Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Pháp luật về chứng thực ở việt nam hiện nay – thực trạng và giải pháp (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ LAN

ĐỀ TÀI

PHÁP LUẬT VỀ CHỨNG THỰC Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60380102.

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Ngọc Bích

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng, được trích dẫn theo đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Lan


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨNG THỰC VÀ
PHÁP LUẬT VỀ CHỨNG THỰC ................................................................ 6
1.1. h i qu t về chứng thực ......................................................................... 6
1.1.1. Khái niệm .......................................................................................... 6
1.1.2. Ý nghĩa của chứng thực .................................................................... 9
1.1.3. So sánh chứng thực và công chứng ................................................ 14
1.2. h p luật về chứng thực ở Việt Nam .................................................... 17
1.2.1. Khái niệm ........................................................................................ 17
1.2.2. Quá trình phát triển pháp luật về chứng thực ................................ 19
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHỨNG THỰC VÀ
THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHỨNG THỰC Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY................................................................................ 30
2.1. Thực trạng pháp luật về chứng thực ở Việt Nam hiện nay ................... 30
2.1.1. Hệ thống văn bản pháp luật về chứng thực ở Việt Nam hiện nay ..... 30
2.1.2. Các quy định pháp luật hiện hành về chứng thực .......................... 31
2.1.3. Những hạn chế của pháp luật về chứng thực ................................. 48
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về chứng thực ở Việt Nam trong những
năm trở lại đây ............................................................................................. 52
2.2.1. Những kết quả đạt được trong việc tổ chức thực hiện pháp luật về
chứng thực trong những năm trở lại đây ................................................. 52
2.2.2. Những vướng mắc, bất cập trong việc thực hiện pháp luật về chứng
thực ở Việt Nam trong những năm trở lại đây.......................................... 55
2.2.3. Nguyên nhân của những vướng mắc, bất cập trong việc tổ chức
thực hiện pháp luật về chứng thực ở Việt Nam trong những năm trở lại
đây ............................................................................................................. 62



Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CHỨNG THỰC Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY................................................................................ 65
3.1. hương hướng hoàn thiện pháp luật về chứng thực ở việt Nam hiện
nay ..................................................................................................... 66
3.3. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về chứng thực ở Việt Nam hiện
nay ..................................................................................................... 69
3.3.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về chứng thực hiện hành ... 69
3.1.2. Xây dựng Luật Chứng thực ............................................................. 71
3.4.

c giải ph p ảo đảm thực hiện c hiệu quả quy định của ph p luật về

chứng thực ở Việt Nam hiện nay ................................................................. 77
KẾT LUẬN .................................................................................................... 82


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
hi đất nước chuyển sang mô hình kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa đồng nghĩa với việc các quan hệ, giao dịch và các thủ tục
hành chính mà các cá nhân, tổ chức tham gia không ngừng tăng lên. Để thực
hiện các thủ tục hành chính, tham gia các giao dịch thì các giấy tờ, văn ản,
chữ ký, các sự kiện pháp lý, thông tin cá nhân... cần được xác nhận để có
được độ an toàn pháp lý nhất định. Yêu cầu trên đòi hỏi phải có sự điều chỉnh
bằng pháp luật đối với sự xác nhận này mà hình thức thể hiện của nó là công
chứng, chứng thực.

Thực hiện chủ trương t ch ạch giữa hoạt động công chứng và chứng
thực theo Nghị quyết số 49/NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
chiến lược cải c ch tư ph p đến năm 2020, ngày 29 th ng 11 năm 2006 Quốc
hội Khóa XI tại kỳ họp thứ 10 đã thông qua Luật Công chứng điều chỉnh tổ
chức và hoạt động công chứng. Hoạt động chứng thực được điều chỉnh bởi
Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao
từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký (sau đây gọi là
Nghị định số 79/2007/NĐ-CP). Với việc an hành hai văn ản pháp luật trên
hoạt động công chứng tách hoạt động chứng thực, thì lĩnh vực chứng thực
cũng trở nên độc lập hơn đồng thời tạo ước ngoặt cho sự phát triển mới của
công tác chứng thực ở nước ta. Kể từ khi Nghị định số 79/2007/NĐ-

được

ban hành mà nay được thay thế bằng Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày
16/02/2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ
bản chính, chứng thực chữ ký, chứng thực hợp đồng, giao dịch (sau đây gọi là
Nghị định số 23/2015/NĐ-CP) cùng c c văn ản hướng dẫn thi hành giúp
hoạt động chứng thực đạt được những kết quả tích cực, đ ng g p quan trọng
vào sự phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước. Bên cạnh những thành
tựu đã đạt được thì pháp luật về chứng thực còn tồn tại những vướng mắc, bất


2
cập như một số quy định pháp luật về chứng thực chưa hợp lý, bị chồng chéo,
chưa c văn ản quy phạm pháp luật ở cấp độ Luật điều chỉnh hoạt động
chứng thực, thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật về chứng thực còn nhiều vi
phạm….
Trước những vướng mắc, bất cập về pháp luật cũng như việc tổ chức
thực hiện pháp luật về chứng thực ở Việt Nam hiện nay, thiết nghĩ, cần phải

có sự đ nh gi , xem xét, nghiên cứu một c ch đầy đủ, tổng quát pháp luật về
chứng thực nhằm có giải pháp khắc phục thực trạng nêu trên. Vì vậy, việc
chọn đề tài: “Pháp luật về chứng thực ở Việt Nam hiện nay – Thực trạng và
giải pháp” làm đề tài luận văn

ao học Luật là đ p ứng nhu cầu thực tiễn

đang đặt ra hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, ở Việt Nam việc nghiên cứu pháp luật về
chứng thực đã được các tác giả quan tâm và đã c một số công trình khoa học
được công bố.
Nghiên cứu về pháp luật về chứng thực có một số công trình nghiên
cứu khoa học tiêu biểu như sau: Tuấn Đạo Thanh (2001), “Hoàn thiện
pháp luật về công chứng, chứng thực ở Việt Nam hiện nay”, Luật văn thạc
sĩ (Trường Đại Học Luật Hà Nội); Chu Thị Tuyết Lan, “Quản lý nhà nước
về chứng thực – Thực trạng và phương hướng đổi mới”, Luận văn thạc sĩ,
Đại học quốc gia Hà Nội; Trần Thất (2010), “Hoạt động chứng thực sau
hai năm thực hiện Luật công chứng và Nghị định 79/2007/NĐ-CP”, Tạp
chí dân chủ và pháp luật; Viện khoa học pháp lý (2011), “Nghiên cứu giải
pháp nâng cao hiệu quả công chứng, chứng thực các giao dịch chuyển
quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình”, Đề tài nghiên cứu khoa học;
Hoàng Thị Hồng (2012), “Sự cần thiết phải ban hành Luật chứng thực”,
Tạp chí dân chủ và pháp luật; Nguyễn Thùy Dung (2014), “Quản lý nhà


3
nước về chứng thực – Qua thực tiễn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ
luật học, Đại học quốc gia Hà Nội; …
Trong thời gian đầu chúng ta chủ yếu chú trọng đến hoạt động công

chứng mà chưa chú trọng đến chức thực nên các nghiên cứu về chứng thực
còn ít. Các công trình khoa học trên chủ yếu đề cập đến hoạt động công
chứng, chứng thực nói chung hoặc nghiên cứu chứng thực dưới g c độ quản
lý nhà nước, cho đến nay vẫn chưa c công trình nghiên cứu nào về pháp luật
về chứng thực ở Việt Nam một cách hệ thống, toàn diện, đầy đủ. Với mong
muốn nghiên cứu tổng quát pháp luật về chứng thực và thực tiễn tổ chức thực
hiện pháp luật về chứng thực ở Việt Nam hiện nay, luận văn hy vọng sẽ là
nguồn tài liệu tham khảo hữu ích đối với những người nghiên cứu.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là ph p luật về chứng thực và việc
thực hiện pháp luật về chứng thực ở Việt Nam hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu với phạm vi như sau:
- Pháp luật về chứng thực: c c quy định hiện hành của pháp luật về
chứng thực ở Việt Nam.
- Thực tiễn thực hiện pháp luật về chứng thực: Nghiên cứu tìm hiểu
hoạt động chứng thực trong những năm trở lại đây (từ th ng 7/2007 đến cuối
tháng 8/2015).
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Việc nghiên cứu luận văn nhằm đ nh gi ph p luật hiện hành về chứng
thực, hướng tới đối chiếu việc thực hiện pháp luật chứng thực ở Việt Nam
hiện nay, chỉ ra những vướng mắc, kh khăn trong việc áp dụng pháp luật. Từ
đ , t c giả đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về chứng thực
ở Việt Nam hiện nay và các giải ph p đảm bảo thực hiện có hiệu quả quy định
pháp luật về chứng thực


4
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn

Luận văn nghiên cứu trả lời cho các câu hỏi:
Lý luận về chứng thực và pháp luật về chứng thực là như thế nào?
Thực trạng pháp luật về chứng thực ở Việt Nam hiện nay như thế nào
và thực tiễn thực hiện pháp luật về chứng thực ở Việt Nam hiện nay ra sao?
Để khắc phục những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thực hiện pháp
luật về chứng thực, cần phải có những phương hướng và giải pháp gì nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động chứng thực ở Việt Nam hiện nay?
6. Phƣơng pháp nghiên cứu sử dụng để thực hiện luận văn
Để đạt được mục đích nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình
nghiên cứu, luận văn đã sử dụng một số phương ph p nghiên cứu cơ ản sau:
- ơ sở phương ph p luận để nghiên cứu luận văn là chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của học thuyết Mác – Lê nin. Luận văn được
nghiên cứu trên cơ sở gắn liền giữa lý luận và thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề.
-

c phương ph p nghiên cứu mà tác giả sử dụng chủ yếu là: phương

pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, kết hợp với thống kê, hồi cứu tài liệu,…
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn g p phần làm phong phú thêm lý luận về chứng thực và
pháp luật về chứng thực ở Việt Nam hiện nay. Luận văn là công trình
nghiên cứu một cách tổng thể, đ nh gi kh i qu t nhất cả về c c phương
diện lý luận, pháp luật và thực tiễn về chứng thực kể từ sau năm 2006, với
việc Quốc hội thông qua Luật Công chứng và Chính phủ ban hành Nghị
định số 79/2007/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ
bản chính, chứng thực chữ ký (nay được thay thế bằng Nghị định số
23/2015/NĐ-

). Đồng thời, luận văn chỉ rõ những kết quả đạt được cũng


như những vướng mắc, bất cập trong quá trình xây dựng và tổ chức thực
hiện pháp luật về chứng thực. Từ đ , đưa ra phương hướng và các giải
pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động chứng thực ở
Việt Nam hiện nay.


5
Luận văn sẽ là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích đối với những người
làm công tác nghiên cứu, công tác giảng dạy trong các trường Đại học, Cao
đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
bao gồm c 03 chương:
hương 1. Những vấn đề lý luận về chứng thực và pháp luật về
chứng thực
hương 2. Thực trạng pháp luật về chứng thực và thực tiễn việc thực
hiện pháp luật về chứng thực ở Việt Nam hiện nay.
hương 3. hương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động chứng thực ở Việt Nam hiện nay.


6
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨNG THỰC VÀ
PHÁP LUẬT VỀ CHỨNG THỰC
1.1.

hái quát về chứng thực

1.1.1. Khái niệm

“ hứng thực” là một thuật ngữ khá phức tạp, cần được tìm hiểu dưới
g c độ ngôn ngữ học và dưới g c độ khoa học pháp lý và quản lý.
Về khía cạnh ngôn ngữ, theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ,
Nxb. Đà Nẵng năm 1997 c một số định nghĩa c liên quan đến chứng thực,
xác nhận được giải thích: “Xác nhận thừa nhận đúng sự thật chữ kí, xác nhận
lời khai”, về chứng thực được định nghĩa “Nhận cho để làm bằng là đúng sự
thật. Chứng thực lời khai. Xác nhận là đúng. Thực tiễn đã chứng thực điều
đó”. Như vậy, nghĩa của từ “chứng thực” xét về g c độ ngôn ngữ có nhiều
định nghĩa kh c nhau nhưng về cơ ản nhất là xác nhận tính có thực.
Theo quan niệm của khoa học ph p lý nước ngoài, qua tham khảo một
số tài liệu ph p lý nước ngoài có thể thấy, trong khoa học pháp lý một số nước
cũng c những khái niệm tương đương với khái niệm “chứng thực” trong
tiếng Việt.
Tại Thụy Sĩ c quy định về hoạt động công chứng và chứng thực. Theo
quy định Luật công chứng và chứng thực ngày 30.08.2011 của bang Aargau,
Thụy Sĩ điều chỉnh việc công chứng và chứng thực trong phạm vi của bang
Aargau, tại Điều 2 khoản 3 quy định “Việc chứng thực áp dụng đối với chữ
ký, bản sao chụp, trích lục, sao chép hoặc bản dịch”. Mặc dù Luật của Thụy
Sĩ chưa t ch riêng thành Luật công chứng, Luật chứng thực nhưng cũng đã c
quy định điều chỉnh về chứng thực.
Tại

hương III Luật công chứng Cộng hoà liên

ang Đức ngày

28/9/1969 c quy định các việc công chứng kh c, điều chỉnh về chứng thực.
Cụ thể tại khoản 1 Điều 42 Luật này quy định về chứng thực bản sao, theo đ
“Khi chứng thực bản sao một văn bản cần xác định đó là bản chính”. Tại



7
Điều 39 Luật này cũng quy định về chứng thực đơn giản: “Khi chứng thực
chữ ký, dấu vân tay, tên hãng cũng như khi chứng thực thời điểm xuất trình
giấy tờ cá nhân, chứng thực việc đã vào sổ đăng ký hoặc chứng thực các bản
sao lục và các văn bản đơn giản khác thì chỉ cần một văn bản công chứng
thay vì biên bản công chứng, trong đó có chữ ký, dấu niêm phong và ghi rõ
ngày, nơi lập, văn bản công chứng là đủ”. Hơn nữa, tại khoản 1, 2, 3 Điều 40
của Luật này quy định về chứng thực chữ ký: Một chữ ký chỉ được chứng
thực bởi công chứng viên biết chữ ký hoặc lấy được chữ ký đó; Công chứng
viên chỉ cần kiểm tra lại văn bản xem có tồn tại lý do nào đó gây phương hại
đến việc hành nghề của mình; Khi chứng thực phải khái quát nhân thân
đương sự - người mà công chứng viên biết hoặc lấy được chữ ký và phải nói
rõ là công chứng viên biết trước chữ ký hay vừa lấy chữ ký.
Có thể thấy c c văn ản pháp luật nước ngoài chỉ đưa ra thuật ngữ
“chứng thực” với những việc làm, hành động cụ thể mà không đưa ra kh i
niệm về “chứng thực”.
Quan niệm về “chứng thực” trong các văn bản pháp luật trước năm
2015:
Trong Sắc lệnh số 59/SL ngày 15/11/1945 của Chính phủ lâm thời Việt
Nam dân chủ cộng hòa ấn định thể lệ việc thị thực các giấy tờ, Hồ Chủ tịch
không dùng thuật ngữ “chứng thực” mà sử dụng thuật ngữ “thị thực”. Theo
đ , “các Ủy ban có quyền thị thực tất cả các giấy má trong địa phương mình,
bất kỳ người đương sự làm giấy má ấy thuộc về quốc tịch nào”. Tuy nhiên,
Ủy ban thị thực phải là “Ủy ban ở trú quán một bên đương sự lập ước và về
việc bất động sản phải là Ủy ban ở nơi sở tại bất động sản”.
Thông tư số 858/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư ph p hướng dẫn
công tác công chứng nhà nước là văn ản đầu tiên xuất hiện thuật ngữ “chứng
thực”: “Tất cả các đơn từ, giấy tờ khác có nội dung không trái pháp luật và
đạo đức xã hội chủ nghĩa, thì có thể được công chứng viên chứng thực chữ ký

của người lập ra chúng. Khi chứng nhận chữ ký, công chứng viên không phải


8
kiểm tra, xác nhận nội dung của việc trong đơn từ, giấy tờ, mà chỉ cần xem
nội dung các văn bản đó có trái pháp luật và các quy định hiện hành hay
không. Nếu thấy nội dung và các sự việc nêu trong đơn từ, giấy tờ có thể có
hại cho người ký, thì công chứng viên giải thích cho đương sự hiểu hậu quả
pháp lý của nó. Sau khi đã kiểm tra chữ ký của đương sự, công chứng viên
phải yêu cầu đương sự ký vào đơn từ, giấy tờ và ghi chứng thực theo mẫu.”
Theo quy định trên đây, thì phạm vi chứng thực được mở rộng ra đối với việc
chứng thực chữ ký trên giấy tờ, văn ản.
Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt
động công chứng nhà nước đã giao cho Ủy ban nhân dân thực hiện việc
chứng thực. Đ là, “Uỷ ban nhân dân quận, huyện, thị xã thuộc tỉnh chứng
thực các việc do pháp luật quy định và chứng thực bản sao giấy tờ từ bản
chính, trừ các việc được quy định tại khoản 1, 2 Điều 18 của Nghị định này.
Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng thực việc từ chối nhận di sản,
chứng thực di chúc và các việc khác do pháp luật quy định” (Điều 19).
Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về công
chứng, chứng thực là văn ản đầu tiên đưa ra kh i niệm “chứng thực” là gì.
Theo đ , “Chứng thực là việc Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã xác nhận
sao y giấy tờ, hợp đồng, giao dịch và chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ
phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch của họ theo quy định của Nghị định
này” (khoản 2, Điều 2)
Nghị định số 79/2007/NĐ-CP không có khái niệm chung về “chứng
thực” mà chỉ đưa ra kh i niệm về chứng thực bản sao, chứng thực chữ ký tại
Điều 2 của Nghị định, cụ thể: “Chứng thực bản sao từ bản chính là việc cơ
quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Điều 5 của Nghị định này căn
cứ vào bản chính để chứng thực bản sao là đúng với bản chính”; “Chứng

thực chữ ký là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Điều 5
của Nghị định này chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản là chữ ký của
người đã yêu cầu chứng thực”.


9
Khái niệm “chứng thực” trong pháp luật hiện hành:
Nghị định số 23/2015/NĐ-CP hiện nay không c điều khoản nào quy
định hay làm rõ khái niệm chứng thực là gì mà chỉ quy định về các việc
chứng thực cụ thể. Theo đ :
Chứng thực bản sao từ bản chính là việc cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền theo quy định tại Nghị định này căn cứ vào bản chính để chứng thực
bản sao là đúng với bản chính (khoản 2, Điều 2)
Chứng thực chữ ký là việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy
định tại Nghị định này chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản là chữ ký của
người yêu cầu chứng thực (khoản 3, Điều 2)
Chứng thực hợp đồng, giao dịch là việc cơ quan có thẩm quyền theo
quy định tại Nghị định này chứng thực về thời gian, địa điểm giao kết hợp
đồng, giao dịch; năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc dấu
điểm chỉ của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch (khoản 4 Điều 2)
Như vậy, về cơ ản, Nghị định này kế thừa các khái niệm về “chứng
thực” của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP và bổ sung thêm quy định mới về
khái niệm “chứng thực hợp đồng, giao dịch”.
Như vậy, trải qua các thời kỳ đến nay, chưa c văn ản pháp luật nào
đưa ra một khái niệm rõ ràng, ao qu t được đúng ản chất của hoạt động
chứng thực, mà chủ yếu đưa ra kh i niệm chứng thực của một việc cụ thể nào
đ . Tuy nhiên, phân tích từ các khái niệm nêu trên thì có thể đưa ra một khái
niệm chung nhất về chứng thực, đ là, Chứng thực là việc các cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền chứng thực xác nhận tính chính xác, tính có thực để bảo
đảm giá trị pháp lý của các giấy tờ, văn bản, chữ ký của cá nhân, các sự kiện,

các thông tin cá nhân nhằm phục vụ cho việc thiết lập, duy trì và bảo vệ các
quan hệ dân sự, kinh tế, hành chính của cá nhân, tổ chức có liên quan cũng
như phục vụ hoạt động quản lý của Nhà nước.
1.1.2. Ý nghĩa của chứng thực
Trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung, hành chính nói riêng ở
nước ta hiện nay, có thể coi chứng thực là một trong những hoạt động hành


10
chính tư ph p do cơ quan nhà nước hoặc do cá nhân ủy quyền nhà nước thực
hiện. Chứng thực là xác nhận tính chính xác, tính có thực của giấy tờ, văn
bản; đảm bảo tính xác thực của bản sao từ bản chính, chữ ký của cá nhân (bao
gồm chữ ký người dịch và các cá nhân nói chung).
Trên thực tế, những giấy tờ, văn ản đã được chứng thực (sau đây
gọi chung là văn ản chứng thực) luôn được sử dụng để phục vụ việc thực
hiện một mục đích cụ thể nào đ . Ví dụ, bản sao giấy tờ, văn ản được
chứng thực từ bản chính để thực hiện các thủ tục kh c như nộp hồ sơ tuyển
sinh, tuyển dụng; hợp đồng, giao dịch được chứng thực là thủ tục chuyển
quyền sở hữu tài sản. Nói cách khác, hoạt động chứng thực đã cung cấp
dịch vụ nhằm tạo giá trị chứng minh điều kiện pháp lý cho các giấy tờ, văn
bản phục vụ cho việc thực hiện các thủ tục khác theo mục đích của các chủ
thể yêu cầu chứng thực.
1.1.2.1. Chứng thực là phương thức hỗ trợ thực hiện quyền con người
Trong cuộc sống, để tồn tại và phát triển, con người cần c c c phương
tiện thiết yếu như lương thực, thực phẩm, các vật dụng, phương tiện, nhà ở…,
và ở xã hội càng phát triển thì nhu cầu của con người về cả vật chất và tinh
thần ngày càng cao và trở nên phong phú, đa dạng. Để đ p ứng nhu cầu trên,
con người cần phải tham gia các mối quan hệ xã hội thông qua các hoạt động
như học tập, lao động, tham gia các giao dịch dân sự…. Hiến pháp của các
quốc gia nói chung và Hiến pháp Việt Nam n i riêng đều ghi nhận những

quyền cơ ản của con người, quyền và nghĩa vụ cơ ản của công dân như:
quyền c nơi ở hợp pháp; quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước; quyền
tham gia quản lý nhà nước và xã hội; quyền khiếu nại, tố cáo; quyền sở hữu
về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản
xuất; quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế; quyền tự do kinh doanh trong
những ngành nghề pháp luật không cấm; quyền làm việc, lựa chọn nghề
nghiệp, việc làm và nơi làm việc; quyền kết hôn, ly hôn; quyền và nghĩa vụ
học tập…. Để thực hiện mỗi quyền trên, để thực hiện n đòi hỏi con người


11
phải thực hiện theo thủ tục nhất định trong trường hợp pháp luật có quy định.
Chứng thực là phương tiện hỗ trợ đắc lực để con người thực hiện các thủ tục
này. Tùy theo từng loại việc cụ thể, hoạt động chứng thực cung cấp phương
tiện dưới hai hình thức như sau:
Một là, chứng thực giúp các chủ gián tiếp thực hiện quyền con người,
quyền và nghĩa vụ của công dân. Ví dụ, bản sao có chứng thực, giấy tờ, văn
bản có chữ ký được chứng thực dùng để thực hiện các thủ tục như đi học, làm
việc hoặc làm các thủ tục để được cấp các giấy tờ hộ tịch, giấy chứng minh
nhân dân, giấy phép lái xe…
Hai là, chứng thực giúp các chủ thể trực tiếp thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của mình như: Sở hữu tài sản, thừa kế, giao kết hợp đồng, giao
dịch, … trong đ c nhiều giao dịch mà pháp luật yêu cầu cần phải công
chứng, chứng thực. Theo quy định của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP thì
“Hợp đồng, giao dịch được chứng thực theo quy định của Nghị định này có
giá trị chứng cứ chứng minh về thời gian, địa điểm các bên đã ký kết hợp
hợp đồng, giao dịch; năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc
dấu điểm chỉ của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch”. Như vậy, khi
giao dịch dân sự đã đ p ứng đủ a điều kiện làm phát sinh hiệu lực cùng
với giao dịch dân sự đ được chứng thực hợp lệ (trong trường hợp pháp

luật yêu cầu phải công chứng, chứng thực) đồng nghĩa với việc giao dịch
dân sự đ ph t sinh hiệu lực trên thực tế.
Hơn nữa, khi các quan hệ và giao dịch của mỗi cá nhân, tô chức mở
rộng, trong trường hợp mà các bên giao dịch, quan hệ không biết rõ thông tin
về nhau thì phát sinh nhu cầu chứng thực tức là nhờ cơ quan nhà nước hoặc tổ
chức chứng nhận tính chính xác và có thực. Như vậy, thông qua việc chứng
thực của c c cơ quan, tổ chức có thẩm quyền chứng thực thì c c thông tin đ
đã c độ tin cậy nhất định, đảm bảo cho việc tham gia các quan hệ và giao
dịch của cá nhân tổ chức.


12
1.1.2.2. Chứng thực là công cụ hỗ trợ hoạt động hành chính có hiệu
quả, giảm phiền hà cho tổ chức, cá nhân
Thứ nhất, đối với bản sao được chứng thực từ bản chính giấy tờ văn
bản, tại Khoản 2 Điều 3 Nghị định số 23/2015/NĐ-

c quy định về “Giá

trị pháp lý bản sao được cấp từ sổ gốc, bản sao được chứng thực từ bản
chính, chữ ký được chứng thực và hợp đồng, giao dịch được chứng thực” thì
“Bản sao được chứng thực từ bản chính theo quy định tại Nghị định này có
giá trị sử dụng thay cho bản chính đã dùng để đối chiếu chứng thực trong các
giao dịch, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”
Theo quy định này thì khi thực hiện chứng thực bản sao từ bản chính,
cơ quan, tổ chức thực hiện chứng thực đã căn cứ vào bản chính để chứng thực
bản sao là đúng với bản chính. Như vậy, thông qua việc đối chiếu bản sao với
bản chính, có chữ ký của người có thẩm quyền và đ ng dấu xác nhận, cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền đã đảm bảo rằng bản sao đúng với bản chính.
Do đ , c c cơ quan, tổ chức khi tiếp nhận hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính

sẽ “yên tâm” tiếp nhận bản sao có chứng thực mà không cần phải yêu cầu
xuất trình bản chính để đối chiếu, kiểm tra, qua đ làm giảm thời gian đi lại
của người dân (không phải đến nộp hồ sơ trực tiếp) mà vẫn đảm bảo độ chính
xác, tin cậy của giấy tờ, văn ản, đặc biệt đối với những trường hợp nộp hồ sơ
đường ưu điện; bên cạnh đ những người dân cũng không lo lắng vì thất lạc
bản chính. Chính vì vậy, nếu sử dụng bản sao có chứng thực một cách hợp lý
sẽ ph t huy được hiệu quả tích cực trong hoạt động này.
Thứ hai, đối với chữ ký được chứng thực, theo quy định của Nghị định
số 23/2015/NĐ-CP, thì “chữ ký được chứng thực theo quy định của nghị định
có giá trị chứng minh người yêu cầu đã ký chữ ký đó, là căn cứ để xác định
trách nhiệm của người ký về nội dung của giấy tờ, văn bản” (khoản 3 Điều 3).
Như vậy, chứng thực chữ ký cũng chính là việc công nhận về ý chí của
người lập và ký giấy tờ, văn ản. Do đ , tiện ích của loại giấy tờ này khi sử
dụng đảm bảo người ký giấy tờ, văn ản không phải đi lại xa xôi vẫn có thể


13
thực hiện ý chí của họ. Chữ ký trong giấy tờ, văn ản được chứng thực sẽ
được sử dụng để chứng minh ý chí của người ký trong giấy tờ, văn ản và
dùng để thực hiện các loại thủ tục hành chính liên quan không chỉ ở trong
nước mà còn ở ngoài nước theo nhu cầu của người sử dụng. Vì vậy, việc
chứng thực chữ ký đã tạo ra công cụ hỗ trợ hiệu quả khi phải thực hiện thủ tục
hành chính tại những vùng cách xa về khoảng c ch địa lý, hoặc cho những
trường hợp người ký muốn ủy quyền cho người khác thay mình thực hiện các
quyền hoặc nghĩa vụ liên quan.
Thứ ba, đối với các bản dịch được chứng thực chữ ký người dịch, thì
thông qua việc chứng thực chữ ký người dịch này từ đảm bảo truyền tải từ
ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tạo độ tin cậy ph p lý cho văn ản, giấy tờ
được dịch. Qua đ , c c cơ quan, tổ chức tiếp nhận giấy tờ, văn ản được dịch
từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt hoặc ngược lại và đã được chứng thực

chữ ký người dịch có thể yên tâm, tin tưởng vào nội dung giấy tờ, văn ản
được dịch. Trong giai đoạn hiện nay, khi nước ta hội nhập ngày càng sâu với
c c nước trong khu vực và trên thế giới thì nhu cầu dịch giấy tờ, văn ản ngày
càng trở nên phổ biến. Để đ p ứng nhu cầu này, đội ngũ dịch thuật đã được
hình thành và ngày càng phát triển. ho đến nay, hầu hết c c hòng Tư ph p
trong cả nước đã xây dựng cho mình một đội ngũ cộng tác viên dịch thuật vừa
đ p ứng tính đầy đủ, chính xác của nội dung của giấy tờ văn ản cần dịch,
vừa đảm bảo tiến độ của thời gian trả kết quả chứng thực chữ ký người dịch.
Hiện nay, c c hòng Tư ph p đang rà so t, sắp xếp lại đội ngũ cộng tác viên
của các phòng sau khi có ý kiến phê duyệt của Sở Tư ph p để đảm bảo tính
chuyên nghiệp trong hoạt động dịch thuật, đ p ứng kịp thời nhu cầu dịch thuật
của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp.
Thứ tư, đối với các hợp đồng, giao dịch được chứng thực, theo quy
định của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP thì “Hợp đồng, giao dịch được chứng
thực theo quy định của Nghị định này có giá trị chứng cứ chứng minh về thời
gian, địa điểm các bên đã ký kết hợp đồng, giao dịch; năng lực hành vi dân


14
sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của các bên tham gia hợp đồng,
giao dịch.” (khoản 4 Điều 3). Như vậy, bên cạnh hoạt động công chứng hợp
đồng, giao dịch do các tổ chức hành nghề công chứng thực hiện thì hoạt động
chứng thực hợp đồng, giao dịch do c c cơ quan nhà nước thực hiện (trước đây
theo Nghị định số 75/2000/NĐ-CP thì thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao
dịch được giao cho Ủy ban nhân dân cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã,
nay theo Nghị định số 23/2015/NĐ-

và cũng để phù hợp với Luật nhà ở

năm 2014 thì thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch được giao cho Ủy

ban nhân dân cấp xã). Ở Việt Nam, khi kinh tế xã hội phát triển còn chưa
đồng đều ở các vùng miền, mạng lưới các tổ chức hành nghề công chứng
chưa phủ khắp để đ p ứng yêu cầu của người dân và doanh nghiệp thì hoạt
động chứng thực đồng hành cùng với hoạt động công chứng trong việc xác
nhận các hợp đồng, giao dịch đã giữ vai trò đặc biệt quan trọng, góp phần
đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người dân.
Như vậy, có thể thấy rõ rằng, hoạt động chứng thực là phương tiện hỗ
trợ đắc lực cho người dân trong thực hiện các giao dịch hoặc thực hiện các thủ
tục hành chính liên quan đến giao dịch của mình. Hay nói cách khác, hoạt
động chứng thực là phương tiện mà thông qua đ c c c nhân, tổ chức thỏa
mãn các quyền, lợi ích hợp pháp có liên quan của mình.
1.1.3. So sánh chứng thực và công chứng
Theo sự phân tích ở trên, chứng thực là việc c c cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền chứng thực xác nhận tính chính xác, tính có thực để bảo đảm giá
trị pháp lý của các giấy tờ, văn ản, chữ ký của cá nhân, các sự kiện, các
thông tin cá nhân nhằm phục vụ cho việc thiết lập, duy trì và bảo vệ các quan
hệ dân sự, kinh tế, hành chính của cá nhân, tổ chức c liên quan cũng như
phục vụ hoạt động quản lý của Nhà nước. Theo Luật công chứng năm 2014
thì “Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công
chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự
khác bằng văn bản, tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của


15
bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng
nước ngoài sang tiếng Việt mà theo quy định của pháp luật phải công chứng
hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”1.
Thứ nhất, về bản chất, “công chứng” là hoạt động chứng nhận tính xác
thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch, sự chính xác của bản dịch còn chứng
thực là hoạt động xác nhận về hình thức (như đã phân tích ở trên). Xét về mặt

ngữ nghĩa, thì hai từ “chứng nhận” và “x c nhận” c kh c nhau về mức độ cao
thấp trong mối liên hệ với thực tế và khác nhau về quy trình thao t c. “X c
nhận” c nghĩa là thừa nhận là đúng sự thật. Thông thường, “x c nhận” chỉ
mang tính chất bàn giấy (ví dụ: xác nhận chữ ký, xác nhận lời khai…). òn
“chứng nhận” c nghĩa là nhận cho để làm bằng là c , là đúng sự thật2. Để
chứng nhận một sự việc, thông thường người chứng nhận phải qua một loạt
thao tác kiểm tra, x c minh, đối chiếu.v.v… (ví dụ: chứng nhận hợp đồng…).
Tóm lại, có thể hiểu là hành vi xác nhận có tính chất đơn giản hơn, ít phức tạp
hơn hành vi chứng nhận. Nếu để thực hiện hành vi công chứng, công chứng
viên phải thực hiện một chuỗi c c thao t c như: x c định tư c ch chủ thể của
các bên trong hợp đồng, giao dịch; x c định đúng đối tượng, mục đích của
hợp đồng, giao dịch; giúp các bên trong hợp đồng, giao dịch thể hiện ý chí của
mình một c ch rõ ràng, chính x c, đúng ph p luật; chứng nhận tính xác thực,
tính hợp pháp về nội dung của hợp đồng, giao dịch. òn đối với công chứng
bản dịch thì thông qua trách nhiệm liên đới giữa công chứng viên và người
dịch thì công chứng viên phải chứng nhận và chịu trách nhiệm về tính đầy đủ,
chính xác của bản dịch trước kh ch hàng. Nhưng khi thực hiện hành vi chứng
thực, trong chứng thực bản sao từ bản chính, người thực hiện chứng thực chỉ
đơn thuần tiếp nhận, kiểm tra, đối chiếu bản sao với bản chính; khi thực hiện
chứng thực chữ ký, người thực hiện chứng thực chỉ xác nhận đ là chữ ký của
người yêu cầu chứng thực mà không chứng nhận về nội dung giấy tờ, văn ản
mà người yêu cầu chứng thực ký vào. ũng tương tự như vậy, khi chứng thực
1
2

Khoản 1 Điều 2 Luật công chứng năm 2014
Viện ngôn ngữ, Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, năm 1997


16

chữ ký người dịch, người thực hiện chứng thực chỉ xác nhận chữ ký trên bản
dịch là chữ kí của người dịch mà không xác nhận và chịu trách nhiệm về sự
chính xác của bản dịch. Rõ ràng hơn nữa, khi thực hiện chứng thực hợp đồng,
giao dịch người thực hiện chứng thực chỉ chứng nhận hành vi pháp lý là sự
giao kết hợp đồng giữa các bên xảy ra mà không xác nhận và không chịu trách
nhiệm về nội dung của hợp đồng, giao dịch đ .
Tuy nhiên, có thể thấy rằng, sự phân biệt trên đây cũng chỉ mang tính chất
tương đối, bởi như đã phân tích về khái niệm chứng thực cũng ao hàm cả ý
nghĩa chứng nhận. Do vậy, sự khác biệt giữa công chứng và chứng thực, hay
giữa chứng nhận và xác nhận, suy cho cùng, cũng chỉ c ý nghĩa tương đối. Bởi
xét một cách tổng thể, khi xác nhận hay chứng nhận một hiện tượng, sự việc, sự
kiện thì không những phải nhận xét, đ nh gi , nhìn nhận nó ở hình thức thể hiện,
biểu hiện (yếu tố bên ngoài), mà còn phải xem xét về bản chất, nội dung của nó
(yếu tố bên trong). Tức là phải xem xét nó trong một tổng thể thống nhất giữa nội
dung và hình thức, không thể tách bạch hình thức ra khỏi nội dung.
Thứ hai, về đối tượng, theo quy định của pháp luật hiện hành thì đối
tượng của công chứng là các hợp đồng, giao dịch, bản dịch giấy tờ, văn ản
còn đối tượng của chứng thực là bản sao giấy tờ, văn ản, chữ ký cá nhân, hợp
đồng, giao dịch.
Thứ ba, về chủ thể thực hiện, cũng theo quy định pháp luật hiện hành
thì chủ thể thực hiện công chứng là Phòng công chứng hoặc Văn phòng công
chứng với người thực hiện công chứng là các ông chứng viên. Còn chủ thể
thực hiện chứng thực là hòng Tư ph p cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã,
ơ quan đại diện, Tổ chức hành nghề công chứng với người thực hiện chứng
thực là Trường phòng, h Trưởng phòng hòng Tư ph p; hủ tịch, Phó Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp xã; Viên chức ngoại giao lãnh sự; Công chứng viên
(chỉ thực hiện chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký (trừ chứng
thực chữ ký người dịch)3.

3


Khoản 1 Điều 77 Luật công chứng năm 2014; hoản 4 Điều 5 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP


17
Thứ tư, về giá trị pháp lý, theo quy định hiện hành thì hợp đồng, giao
dịch, bản dịch được công chứng có giá trị chứng minh về cả hình thức và nội
dung. òn văn ản, hợp đồng, giao dịch được chứng thực chỉ có giá tri chứng
minh về hình thức. Sự khác biệt này phái sinh từ sự khác biệt giữa bản chất và
quá trình thực hiện hai loại thủ tục công chứng và chứng thực như đã phân
tích ở trên.
1.2. Pháp luật về chứng thực ở Việt Nam
1.2.1. Khái niệm
Hiện nay, trong c c văn ản pháp luật (như Bộ Luật dân sự, Luật Đất
đai, Luật Nhà ở…) và c c tài liệu, sách báo pháp lý, thuật ngữ “ph p luật về
chứng thực” được sử dụng khá phổ biến. Tuy nhiên, việc sử dụng thuật ngữ
này trong các nghiên cứu chưa được x c định rõ ràng. Về phương diện lý
luận, có thể hiểu Pháp luật về chứng thực là tổng hợp các quy phạm pháp luật
do cơ quan, cá nhân có thẩm quyền của Nhà nước ban hành và bảo đảm thực
hiện để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong hoạt động chứng thực.
Pháp luật về chứng thực có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, pháp luật về chứng thực là pháp luật về hình thức (pháp luật
về thủ tục) và có mối liên hệ chặt chẽ với pháp luật về nội dung thuộc các
chuyên ngành khác.
Pháp luật về chứng thực là pháp luật về thủ tục, do đ phụ thuộc sâu
sắc vào pháp luật nội dung thuộc c c chuyên ngành kh c như ph p luật về đất
đai, nhà ở... Pháp luật về chứng thực là pháp luật về thủ tục, vì vậy pháp luật
về chứng thực phải

m s t c c quy định mang tính “nội dung” của pháp luật


thuộc các chuyên ngành khác. Nếu pháp luật về chứng thực không bám sát
nội dung của pháp luật chuyên ngành, sẽ dẫn đến tình trạng chồng chéo, mâu
thuẫn và kết quả của hoạt động chứng thực là văn ản chứng thực có thể bị vô
hiệu. Ví dụ: Pháp luật về Đất đai (ph p luật nội dung) quy định người có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất mà trên đ c ghi còn đang nợ tiền sử dụng đất
thì không được thực hiện giao dịch, vì vậy nếu người thực hiện chứng thực


18
vẫn chứng thực hợp đồng, giao dịch đối với trường hợp này thì hợp đồng,
giao dịch đ sẽ bị coi là vô hiệu.
Thứ hai, pháp luật về chứng thực là “cầu nối”, là điểm giao thoa trong
hệ thống pháp luật Việt Nam.
Hệ thống pháp luật Việt Nam rất phong phú, đa dạng, có thể n i lĩnh
vực nào của cuộc sống cũng được điều chỉnh bằng luật pháp: từ đất đai, nhà
ở, hợp đồng, giao dịch, tuyển dụng, tuyển sinh… Do đ , c thể nói, pháp luật
về chứng thực có mối liên hệ chặt chẽ với tất cả c c văn ản trong hệ thống
pháp luật, đặc biệt pháp luật về về dân sự, đất đai, nhà ở, hôn nhân và gia
đình. hính vì vậy, nhiều người làm công t c tư pháp cho rằng lĩnh vực chứng
thực là một lĩnh vực “kh ”, đòi hỏi người làm chứng thực phải có phạm vi
hiểu biết rộng đối với mọi lĩnh vực. Bởi vì, chỉ căn cứ vào riêng bản thân quy
định của pháp luật về chứng thực thì hầu hết trong nhiều trường hợp không
thể giải quyết được một việc chứng thực. Bởi vì, việc chứng thực luôn được
đặt nằm trong một quy trình của thủ tục hành chính để thực hiện quyền của cá
nhân, tổ chức. Nói cách khác là việc chứng thực luôn để nhằm thực hiện một
việc tiếp theo cụ thể nào đ , ví dụ, chứng thực bản sao bằng tốt nghiệp để xin
việc…; chứng thực chữ ký người dịch để nộp hồ sơ kết hôn, xin việc…;
chứng thực hợp đồng ủy quyền, giấy ủy quyền để nhờ người khác giải quyết
một việc cụ thể… hoặc chứng thực hợp đồng, giao dịch để hoàn thành quy

trình chuyển quyền sở hữu tài sản. Vì vậy, có thể n i trong đời sống dân sự có
ao nhiêu lĩnh vực con người phải tiếp cận tới thì gần như c

ấy nhiêu lĩnh

vực hoạt động chứng thực phải tiếp cận tới.
Việc thực hiện các thủ tục hành chính, đặc biệt việc thực hiện các giao
dịch về dân sự, đất đai, nhà ở … cần tới công cụ không thể thiếu – đ là lòng
tin – là sự xác nhận. Vì vậy, pháp luật chứng thực là pháp luật tạo ra “lòng
tin”. Sự tin tưởng lẫn nhau và không lừa dối, đ là sự cần thiết, điều kiện
kông thể thiếu để tạo lập các giao dịch hoặc giải quyết các thủ tục. Vì vậy,
pháp luật về chứng thực chính là công cụ ph p lý để đảm bảo lòng tin. Có thể


19
n i, đây là một công cụ rất cần thiết và hết sức quan trọng. Công cụ này một
mặt đảm bảo được lòng tin, ngăn ngừa sự lừa dối giữa các bên, mặt khác
phòng ngừa tranh chấp, vi phạm pháp luật, góp phần ổn định xã hội. Xã hội
càng phát triển, con người càng có những công cụ hiện đại, khoa học để tạo ra
lòng tin trong thực hiện các giao dịch. Vì vậy, pháp luật về chứng thực cũng
đang từng ước chuyển mình để tạo ra những công cụ hữu ích hơn, thuận tiện
hơn. Những phương tiện hiện đại như chứng thực điện tử, chứng thực chữ ký
điện tử (tuy những hoạt động này hiện nay chưa thuộc đối tượng điều chỉnh
của pháp luật về chứng thực mà chúng ta đang đề cập đến) cũng ắt đầu được
nghiên cứu, khai thác và sử dụng, ngày càng làm phong phú hơn hoạt động
chứng thực nói chung - hoạt động tạo ra lòng tin.
Chính vì những lẽ đ , ph p luật về chứng thực đã trở thành công cụ rất
quan trọng trong việc thực hiện c c văn ản quy phạm pháp luật trong hệ
thống pháp luật nói chung. Vì vậy, yêu cầu đối với công tác xây dựng văn ản
quy phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng thực cũng rất cao, đ là đòi hỏi văn

bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng thực phải đưa ra được những
quy định vừa đảm bảo phù hợp với bản chất của hoạt động chứng thực, vừa
đảm bảo phù hợp với các chuyên ngành pháp luật kh c c liên quan để tránh
tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo.
1.2.2. Quá trình phát triển pháp luật về chứng thực
1.2.3.1. Giai đoạn từ khi thực dân Pháp đô hộ Đông Dương đến
năm 1975
Cách mạng Th ng T m thành công (năm 1945), ộ m y Nhà nước thực
dân - phong kiến bị đập tan, cùng với việc xây dựng bộ m y nhà nước kiểu
mới. Ngày 15/11/1945, Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời của nước
Việt Nam Dân chủ cộng hoà đã an hành Sắc lệnh số 59/SL về việc ấn định
thể lệ thị thực các giấy tờ. Đây là văn ản có giá trị pháp lý cao của Chính
phủ cách mạng lâm thời được an hành để x c định thẩm quyền thị thực,
phạm vi thẩm quyền địa hạt, trách nhiệm của người thị thực và lệ phí thị thực.


20
Theo quy định của Sắc lệnh này trong các làng, quyền thị thực các giấy tờ
trước do hương chức trong làng thi hành nay thuộc về ủy ban nhân dân của
làng; ở các thành phố, quyền thị thực trước do trưởng phố hay hộ phố thi
hành, nay cũng thuộc về ủy ban nhân dân hàng phố. Chủ tịch Ủy ban nhân
dân sẽ phụ trách việc thị thực này và phải đề cử một hay hai ủy viên để thay
mặt mình khi vắng mặt hoặc khi chính mình là người đương sự có giấy cần
đem thị thực hoặc khi người đương sự đối với mình có thân thuộc về trực hệ
như cha, mẹ, ông, bà... Các Ủy ban có quyền thị thực tất cả các giấy má trong
địa phương mình.
Ngày 29/02/1952, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà đã ký
Sắc lệnh số 85/SL quy định thể lệ trước bạ về việc mua,

n, cho, đổi nhà


cửa, ruộng đất. Theo Sắc lệnh này, thẩm quyền thị thực các giấy tờ liên quan
đến chuyển dịch bất động sản, đất đai giao cho Uỷ ban kháng chiến hành
chính các cấp thực hiện. Theo đ , thì trước khi đem trước bạ văn tự các việc
mua

n, cho và đổi nhà cửa, ruộng đất phải Ủy ban kháng chiến hành chính

xã hay thị xã nhận thực chữ ký của c c người mua, bán, cho, nhận đổi và nhận
thực những người

n, cho hay đổi là chủ những nhà cửa, ruộng đất đem

n,

cho hay đổi. Việc nhận thực này không phải trả một khoản tiền nào.
Ngày 29/11/1954 Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã ký an hành Dụ số 43
về Quy chế Công chứng. Đây là một văn ản về tổ chức và hoạt động công
chứng mang tính kế thừa c c quy định về công chứng tại miền Nam trước đ
và bị ảnh hưởng rất nhiều công chứng của h p. Sau năm 1954 ở miền Nam,
chính quyền Sài Gòn vẫn duy trì mô hình công chứng của Pháp tại Việt Nam
và tổ chức lại từ 3 Phòng Công chứng cũ của người Pháp thành một Phòng
Công chứng và bổ nhiệm các công chứng viên là người Việt Nam thay các
công chứng viên là người Pháp. Phòng Công chứng này hoạt động cho đến
trước ngày miền Nam được giải phóng (30/4/1975). Phòng Công chứng được
đặt dưới sự quản lý của Bộ trưởng Bộ Tư ph p của Việt Nam Cộng Hoà.


21
1.2.2.2. Giai đoạn 1975-1986

Ở Miền Nam, sau khi miền Nam được giải ph ng, c c cơ quan hành
chính của chính quyền cũ ị xoá bỏ, thay vào đ là c c Uỷ ban tiếp quản có
nhiệm vụ điều hành rất nhiều công việc hành chính ngổn ngang, ổn định cuộc
sống, khắc phục những viết thương chiến tranh. Công cuộc cải tạo xã hội chủ
nghĩa được đẩy mạnh với tốc độ nhanh trong các vùng mới giải phóng. Sau
khi Phòng công chứng tại Sài gòn ngừng hoạt động, những người làm công
chứng, thị thực tại Phòng Công chứng đã di tản ra nước ngoài hoặc đã chuyển
sang làm các nghề mới.

c cơ quan hành chính, c c toà n phải trải qua quá

trình tổ chức lại cho phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. Nhà nước
cũng chưa c điều kiện để thành lập lại một hệ thống cơ quan công chứng
chuyên trách phù hợp với điều kiện và tình hình mới. Các việc công chứng,
thị thực được giao phân tán cho nhiều cơ quan kh c nhau thực hiện như: Uỷ
ban nhân dân cấp xã, Ủy ban nhân dân cấp huyện, toà n, công an, cơ quan
địa chính, cơ quan nhà đất.
Ở miền Bắc, cuộc chiến tranh biên giới chống bọn Pônpot Campuchia
(1975-1979) và chống lại sự tiến công của Trung Quốc vào 6 tỉnh phía bắc
Việt Nam, cùng với sự cấm vận của Mỹ đới với Việt Nam, đã không cho phép
Nhà nước Việt Nam đẩy nhanh công cuộc xây dựng cộng hòa xã hội. Việc
kiện toàn và phát triển các thể chế trong đ c thể chế tư ph p, luật sư, công
chứng, thừa phát lại, mặc dù được quan tâm của Nhà nước và có sự giúp đỡ
nhiệt tình của Liên Xô và c c nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, song được tiến
hành rất chậm do nhiều nguyên nhân như: cơ sở hạ tầng kinh tế còn thấp, đội
ngũ c n

ộ, công chức được đào tạo chuyên ngành luật còn qu ít, chưa c sự

hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm của c c nước tiến tiến trên thế giới và khu vực.

Trong khi chờ ban hành Bộ luật dân sự và c c văn ản về tổ chức, kiện toàn
hệ thống c c cơ quan hành chính, tư ph p trong đ c luật sư, công chứng, thì
các việc công chứng, thị thực cũng vẫn được giao phân tán cho nhiều cơ quan
khác nhau thực hiện như Uỷ ban nhân dân cấp xã, Uỷ ban nhân dân cấp
huyện, Toà n, công an, cơ quan địa chính, cơ quan nhà đất.


×