo Từ điển Tiếng Việt
thì BHXH là sự bảo đảm những quyền lợi vật chất cho công nhân viên chức
khi không làm việc vì ốm đau, sinh đẻ, già yếu, bị tai nạn lao động2. Từ điển
Giải thích từ ngữ Luật học thì xác định, BHXH là bảo hiểm thu nhập của
người lao động trong một số trường hợp, do Nhà nước tổ chức quản lý. Đặc
trưng cơ bản để phân biệt BHXH với các hình thức bảo hiểm khác là sự kết
hợp nghĩa vụ của người sử dụng lao động, việc thực hiện chính sách bảo đảm
xã hội của nhà nước với sự tương trợ cộng đồng giữa những người lao động
để ổn định cho họ và gia đình họ trong và sau quá trình lao động3.
Như vậy, dưới góc độ kinh tế: Có thể thấy, về bản chất BHXH chính là
sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ khi gặp rủi ro
trong quá trình lao động như ốm đau, tai nạn lao động… BHXH thường được
thực hiện dưới 2 hình thức: BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện trong đó
BHXH bắt buộc là hình thức BHXH quan trọng được áp dụng với phạm vi
đối tượng tương đối rộng và bao gồm chế độ BHXH ngắn và dài hạn.
BHXH bắt buộc có thể được hiểu như sau: “bảo hiểm xã hội bắt buộc
là loại hình BHXH do Nhà nước tổ chức, thực hiện, được bắt buộc áp dụng
đối với một số đối tượng là NLĐ và NSDLĐ theo quy định của pháp luật”.
Đặc trưng cơ bản của BHXH bắt buộc so với BHXH tự nguyện là tính
bắt buộc. Tính bắt buộc được thể hiện ở những điểm sau:
Về đối tượng tham gia: đối tượng tham gia BHXH bắt buộc là NLĐ và
NSDLĐ. Khác với các đối tượng khác trong hệ thống quan hệ an sinh xã hội.
chế độ BHXH bắt buộc đảm bảo ổn định đời sống cho NLĐ có thu nhập. Mặt
2
Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, tr.39
Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển Giải thích thuật ngữ Luật học, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, tr.85
3
8
khác, quy định bắt buộc của Nhà nước còn nhằm mục đích ràng buộc trách
nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ trong và sau quá trình sử dụng lao động. Vì
vậy, đối với NLĐ có việc làm và thu nhập, tương đối ổn định, dù muốn hay
không, khi tham gia quan hệ lao động thì họ và người sử dụng sức lao động
của họ phải tham gia BHXH theo quy định của pháp luật. Việc tham gia
BHXH của những đối tượng này là quyền, đồng thời cũng là nghĩa vụ của họ.
NLĐ và NSDLĐ không thể thỏa thuận về việc có tham gia BHXH hay không
cũng như thay thế BHXH bằng các hình thức khác.
Về mức đóng: Mức đóng của BHXH bắt buộc thường là do pháp luật
ấn định đối với cả NLĐ và NSDLĐ. Thông thường, mức đóng BHXH hàng
tháng được tính theo mức phần trăm tiền lương, tiền công ghi trong hợp đồng
lao động, hợp đồng làm việc và các quy định của pháp luật.
Về các chế độ BHXH: các chế độ của BHXH bắt buộc cũng do pháp
luật quy định. Tùy theo tình hình kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia mà các chế
độ được quy định khác nhau. Khi tham gia BHXH bắt buộc thì phải tham gia
tất cả các chế độ BHXH chứ không được lựa chọn một hay một vài chế độ.
Các chế độ BHXH bắt buộc bao gồm: chế độ ốm đau, chế độ thai sản, chế độ
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu trí và chế độ tử tuất.
1.1.2. Ý nghĩa của bảo hiểm xã hội bắt buộc
Có thể trình độ phát triển của BHXH được quyết định bởi mức độ phát
triển của nền kinh tế, nền kinh tế càng phát triển thì mức độ hoàn thiện của
BHXH ngày càng cao và với những đặc trưng riêng có của mình BHXH nói
chung và BHXH bắt buộc nói riêng đã có ý nghĩa thiết thực đối với sự phát
triển kinh tế xã hội. Cụ thể:
* Đối với ngƣời lao động
Với tư cách là một trong những chính sách kinh tế xã hội của Nhà
nước, BHXH sẽ góp phần trợ giúp cho cá nhân NLĐ gặp phải rủi ro, bất hạnh
bằng cách tạo ra cho họ những thu nhập thay thế, những điều kiện lao động
thuận lợi… Khi NLĐ đã thực hiện đẩy đủ nghĩa vụ của họ đó không chỉ là
nguồn hỗ trợ vật chất mà còn là nguồn động viên tinh thần to lớn, giúp họ ổn
định cuộc sống, yên tâm công tác. Bên cạnh đó, nhờ có BHXH, cuộc sống của
9
các thành viên trong gia đình NLĐ đặc biệt là trẻ em và người già cũng được
bảo đảm tốt hơn.
Có thể thấy rằng, BHXH là sự bảo đảm thu nhập, bảo đảm cuộc sống
cho người lao động khi họ bị giảm hay mất khả năng lao động. Có nghĩa là
tạo ra một khoản thu nhập thay thế cho người lao động khi họ gặp phải các rủi
ro thuộc phạm vi BHXH. Đồng thời, việc NLĐ tham gia BHXH bắt buộc thể
hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi ro cho chính mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc
nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ4.
* Đối với ngƣời sử dụng lao động
Bảo hiểm xã hội giúp cho các tổ chức sử dụng lao động nói chung hay
các doanh nghiệp nói riêng ổn định hoạt động, ổn định sản xuất kinh doanh
thông qua việc phân phối các chi phí cho NLĐ một cách hợp lý. Nếu không
có BHXH, các tổ chức sử dụng lao động trả tiền bảo hiểm cùng với tiền lương
hàng tháng để NLĐ tự lo thì nguồn tiền này có thể bị sử dụng vào những nhu
cầu, những mục đích khác và không phải bao giờ cũng hiệu quả. Trong
trường hợp, rủi ro, bất hạnh xảy ra đối với NLĐ thì không chỉ ảnh đời sống
của họ mà còn tác động đến chất lượng lao động. Qua việc phân phối chi phí
cho NLĐ hợp lý, BHXH bắt buộc góp phần làm cho lực lượng lao động trong
đơn vị ổn định, sản xuất kinh doanh được liên tục, hiệu quả. Đồng thời, thông
qua BHXH bắt buộc tạo điều kiện cho NSDLĐ có trách nhiệm với NLĐ.
Như vậy, sự đóng góp một phần BHXH không trực tiếp mang lại lợi ích
cho NSDLĐ nhưng sẽ giúp NSDLĐ tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi ra
một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với NLĐ mà mình thuê mướn.
Đồng thời, góp phần giảm bớt tình trạng tranh chấp, tạo nên mối quan hệ tốt
đẹp giữa chủ - thợ.
* Đối với kinh tế - xã hội
Bản chất và chức năng vốn có của BHXH là việc chia sẻ những rủi ro,
tạo ra sự san sẻ, tương trợ giữa NSDLĐ và NLĐ, và ngay cả những NLĐ với
nhau theo nguyên tắc “lấy số đông bù số ít”. Khi tham gia BHXH rủi ro của
4
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2008), Giáo trình An sinh xã hội, Nxb. Đại học kinh tế quốc dân, Hà
Nội, tr.99
10
một người sẽ được chia sẻ cho nhiều người trong cộng đồng, thông qua việc
hình thành, phân phối và sử dụng quỹ BHXH. Nó tạo ra cơ chế chia sẻ rủi ro,
nâng cao tính cộng đồng giữa các thành viên trong xã hội.
Đối với nhiều quốc gia, BHXH đặc biệt là BHXH bắt buộc là trụ cột
của an sinh xã hội, là cơ sở để phát triển các bộ phận khác của hệ thống an
sinh xã hội. Các nhà nước thường dựa vào mức độ bao phủ của chính sách
BHXH để xác định những đối tượng nào còn gặp khó khăn, cần cộng đồng
chia sẻ nhưng chưa được tham gia BHXH để thiết kế những mạng lưới khác
nhau của an sinh xã hội như trợ cấp, cứu trợ xã hội… Trên cơ sở đó, BHXH
là căn cứ để đánh giá trình độ quản lý rủi ro của từng quốc gia và mức độ an
sinh xã hội đạt được của mỗi nước.
BHXH còn là sự phản ánh trình độ phát triển kinh tế, xã hội của một
quốc gia. Khi trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia đạt đến một mức độ
nào đó thì hệ thống BHXH có điều kiện ra đời phát triển. Vì vậy, các nhà kinh
tế cho rằng, sự ra đời và phát triển của BHXH phản ánh sự phát triển của nền
kinh tế. Một nền kinh tế chậm phát triển, đời sống nhân dân thấp kém không
thể có một hệ thống BHXH vững mạnh được. Kinh tế càng phát triển, hệ
thống BHXH càng đa dạng, các chế độ BHXH ngày càng mở rộng, các hình
thức BHXH ngày càng phong phú.
BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội, giảm khoảng cách chênh
lệch giàu nghèo. Bên cạnh đó, hoạt động BHXH cũng góp phần vào việc huy
động vốn đầu tư, làm cho thị trường tài chính phong phú và kinh tế xã hội
phát triển.
Như vậy, BHXH bắt buộc là một trong những chính sách xã hội quan
trọng không thể thiếu của mỗi quốc gia nhằm ổn định đời sống kinh tế - xã
hội, là tiền đề thúc đẩy kinh tế tăng trưởng bền vững và góp phần làm vững
chắc thể chế kinh tế.
11
1.2.
Các nguyên tắc của bảo hiểm xã hội bắt buộc
* Mức hưởng BHXH bắt buộc được xác định trên cơ sở mức đóng, thời
gian đóng bảo hiểm xã hội và có chia sẻ giữa những người tham gia bảo hiểm
xã hội
Bảo hiểm xã hội là một trong những hình thức phân phối tổng sản
phẩm quốc dân nên việc thực hiện BHXH phải dựa trên cơ sở sự kết hợp hài
hòa giữa cống hiến và hưởng thụ. Nghĩa là phải căn cứ vào mức đóng góp của
NLĐ cho xã hội thể hiện qua mức đóng, thời gian đóng góp cho quỹ
BHXH… để từ đó quy định mức trợ cấp và độ dài thời gian hưởng phù hợp
với sự đóng cho xã hội của NLĐ. Tuy nhiên BHXH bắt buộc bên cạnh nội
dung kinh tế còn chứa đựng trong mình nội dung xã hội thể hiện ở cách thức
hỗ trợ dựa trên nguyên tắc “chia sẻ rủi ro”, “lấy số đông bù số ít”. Tức là, mỗi
người lao động chỉ phải đóng góp một phần nhỏ trong thu nhập của mình để
tạo lập quỹ nhưng vì nhiều người cùng đóng góp nên tạo nên quỹ có giá trị
lớn đảm bảo chi trả lượng vật chất đủ để hỗ trợ NLĐ lâm vào hoàn cảnh khó
khăn. Trong trường hợp NLĐ may mắn không gặp phải rủi ro như mất việc
làm, tai nạn lao động… thì số tiền họ đóng góp sẽ dùng để hỗ trợ những
người kém may mắn hơn. NLĐ đóng góp vào quỹ BHXH bắt buộc không có
nghĩa chắc chắn sẽ hưởng mọi chế độ BHXH. Nhưng sự đóng góp của họ sẽ
có ý nghĩa rất lớn cho những đối tượng gặp phải những rủi ro nghiêm trọng
mà nếu không có sự chia sẻ, tương trợ cộng đồng sẽ gặp rất nhiều khó khăn
trong cuộc sống. Đây chính là mục đích thể hiện bản chất xã hội của BHXH
bắt buộc là sự chia sẻ rủi ro trong cộng đồng.
* Mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc được tính trên cơ sở tiền lương
tháng của NLĐ
Mức thu nhập được bảo hiểm là mức tiền lương hoặc mức thu nhập
bằng tiền nào đó do Nhà nước quy định. Trên cơ sở mức sống, mức thu nhập
bình quân thực tế của đại đa số NLĐ và mức thu nhập quốc dân bình quân
đầu người, Nhà nước quy định, lựa chọn mức thu nhập được bảo hiểm để bảo
đảm mức thu nhập này luôn tương đối, nhằm đảm bảo đời sống cho NLĐ
tham gia đóng BHXH và gia đình họ.
12
Trong thực tế có hai cách để lựa chọn mức thu nhập đóng bảo hiểm bắt
buộc. Cách thứ nhất là lấy tiền lương làm cơ sở để quy định mức thu nhập
được bảo hiểm. Cách thứ hai là quy định mức thu nhập nhất định đối với
người được bảo hiểm. Riêng đối với BHXH bắt buộc, người ta thường hay lấy
tiền lương làm căn cứ đóng BHXH và đó cũng chính là cơ sở để quy định
mức thu nhập được hưởng bảo hiểm. Mặt khác, mức thu nhập đóng bảo hiểm
còn là công cụ để Nhà nước giám sát, kiểm tra, điều tiết trên giác độ quản lý
vĩ mô với BHXH và quản lý lao động trong nền kinh tế quốc dân.
* Quỹ BHXH bắt buộc được quản lý tập trung, thống nhất, công khai,
minh bạch; được sử dụng đúng mục đích và được hạch toán độc lập theo các
thành phần.
BHXH là một chính sách lớn ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã
hội, chứa đựng cả nội dung kinh tế, xã hội và pháp lý. Để bảo đảm thực hiện
hài hòa những nội dung trên và đạt được mục tiêu mà BHXH bắt buộc đặt ra
thì một trong những vấn đề cần được chú ý là việc quản lý, sử dụng quỹ
BHXH bắt buộc nhằm bảo đảm sự cân đối và ổn định của quỹ. Do đó, việc sử
dụng quản lý quỹ BHXH bắt buộc phải trên cơ sở Nhà nước thống nhất quản
lý và hạch toán theo quy định của pháp luật.
* Việc thực hiện BHXH bắt buộc phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện,
bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia BHXH
Người tham gia BHXH khi đóng phí BHXH là nhằm dự trữ trước một
khoản tài chính, để đề phòng những trường hợp rủi ro xảy ra hoặc có liên
quan đến hoạt động lao động (tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp) hoặc
những loại được coi là “rủi ro xã hội” (ốm đau, thai sản, tuổi già, chết). Khi
gặp những rủi ro này, chi phí trong cuộc sống của NLĐ và gia đình họ không
những tăng lên mà thu nhập còn bị giảm đi vì không thực hiện được quá trình
lao động. Trong trường hợp này các khoản tiền BHXH giữ vai trò cần thiết và
quan trọng góp phần bù đắp vào sự thiếu hụt của NLĐ và gia đình họ nhằm
ổn định cuộc sống, khắc phục khó khăn, hỗ trợ và giúp đỡ họ vượt qua những
rủi ro tạm thời cũng như lâu dài. Chính vì vậy, việc thực hiện BHXH bắt buộc
13
phải đảm bảo đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, kịp thời và đầy đủ quyền lợi của
người tham gia BHXH.
1.3. Điều chỉnh pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
1.3.1. Khái niệm pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
BHXH bắt buộc với vai trò đảm bảo ổn định đời sống kinh tế cho NLĐ
và gia đình họ khi gặp khó khăn do giảm hoặc mất khả năng lao động trên cơ
sở đóng góp vào quỹ BHXH do Nhà nước tổ chức thực hiện; phân phối và
phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH, góp phần thực hiện
công bằng xã hội; giữa NLĐ và NSDLĐ luôn tồn tại mâu thuẫn về tiền lương,
thời gian lao động, an toàn lao động… nên thông qua BHXH góp phần tạo lập
mối quan hệ gắn bó chủ thợ từ đó làm cho mối quan hệ trên thị trường lao
động trở nên lành mạnh hơn và được giải tỏa về mặt cơ bản... Do đó, để
BHXH bắt buộc hoạt động ổn định, bền vững thì Nhà nước tham gia với tư
cách là người tổ chức, quản lý, bảo trợ cho hình thức thức bảo hiểm thông qua
hệ thống pháp luật BHXH. Nhằm đảm bảo tính xã hội và mục đích tương trợ
cộng đồng cho các thành viên.
Tùy theo điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội ở mỗi quốc gia thì hệ thống
pháp luật BHXH bắt buộc điều chỉnh những vấn đề khác nhau. Song phạm vi
điều chỉnh chủ yếu bao gồm những nội dung như: Đối tượng tham gia BHXH,
các chế độ BHXH, quỹ BHXH, việc chi trả BHXH, xử lý vi phạm pháp luật
BHXH…
Vì vậy, pháp luật về bảo hiểm bảo hiểm xã hội bắt buộc có thể được
hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội hình thành trong quá
trình đóng góp và chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc.
1.3.2. Nội dung pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội mà các quốc gia có những quy
định khác nhau về BHXH bắt buộc. Song nhìn chung về nội dung pháp luật
BHXH bắt buộc của hầu hết các quốc gia thường quy định về các nội dung
như đối tượng tham gia, quỹ BHXH bắt buộc và các chế độ BHXH bắt buộc.
14
1.3.2.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc
Đối tượng tham gia của BHXH là NLĐ và NSDLĐ. Họ là những
người trực tiếp tham gia đóng góp tạo nên quỹ BHXH với một khoản % nhất
định so với tiền lương của NLĐ theo quy định của pháp luật BHXH. Tùy theo
điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước mà đối tượng này có thể là
tất cả hoặc một bộ phận những NLĐ nào đó trong xã hội. Trong thời kì đầu
khi triển khai BHXH ở hầu hết các nước chỉ áp dụng đối với những người làm
công ăn lương để đảm bảo mức đóng góp ổn định, đảm bảo an toàn quỹ
BHXH. Tuy nhiên không phải NLĐ và NSDLĐ nào cũng tự giác tham gia
BHXH. Hơn nữa, để thực hiện BHXH một cách lâu dài thì cần phải xác định
đối tượng tham gia để đảm bảo nguồn thu và chi các chế độ BHXH. Bởi vậy,
pháp luật hầu hết các nước đều quy định các đối tượng có trách nhiệm phải
tham gia BHXH là NLĐ và NSDLĐ.
Hiện nay, tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội của từng quốc gia mà có
sự quy định về đối tượng tham gia BHXH nhưng nhìn chung pháp luật các
quốc gia đều hướng tới những đối tượng tham gia quan hệ lao động có tính ổn
định và càng ngày các đối tượng này càng được mở rộng.
Pháp luật Đan Mạch có quy định, mọi người dân được hưởng chế độ
bảo hiểm từ hệ thống chăm sóc sức khỏe quốc gia, trợ cấp gia đình và trợ cấp
người già mà không phụ thuộc vào hoạt động nghề nghiệp; trái lại trợ cấp
dành cho việc bù đắp do mất thu nhập chỉ được chi trả cho những người đang
hoạt động, những người không thuộc diện NLĐ làm công ăn lương cũng
hưởng trợ cấp bằng tiền của bảo hiểm ốm đau.
Tại Hà Lan, có hai loại hình BHXH là BHXH đối với người làm công
ăn lương và BHXH quốc gia. BHXH của những người làm công ăn lương bảo
đảm chi phí duy nhất cho những người làm công ăn lương và những người
giống như vậy. Để được thụ hưởng BHXH này, phải có một hợp đồng lao
động, ít nhất giống như người làm công ăn lương. Đó là trường hợp người học
nghề, những NLĐ tại nhà hoặc trong các phân xưởng được bảo hiểm. Những
NLĐ thật sự độc lập không giống người làm công ăn lương và công chức có
15
chế độ riêng5. BHXH quốc gia là loại hình bảo đảm chế độ BHXH cho tất cả
những người sống ở Hà Lan, cũng như những người không thường trú với
điều kiện họ đang làm việc ở Hà Lan và trả thuế vào lương.
Như vậy, có thể thấy ở mỗi quốc gia lại có những quy định khác nhau
về đối tượng tham gia BHXH bắt buộc có quốc gia quy định đối tượng là
những người làm công ăn lương. Ở một số quốc gia đối tượng tham gia bảo
hiểm được mở rộng hơn không phụ thuộc vào việc họ có tham gia quan hệ lao
động hay không. Tuy nhiên, tựu chung lại việc quy định về đối tượng tham
gia BHXH nhằm hướng tới việc đảm bảo cho những người trong độ tuổi lao
động đều có thể tham gia BHXH.
1.3.2.2. Các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc
Các chế độ BHXH được hiểu là một hệ thống các quy định được luật
hóa về đối tượng hưởng, nghĩa vụ và mức đóng góp đối với NLĐ khi họ gặp
phải các rủi ro trong từng trường hợp cụ thể.
Theo Công ước số 102 ngày 25/6/1852 của Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO) thì hệ thống BHXH bao gồm 9 chế độ gồm: Chăm sóc y tế, trợ cấp ốm
đau, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp TNLĐ - BNN, trợ cấp gia
đình, trợ cấp thai sản, trợ cấp tàn tật, trợ cấp mất người nuôi dưỡng. Tổ chức
ILO cũng khuyến nghị tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội mà mỗi quốc gia
tham gia công ước có thể quy định các chế độ BHXH bắt buộc khác nhau,
nhưng ít nhất phải thực hiện được ba chế độ. Trong đó phải có một trong năm
chế độ; Trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp TNLĐ, BNN; trợ cấp khi
tàn phế và trợ cấp tiền tuất.
Tuy nhiên, hầu hết các quốc gia quy định các chế độ BHXH mang tính
chất bắt buộc thường bao gồm 5 chế độ: chế độ BHXH ốm đau; chế độ
BHXH thai sản; chế độ BHXH tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; chế độ
hưu trí và chế độ tử tuất.
5
Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội (2005), Pháp luật Bảo hiểm xã hội của một số nước trên thế giới,
NXB. Tư pháp, Hà Nội, tr 408
16
* Chế độ ốm đau
Ốm đau, tai nạn là điều mà hầu như con người không thể tránh khỏi
trong suốt cuộc đời. Những lúc như vậy, nhu cầu của con người cũng thay đổi
một cách cơ bản, kèm theo là sự tăng lên về chi phí. Đối với NLĐ, sự kiện
này được coi là một loại rủi ro trong lao động mà họ gặp phải. Biểu hiện ở
chỗ NLĐ bị mất thu nhập (tạm thời) từ lao động. Con người có thể thực hiện
nhiều biện pháp khác nhau để khắc phục tình trạng trên. Một trong những
biện pháp đó là bảo hiểm ốm đau.
Bảo hiểm ốm đau là một trong các chế độ BHXH ra đời sớm nhất trong
lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật BHXH. Ở Đức, ngay từ những
năm 50 của thế kỷ XIX nhiều chính quyền bang đã quan tâm tới việc quy định
và bắt buộc thực hiện chế độ trợ cấp ốm đau đối với NLĐ. Đối tượng tham
gia chế độ bảo hiểm ốm đau ngày càng được mở rộng. Sau đó, nhiều nước
châu Âu cũng đã cho ra đời các đạo luật của mình có quy định về vấn đề bảo
hiểm ốm đau. Đến đầu thế kỷ XX, bảo hiểm ốm đau đã mở rộng ra nhiều
nước trên thế giới, đặc biệt là các nước Mỹ La tinh, Hoa kỳ, Canada và một số
nước khác6.
Năm 1952, Tổ chức ILO đã thông qua Công ước số 102 với những quy
phạm tối thiểu về BHXH. Trong đó, điều 14 của Công ước quy định “các
trường hợp phải bảo vệ bao gồm sự mất khả năng lao động do đau ốm gây ra
và dẫn đến gián đoạn thu nhập, như pháp luật hoặc quy định quốc gia quy
định”. Có thể nói, đối tượng áp dụng bảo hiểm ốm đau chính là những NLĐ
mất khả năng lao động do ốm đau, bệnh tật, phải nghỉ việc dẫn đến thu nhập
bị gián đoạn.
Ở Đức, trong trường hợp ốm đau, NSDLĐ có trách nhiệm chi trả lương
trong 6 tuần. Tiếp đó, người được bảo hiểm có quyền được hưởng trợ cấp
bằng tiền từ bảo hiểm ốm đau. Số tiền lên tới 80% lương đã đóng bảo hiểm và
thuế thu nhập. Đối với cùng một loại bệnh, thời gian trợ cấp không vượt quá
78 tuần trong 03 năm. Còn ở Anh, NLĐ làm công ăn lương ốm ngừng làm
việc, nếu đáp ứng các điều kiện, sau thời hạn 03 ngày có quyền được hưởng
6
Trường Đại học LĐTB&Xh (2010), Giáo trình Bảo hiểm xã hội, Nxb. Lao động, Hà Nội, tr.331
17
trợ cấp ốm đau hàng ngày. Việc chi trả trợ cấp này do NSDLĐ thực hiện và
sau đó sẽ được Bảo hiểm quốc gia hoàn trả. Trợ cấp được chi trả tối đa là 28
tuần với mức 52,50 bảng một tuần. Chỉ những người làm công ăn lương có
thu nhập ít nhất 58 bảng một tuần mới có thể được hưởng…7
Có thể thấy phạm vi và cách thức thực hiện ở mỗi nước, ở mỗi thời kỳ
có thể khác nhau, song nhìn chung, chế độ bảo hiểm ốm đau được thiết kế chủ
yếu để đảm bảo thu nhập cho NLĐ tham gia bảo hiểm xã hội phải tạm thời
nghỉ việc do ốm đau hoặc tai nạn rủi ro (mà không phải là bệnh nghề nghiệp,
tai nạn lao động).
* Chế độ thai sản
Hiện nay, lao động nữ chiếm tỷ lệ lớn trong lực lượng lao động của xã
hội. Họ tham gia lao động trong mọi ngành nghề, lĩnh vực của đời sống và có
đóng góp quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bên
cạnh cuộc sống lao động, họ còn thực hiện thiên chức làm mẹ. Hầu hết lao
động nữ đều trải qua giai đoạn mang thai, sinh đẻ. Trong thời gian đó, họ phải
nghỉ việc, không có lương, đồng thời chi phí tăng thêm do sức khỏe suy giảm
và có thêm thành viên mới nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống bản
thân họ và gia đình. Nhằm góp phần bảo vệ lao động nữ và trẻ sơ sinh, pháp
luật trên thế giới đã xây dựng các chính sách về bảo hiểm thai sản.
Trong các quy định riêng về BHXH đối với lao động nữ, bảo hiểm thai
sản được coi là chế độ bảo hiểm đặc thù và xuất hiện từ rất sớm. Ngay kỳ họp
đầu tiên và trong suốt quá trình hoạt động, tổ chức ILO đã ban hành nhiều
công ước và khuyến nghị thể hiện sự quan tâm, bảo vệ sức khỏe, cũng như
quyền lợi cho người lao động. Đó là Công ước số 3 năm 1919, Công ước số
102 năm 1952, Khuyến nghị số 95 (sửa đổi năm 1952), công ước số 103 (xét
lại năm 1952), công ước số 183 năm 2000 và Khuyến nghị số 191… Ngoài ra,
Tổ chức Liên hợp quốc (UN) cũng có một số công ước đề cập vấn đề này, đó
là: Công ước về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966, Công ước về xóa
7
Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội (2005), Pháp luật Bảo hiểm xã hội của một số nước trên thế giới,
NXB. Tư pháp, Hà Nội, tr. 306
18
bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 19798. Từ các công ước,
khuyến nghị đó đến nay pháp luật của hầu hết các nước đều quy định về chế
độ bảo hiểm thai sản.
Ở Trung Quốc, chế độ về thai sản đã được thiết lập từ những năm 1950.
Trong Bộ luật lao động ban hành chính sách mới về chế độ thai sản đối với
người lao động trong các doanh nghiệp năm 1994, trong đó quy định nghĩa vụ
đóng góp thuộc về chủ sử dụng lao động và tối thiểu là 1% của tổng tiền quỹ
tiền lương. Người lao động không phải đóng góp và được hưởng trợ cấp sinh
đẻ và chi phí y tế trong thời gian sinh đẻ; thời gian hưởng chế độ không thấp
hơn 90 ngày. Trong thời gian sinh đẻ, chủ sử dụng lao động không được giảm
mức tiền công, tiền lương và chấm dứt hợp đồng lao động9.
Về thời gian đóng BHXH trước khi hưởng chế độ thai sản pháp luật
Thái Lan quy định phải có 7 tháng đóng góp trong 15 tháng trước khi sinh.
Singapore quy định ít nhất phải có 6 tháng làm việc. Nhật Bản quy định phải
có 12 tháng làm việc trước đó. Tại Philipines, trợ cấp thai sản được thực hiện
trong 4 lần sinh, với điều kiện lao động nữ phải đóng BHXH 3 tháng trong
vòng 12 tháng trước khi sinh.10
Tùy thuộc vào điều kiện hưởng, thời gian nghỉ mà các nước có quy
định khác nhau về mức trợ cấp. Ở Na Uy, có hai lựa chọn cho NLĐ: Nếu lựa
chọn 54 tuần nghỉ thì được hưởng trợ cấp ở mức 80% tiền lương tháng, nếu
lựa chọn 44 tuần nghỉ thì hưởng mức trợ cấp cao hơn là 100% tiền lương
trước khi nghỉ việc; ở Pháp quy định mức trợ cấp thai sản bằng 90% tiền
lương11. Với mức trợ cấp một lần thì nhiều quốc gia ấn định khoản tiền cụ thể
như Thái Lan trợ cấp một lần là 4000 bạt. Nhật Bản là 300.000 yên12.
Đối tượng hướng đến của chế độ bảo hiểm thai sản chủ yếu là lao động
nữ. Thông thường lao động nam chỉ hưởng chế độ thai sản khi nuôi con nuôi
sơ sinh hoặc thực hiện các biện pháp tránh thai. Hiện nay cũng có một số
8
Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật an sinh xã hội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
tr.148
9
Nhật Linh (2005), Tổng quan về an sinh xã hội và bảo hiểm xã hội ở Trung Quốc, Tạp chí bảo hiểm xã hội
tháng 10, tại địa chỉ truy cập ngày 10/6/2017
10
Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật an sinh xã hội, Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội,tr.152
11
Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật an sinh xã hội, Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội,tr.163
12
Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật an sinh xã hội, Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội,tr.164