Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và thực tiễn thực hiện tại các viện kiểm sát trên địa bàn thành phố hà nội (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (990.59 KB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
---------&---------

LÊ THÙY LINH

KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÁC
VIỆN KIỂM SÁT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành : Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số

: 60380103

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Bùi Thị Huyền

HÀ NỘI – NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
---------&---------


LÊ THÙY LINH

KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÁC
VIỆN KIỂM SÁT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành : Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số

: 60380103

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Bùi Thị Huyền

HÀ NỘI – NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS Bùi Thị Huyền – Giảng viên Khoa Pháp luật Dân
sự, Trường Đại học Luật Hà Nội. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Thùy Linh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS: Bộ luật dân sự

BLTTDS: Bộ luật Tố tụng dân sự
CHXHCN : Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
KSV: Kiểm sát viên
KSVTTPL: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật
TAND: Tòa án nhân dân
TMCP: Thương mại cổ phần
TTDS : Tố tụng dân sự
UBND: Ủy ban nhân dân
VKS: Viện kiểm sát
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân.
XHCN: Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1.Tính cấp thiết của đề tài ...................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 3
3.1 Đối tượng nghiên cứu....................................................................................... 3
3.2 Phạm vi nghiên cứu .......................................................................................... 3
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ................................................. 3
5. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 4
6. Kết cấu của luận văn .......................................................................................... 4
CHƢƠNG 1........................................................................................................... 5
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO
PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ..................................................... 5
1.1 Khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự .................. 5
1.2 Cơ sở của việc xây dựng các quy định pháp luật về kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng dân sự ........................................................................ 9
1.2.1 Cơ sở lý luận ................................................................................................. 9

1.2.2 Cơ sở thực tiễn ............................................................................................ 13
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng tới kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng dân sự ........................................................................................................... 16
1.3.1. Tính hợp lý của các quy định về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
tố tụng dân sự ....................................................................................................... 16
1.3.2. Chủ trương cải cách tư pháp của Đảng về chức năng, nhiệm vụ của
Viện Kiểm sát trong tố tụng dân sự ...................................................................... 17
1.3.3. Trình độ, năng lực của Kiểm sát viên, Kiểm tra viên ................................ 18


1.3.4. Số lượng các vụ án dân sự và tình hình khiếu nại, tố cáo trong tố tụng
dân sự ................................................................................................................... 19
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1. .................................................................................. 20
CHƢƠNG 2......................................................................................................... 21
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ KIỂM SÁT VIỆC
TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ........................... 21
2.1 Kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại Tòa án cấp sơ thẩm ............................. 21
2.1.1. Kiểm sát việc xem xét đơn khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự ...................... 21
2.1.2 Kiểm sát các bản án, quyết định tố tụng ..................................................... 24
2.1.3 Tham gia phiên toà giải quyết vụ án dân sự ............................................... 27
2.2 Kiểm sát các hoạt động tại Tòa án cấp phúc thẩm ......................................... 35
2.3. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật thông qua việc kháng nghị và tham gia
phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm ....................................................................... 38
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ................................................................................... 41
CHƢƠNG 3......................................................................................................... 42
THỰC TIỄN KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ TẠI CÁC VIỆN KIỂM SÁT TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ KIẾN NGHỊ ........................................................ 42
3.1 Thực tiễn kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự của các
Viện kiểm sát trên địa bàn thành phố Hà Nội ...................................................... 42

3.1.1. Khái qt về đặc điểm, tình hình cơng tác kiểm sát dân sự trên địa bàn
thành phố Hà Nội ................................................................................................. 42
3.1.2 Thực tiễn kiểm sát việc thụ lý vụ án dân sự của Tòa án của các Viện
kiểm sát trên địa bàn thành phố Hà Nội .............................................................. 44
3.1.3 Thực tiễn thực hiện việc kiểm sát các bản án, quyết định .......................... 46


3.1.4 Thực tiễn tham gia phiên tòa của các Viện kiểm sát nhân dân trên địa
bàn thành phố Hà Nội .......................................................................................... 52
3.1.5 Thực tiễn thực hiện thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa
án tại các Viện kiểm sát trên địa bàn thành phố Hà Nội ..................................... 58
3.2 Các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện có hiệu
quả hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong Tố tụng dân sự ............... 65
3.2.1 Các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng dân sự ............................................................................................. 65
3.2.2 Các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự tại các Viện kiểm sát trên
địa bàn thành phố Hà Nội .................................................................................... 70
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ................................................................................... 73
KẾT LUẬN CHUNG ......................................................................................... 74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống cơ quan Nhà nước ta Viện kiểm sát nhân dân (VKSND)
có vai trị quan trọng trong việc bảo đảm pháp chế thống nhất, góp phần thực

hiện tốt nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước trong mỗi giai đoạn của cách
mạng của đất nước. Trước yêu cầu nhiệm vụ của giai đoạn mới, trong những
năm qua, cùng với việc thực hiện cải cách, hoàn thiện bộ máy Nhà nước nói
chung, Đảng và Nhà nước ta đã và đang đẩy mạnh thực hiện chủ trương cải cách
tư pháp, trong đó có tổ chức và hoạt động của VKSND. Đảng và Nhà nước ta
yêu cầu VKSND tập trung thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND là vấn đề có tính đặc
thù, xuất phát từ yêu cầu khách quan, gắn liền với quá trình hình thành và phát
triển của VKSND và được thực hiện trong một số lĩnh vực, trong đó có hoạt
động kiểm sát việc thuân theo pháp luật (KSVTTPL) trong tố tụng dân sự
(TTDS). Xét về mặt lịch sử, ở nước ta, thực chất sự tham gia của VKS vào quá
trình TTDS giải quyết các vụ việc dân sự đã được ghi nhận từ thời kỳ cơ quan
Công tố - tiền thân của VKSND. Trải qua các giai đoạn phát triển của đất nước,
vị trí, vai trị của VKSND trong TTDS được ghi nhận ở những mức độ khác
nhau, từ việc quy định những quyền hạn của VKS trong TTDS rải rác ở các văn
bản pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi hành đến việc khẳng định, ghi nhận
KSVTTPL trong TTDS là một trong những nguyên tắc cơ bản của TTDS và là
cơ sở để quy định trách nhiệm, thẩm quyền cụ thể của VKSND trong TTDS.
Xét thực tiễn thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) trong thời gian
qua cho thấy, quy định của BLTTDS về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
TTDS đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, chưa tạo điều kiện cho Viện kiểm sát
thực hiện được đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định của Hiến
pháp và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Do sự hạn chế phạm vi tham gia
tố tụng dân sự của Viện kiểm sát, Viện kiểm sát chủ yếu chỉ thực hiện chức năng
kiểm sát thông qua việc nghiên cứu các Thông báo, Quyết định, Bản án của Tòa
án nên dẫn tới công tác kiểm sát án dân sự nhằm phát hiện và khắc phục những
sai lầm, vi phạm của Toà án còn chưa kịp thời và hiệu quả.



2

Với những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng dân sự và thực tiễn thực hiện tại các Viện kiểm sát
trên địa bàn thành phố Hà Nội” làm đề tài thực hiện Luận văn thạc sĩ luật học
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu cho thấy, trước đây đã có một số cơng trình nghiên cứu,
bài viết về VKSND, như: ”Về việc tham gia phiên tòa dân sự của Viện kiểm sát
nhân dân ” của tác giả Trần Văn Trung đăng trên tạp chí Luật học số 8 năm
2005, ”Vị trí, vai trị của VKS trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư
pháp”, của tập thể tác giả, do TS. Khuất Văn Nga làm chủ biên, Nhà xuất bản
Tư pháp 2008; “Tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của VKS trong tiến
trình cải cách tư pháp” của TS. Lê Hữu Thể, Tạp chí Kiểm sát số 14-16/2008;
“Một số ý kiến về đổi mới tổ chức VKS trong chiến lược cải cách tư pháp” của
PGS. TS. Trương Đắc Linh, Tạp chí Kiểm sát số 14-16/2008; “Bàn về thẩm
quyền khởi tố (khởi kiện) của VKS trong tố tụng dân sự” của TS. Nguyễn Ngọc
Khánh, Tạp chí Kiểm sát số 24/2010;”Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động
tố tụng dân sự và thực tiễn” của tác giả Trần Xuân Hách đăng trên Tạp chí Tịa
án nhân dân số 19 năm 2012; ” Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác kiểm
sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự” của Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hịa
Bình đăng trên tạp chí Kiểm sát số 7 năm 2016, đề tài ”Sự tham gia tố tung của
Viện kiểm sát nhân dân trong Tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Võ Thị
Phượng (Luận văn thạc sỹ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2011), đề
tài ”Nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự” của tác
giả Nguyễn Kim Ngân (Luận văn thạc sỹ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội
năm 2016), đề tài ” Sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong Tố tụng dân
sự và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Lạng Sơn” (Luận văn thạc sỹ luật học, trường
Đại học Luât Hà Nội năm 2016).
Tuy nhiên, những cơng trình này chủ yếu tập trung nghiên cứu các vấn đề

chung về chức năng, nhiệm vụ, mơ hình tổ chức bộ máy và một số quyền hạn
của VKSND trong TTDS mà chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách hệ
thống về các quy định trong pháp luật tố tụng dân sự, đặc biệt là Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015 (BLTTDS năm 2015) về kiểm sát việc tuân theo pháp luật


3

trong Tố tụng dân sự và thực tiễn thực hiện tại các Viện kiểm sát trên địa bàn
Thành phố Hà Nội.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về
kiểm sát việc tuân theo pháp luật, trong đó chủ yếu là quy định tại các Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015 và thực tiễn thực hiện tại các Viện kiểm sát trên địa bàn
thành phố Hà Nội để từ đó tìm hiểu một số những vướng mắc, bất cập trong thực
tiễn tham gia tố tụng dân sự. Đề xuất và luận chứng những quan điểm, giải pháp
chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng về việc tham gia tố tụng dân sự tại Viện kiểm
sát nhân dân.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của Luận văn thạc sỹ luật học, luận văn giới hạn phạm
vi nghiên cứu công tác kiểm sát vụ án dân sự sẽ đi sâu vào công tác kiểm sát việc
tuân theo pháp luật ở các Viện kiểm sát nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội
thể mà không tiếp cận nghiên cứu về công tác kiểm sát việc dân sự và kiểm sát
thi hành án dân sự. Luận văn có những nghiên cứu, đánh giá tổng quan về hoạt
động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và từ đó lồng ghép
phân tích về thực tiễn thực hiện tại các Viện kiểm sát nhân dân trên địa bàn
thành phố Hà Nội trong những năm gần đây.
Việc xác định giới hạn và định hướng nghiên cứu này thực sự có ý nghĩa
thiết thực và phục vụ trực tiếp cho công tác kiểm sát án dân sự tại địa phương

nơi học viên công tác.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận:
Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam về tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền
của dân, do dân, vì dân đặc biệt là các quan điểm của Đảng chỉ đạo về cải cách
tư pháp.
- Phương pháp nghiên cứu:


4

Luận văn sử dụng phương pháp của triết học duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử Mác xít, trong đó chú trọng các phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực
tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lịch sử cụ thể. Ngồi ra
cịn sử dụng các phương pháp của bộ môn khoa học khác như thống kê, so sánh.
5. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận về việc kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực trạng pháp luật và thực
tiễn thực hiện pháp luật tại các Viện kiểm sát Nhân dân trên địa bàn Thành phố
Hà Nội và từ đó đề xuất giải pháp hồn thiện các quy định của pháp luật và nâng
cao hiệu quả thực hiện công tác kiểm sát án dân sự của Viện kiểm sát.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 03 chương.
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng dân sự
- Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng dân sự

- Chương 3: Thực tiễn kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại các Viện kiểm
sát nhân dân trên địa bàn Thành phố Hà Nội và kiến nghị


5

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP
LUẬT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1 Khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự
Ở nước CHXHCN Việt Nam, “Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự
phân cơng và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”1. Việc thi hành có hiệu lực chức năng
nhiệm vụ của mình, với sự phối hợp và hiệp đồng chặt chẽ giữa hệ thống các cơ
quan lập pháp, hành pháp và tư pháp có vị trí, vai trị quan trọng để tạo nên sức
mạnh tổng hợp của quyền lực Nhà nước. Các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
(VKS), Toà án, Cơ quan thi hành án đều có nhiệm vụ chung là bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa (XHCN), bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ tài sản của Nhà nước,
của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của cơng
dân, trong đó, VKS được thành lập như một hệ thống cơ quan chuyên môn, chịu
trách nhiệm trước Quốc hội và thực hiện chức năng kiểm sát do Quốc hội giao
cho.
TTDS là toàn bộ hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng, người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan Nhà nước, tổ chức khác
nhằm giải quyết vụ việc dân sự nhanh chóng, kịp thời và đúng pháp luật, qua đó
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức. Quá trình TTDS là quá trình hoạt động thực hiện pháp luật (q trình giải
quyết vụ việc dân sự) ln phải tuân theo nguyên tắc, trình tự, thủ tục do pháp
luật tố tụng dân sự quy định.
Trong quá trình đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, Hiến

pháp 2013 đã xác định vai trị của VKSND. Theo đó, VKSND là một hệ thống
cơ quan có vị trí độc lập trong bộ máy nhà nước, được tổ chức thành một hệ
thống từ trung ương xuống địa phương (cấp tỉnh và huyện), có chức năng thực
hành quyền cơng tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, bảo đảm cho pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013) (2013), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội
1


6

Xuất phát từ chức năng chung của ngành kiểm sát, hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự của VKSND nhằm kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tồn bộ q trình tố tụng, bảo đảm tính pháp chế trong
các phán quyết của Tồ án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước cũng
như mọi thành viên trong xã hội. Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của VKSND là tất yếu và khách quan, nhằm đáp ứng yêu cầu về bảo đảm sự
tuân thủ theo pháp luật trong tố tụng dân sự của Toà án – cơ quan tư pháp có
thẩm quyền xét xử phần lớn các vụ việc dân sự, đồng thời bảo đảm quyền của
con người, quyền công dân trong lĩnh vực dân sự.
Khác với pháp luật tố tụng hình sự giải quyết quan hệ giữa một bên là
Nhà nước, đại diện cho lợi ích cơng và một bên là người phạm tội, pháp luật
TTDS giải quyết những tranh chấp các lợi ích tư giữa các đương sự. Mục đích
trực tiếp của pháp luật TTDS là bảo vệ lợi ích tư của các đương sự nên một trong
những nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTDS là trao quyền tự quyết cho đương
sự - chủ thể của các lợi ích. Các chủ thể tiến hành tố tụng chỉ thực hiện các
nhiệm vụ làm sáng tỏ vụ việc để giải quyết trên cơ sở pháp luật chứ không thay
mặt cho đương sự quyết định những lợi ích của chính họ.
Trong mối quan hệ giữa kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng

dân sự với quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự thì:
Mọi cá nhân có quyền tự mình lựa chọn những phương thức giải quyết
tranh chấp dân sự miễn sao không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Những việc
pháp giải quyết tranh chấp thay thế như hịa giải (ngồi tố tụng), thương lượng,
trọng tài… đều được khuyến khích. Trong trường hợp khơng thỏa mãn với
những giải pháp đó, các chủ thể có quyền u cầu Tịa án giải quyết theo trình tự
TTDS để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Trong suốt quá trình tố tụng kể từ khi khởi kiện đến trước khi kết thúc
phiên tòa, các đương sự có quyền thay đổi, bổ sung, rút bớt hay bãi bỏ yêu cầu
của mình. Nhằm đảm bảo cho quá trình tố tụng được diễn ra theo thời hạn luật
định và nhằm bảo vệ lợi ích của đương sự khác, pháp luật cũng có những quy
định ngăn ngừa sự lạm dụng quyền tự quyết định và định đoạt của đương sự. Đó
là trường hợp đương sự khơng thể tự ý thay đổi, bổ sung yêu cầu nếu việc thay


7

đổi, bổ sung yêu cầu đó diễn ra tại phiên tòa mà vượt quá giới hạn đã khởi kiện
ban đầu.
Tòa án có trách nhiệm phải đảm bảo cho đương sự thực hiện quyền tự
quyết định và định đoạt của họ. Cụ thể, Tòa án phải thụ lý vụ án để giải quyết
nếu khơng có căn cứ trả đơn, Tịa án chỉ giải quyết trong phạm vi mà đương sự
yêu cầu chứ khơng thể tự mình giải quyết ngồi phạm vi đó, Tịa án phải chấp
nhận u cầu của đương sự nhờ luật sư hay người khác khi đủ điều kiện làm
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
VKSND tham gia vào quá trình TTDS giải quyết vụ việc dân sự với tư
cách là cơ quan tiến hành tố tụng, nhân danh nhà nước kiểm sát việc tuân theo
pháp luật đối với các chủ thể trong quá trình tố tụng giải quyết vụ việc dân sự
nhằm bảo đảm hoạt động TTDS được thực hiện theo đúng các nguyên tắc và quy
định cụ thể của pháp luật, bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền

và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, đứng về lẽ phải chứ khơng phải đứng
về lợi ích của một bên đương sự nào, đặc biệt là bảo vệ những người yếu thế.
Trong q trình kiểm sát, VKSND có trách nhiệm áp dụng các biện pháp do
BLTTDS quy định để loại bỏ yếu tố vi phạm pháp luật của các chủ thể tham gia
vào quá trình TTDS giải quyết vụ việc dân sự, trong đó có việc cản trở, hạn chế
đương sự thực hiện quyền quyết định và tự định đoạt. Ngay cả khi quyền quyết
định và tự định đoạt của các đương sự thực hiện trái pháp luật, trái đạo đức xã
hội, xâm phạm đến lợi ích xã hội hoặc của người khác thì hoạt động kiểm sát
cũng can thiệp để loại trừ.
Như vậy, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS là cơ chế bảo đảm
thực hiện nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự và bảo đảm
sự kết hợp hài hòa giữa quyền quyết định và tự định đoạt của các đương sự với
vai trị tích cực và kiểm sốt, can thiệp từ phía Nhà nước.
Trong suốt q trình tham gia kiểm sát việc giải quyết vụ, việc dân sự,
VKSND được ghi nhận là cơ quan tiến hành tố tụng và được giao nhiệm vụ thực
hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan tư pháp. Hoạt


8

động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự có những đặc điểm
sau đây:
- Thứ nhất, VKSND là cơ quan duy nhất có quyền kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng dân sự.
Theo Hiến pháp và pháp luật hiện hành, VKSND là cơ quan có chức năng
thực hành quyền cơng tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Với chức năng,
nhiệm vụ của mình, VKSND thực hiện quyền lực Nhà nước trực tiếp tham gia
giám sát các hoạt động tư pháp góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, quyền làm
chủ của nhân dân; bảo đảm trật tự xã hội.
- Thứ hai, VKSND thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS

của mình thơng qua hoạt động của Viện trưởng VKSND, Kiểm sát viên và Kiểm
tra viên các cấp và phải tuân thủ những quy định về trình tự, thủ tục do pháp
luật quy định.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND trong TTDS được hiểu là
quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong TTDS. Tuy nhiên,
VKSND không thể trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn pháp luật giao
cho mà nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong TTDS được thực hiện thông qua
hoạt động của các chức danh pháp lý cụ thể, đó là Viện trưởng, Kiểm sát viên và
Kiểm tra viên VKSND các cấp. Khi tham gia phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện
cho VKSND thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND được pháp luật TTDS
quy định. Đó là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Toà án, người tham gia tố
tụng. Vấn đề này được thể hiện rõ nét nhất tại phiên tòa mà chủ thể tiến hành là
Kiểm sát viên VKSND. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Kiểm sát viên tại
phiên tòa, phiên họp vừa thể hiện vai trò giám sát, vừa thể hiện sự hỗ trợ cùng
với Toà án trong việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự. Tuy thực hiện việc
kiểm sát trong tố tụng dân sự nhưng Kiểm sát viên VKSND cũng phải tuân theo
các quy định về trình tự, thủ tục được pháp luật tố tụng dân sự quy định.
- Thứ ba, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự nhằm bảo
đảm việc tuân thủ đúng pháp luật.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS góp phần hạn chế, phát
hiện và đẩy lùi kịp thời những hạn chế, tiêu cực thiếu sót trong q trình giải


9

quyết vụ, việc dân sự của Toà án từ cơ sở, đồng thời góp phần nâng cao tinh thần
trách nhiệm của Thẩm phán trong hoạt động giải quyết vụ, việc dân sự, hạn chế
ở mức thấp nhất có thể việc quyền lợi của đương sự không được bảo đảm từ cấp
sơ thẩm dẫn tới việc kháng cáo và phải tiến hành phúc thẩm một cách không cần
thiết. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự của VKSND có ý

nghĩa to lớn trong việc bảo vệ tính tối cao của pháp luật. VKSND có vai trị quan
trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ giám sát việc thực thi pháp luật của các cơ
quan tư pháp.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự đảm bảo việc giải
quyết vụ, việc dân sự nhanh chóng, khách quan, toàn diện, đầy đủ và kịp thời,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân; bảo đảm bản án, quyết định của Tồ án có căn cứ và đúng pháp
luật.
Từ những phân tích trên, có thể thấy: “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng dân sự là hoạt động của Viện kiếm sát thông qua Viện trưởng
VKSND, Kiểm sát viên và Kiểm tra viên các cấp theo trình tự, thủ tục do pháp
luật quy định nhằm kiểm tra, giám sát hoạt động tố tụng của Tịa án, người tham
gia tố tụng trong q trình giải quyết vụ việc dân sự nhằm đảm bảo cho pháp
luật được thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất”.
1.2 Cơ sở của việc xây dựng các quy định pháp luật về kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng dân sự
1.2.1 Cơ sở lý luận
Thứ nhất, xuất phát từ nhu cầu cụ thể hóa quy định của Hiến pháp và quan
điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng, hoàn thiện bộ máy nhà
nước và cải cách tư pháp.
Hiến pháp 1959 ban hành đánh dấu sự ra đời của một loại hình cơ quan
Nhà nước mới trong bộ máy Nhà nước, đó là cơ quan VKSND. Qua các bản
Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và đến nay là Hiến pháp 2013 tuy có những bổ
sung, thay đổi về tổ chức, hoạt động của VKSND nhưng chức năng kiểm sát các
hoạt động tư pháp vẫn luôn được giao cho VKSND.


10

Nghị quyết số 49 - NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược

cải cách tư pháp đến năm 2020 đã khẳng định: “Trước mắt, VKSND giữ nguyên
chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp…” Trong kết luận 79 - KL/TW ngày 28/7/2010 về đổi mới tổ chức và hoạt
động của TAND, VKSND và Cơ quan điều tra có yêu cầu: “VKSND có chức
năng thực hành quyền cơng tố và kiểm sát hoạt động tư pháp như hiện nay”. Báo
cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng cũng chỉ rõ: “VKSND thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp; được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án;
tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra”. Tóm lại, các văn bản
này đều khẳng định một cách nhất quán yêu cầu của Đảng, Quốc hội phải tăng
cường hơn nữa vai trò, trách nhiệm của VKSND trong Kiểm sát việc tuân theo
pháp luật đối với hoạt động tư pháp.
Thứ hai, xuất phát từ nhu cầu hoạt động kiểm tra, giám sát đối với các cơ
quan Nhà nước trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ.
Lịch sử hình thành và phát triển bộ máy Nhà nước ta hơn 65 năm qua đã
khẳng định rằng, để hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước đạt hiệu quả cao,
đòi hỏi phải có cơ chế kiểm tra, giám sát. Và bất kỳ cơ quan nhà nước nào cũng
đều tồn tại bộ phận thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát của cơ quan đó mà
chúng ta thường gọi là cơ chế tự kiểm tra, giám sát từ bên trong của hệ thống.
Điều này hoàn toàn phù hợp với lý luận về quy trình quản lý, trong đó bao gồm
các khâu: Nhận thức chủ thể; ra quyết định; tổ chức thực hiện quyết định; kiểm
tra (giám sát) việc thực hiện quyết định và cuối cùng là đánh giá hiệu quả việc
thực hiện quyết định và tổng kết kinh nghiệm. Như vậy, cơ chế kiểm tra, giám
sát bên trong, hay còn gọi là tự kiểm tra, giám sát hoạt động của chính mình (cơ
quan, tổ chức) là một khâu trong quy trình quản lý và đó là nhu cầu tự thân,
khách quan. Tuy nhiên, cơ chế tự kiểm tra, giám sát từ bên trong của chủ thể
thực hiện quyền lực nhà nước (cơ quan nhà nước cụ thể) bao giờ cũng có những
yếu tố chủ quan, khó kiểm sốt được hoạt động của chính mình nên đã dẫn đến
sự lạm quyền, vi phạm pháp luật. Để khắc phục tình trạng này, cần thiết phải có
một cơ chế kiểm tra, giám sát từ bên ngồi do một cơ quan chuyên trách thực

hiện.


11

Thứ ba, xuất phát từ đặc điểm chế độ chính trị và nguyên tắc tổ chức thực
hiện quyền lực nhà nước ở nước ta.
Về chế độ chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh
đạo nhà nước và xã hội. Bộ máy Nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc tập
quyền, không theo nguyên tắc tam quyền phân lập. Theo nguyên tắc tập quyền,
thì quyền lực nhà nước là thống nhất, chủ thể duy nhất của quyền lực nhà nước
là nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội. Theo
quy định của Hiến pháp, Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất có
quyền lập hiến, thực hiện quyền lập pháp và phân công quyền lực Nhà nước.
Quốc hội có quyền giám sát tối cao đối với tồn bộ hoạt động của các cơ quan
thực hiện quyền lực Nhà nước. Tuy nhiên, Quốc hội chỉ trực tiếp thực hiện
quyền giám sát của mình trong những phạm vi mà Quốc hội thấy cần thiết nhất,
quan trọng nhất (như hoạt động của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các thành viên khác của Chính phủ, TAND tối
cao, VKSND tối cao trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong các
hoạt động thực tiễn về tổ chức và thực hiện Hiến pháp, luật và nghị quyết của
Quốc hội, về năng lực, trình độ và trách nhiệm của những người do Quốc hội
bầu và phê chuẩn bằng các phương thức giám sát do luật xác định được tiến
hành tại các kỳ họp của Quốc hội).
Thực tế từ khi có Hiến pháp năm 1959 đến nay, Quốc hội không thể và
không cần thiết phải tự mình trực tiếp giám sát tồn bộ hoạt động của các cơ
quan thực hiện quyền lực Nhà nước. Quốc hội đã giao cho VKSND thực hiện
quyền giám sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội
và công dân trong phạm vi được Quốc hội giao cho (quyền Kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội từ năm 1960 đến năm

2002 và quyền kiểm sát các hoạt động tư pháp từ năm 2002 đến nay). Việc Quốc
hội giao cho VKSND thực hiện quyền Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội trước đây và quyền kiểm sát các hoạt động
tư pháp hiện nay, một mặt là xuất phát từ chỗ VKS do cơ quan lập pháp cao nhất
của Nhà nước là Quốc hội lập ra, hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất
và độc lập so với các cơ quan Nhà nước khác; mặt khác còn xuất phát từ nhu cầu
và sự đòi hỏi pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, đòi hỏi


12

sự nhất trí về mục đích hành động trong nhân dân, giữa nhân dân và Nhà nước,
giữa các ngành, các cơ quan Nhà nước với nhau. Vì vậy, chừng nào cịn thừa
nhận chế độ nhất ngun về chính trị với vai trò lãnh đạo tuyệt đối và duy nhất
của Đảng Cộng sản Việt Nam, vận dụng nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống
nhất trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, thì việc quy định VKSND
thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp nói chung và Kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ việc dân sự nói riêng với tính
cách một nguyên tắc của TTDS vẫn phù hợp và rất cần thiết.
Thứ tư, xuất phát từ yêu cầu pháp chế và chức năng, nhiệm vụ của
VKSND do pháp luật quy định.
Ở nước ta, một trong những hình thức của cơ chế kiểm tra, giám sát từ
bên ngoài đối với hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức đó là hoạt động
KSVTTPL của VKSND. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của VKSND ở nước ta
gắn với quá trình xây dựng và phát triển nhà nước Việt Nam và xuất phát từ
quan điểm của Lênin về Nhà nước và Pháp luật.
Đối với nước ta, sau khi miền Bắc hồn tồn giải phóng, cách mạng bước
vào giai đoạn phát triển mới, thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược theo
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III vạch ra là: Xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc, tiếp tục hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam

tiến tới thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. “Nhu cầu
của cuộc cách mạng XHCN đòi hỏi pháp luật phải được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất, đòi hỏi một sự nhất trí về mục đích và hành động trong
nhân dân, giữa nhân dân và nhà nước cũng như giữa các ngành hoạt động nhà
nước với nhau. Nếu không đạt được sự thống nhất trong việc chấp hành pháp
luật thì sự nghiệp xây dựng CNXH sẽ gặp nhiều khó khăn. Vì lẽ trên phải tổ chức
ra VKSND để KSVTTPL nhằm giữ vững pháp chế XHCN, bảo đảm cho pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” (Tờ trình về Luật Tổ chức
VKSND năm 1960) [24, tr 5]. Trên cơ sở đó, Hiến pháp năm 1959 đã đưa ra chế
định Viện KSND, tạo cơ sở pháp lý thành lập hệ thống cơ quan VKSND ở nước
ta. Hiến pháp năm 1959 và Luật Tổ chức VKSND năm 1960 được ban hành đã
đánh dấu sự ra đời của một hệ thống cơ quan nhà nước mới trong bộ máy của
nhà nước ta, thực hiện chức năng KSVTTPL và thực hành quyền công tố. Như


13

vậy, sự ra đời của mơ hình VKS thay thế cho mơ hình Viện Cơng tố ở nước ta
gắn liền với yêu cầu của nhiệm vụ bảo đảm pháp chế thống nhất – điều kiện nền
tảng cho việc xây dựng nhà nước kiểu mới và việc thành lập hệ thống cơ quan
VKSND không chỉ xuất phát từ yêu cầu khách quan của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội mà cịn là q trình vận dụng ngun lý của Lênin về VKS vào điều
kiện cụ thể của nước ta.
Trải qua các giai đoạn phát triển của đất nước, mặc dù chức năng của
VKSND có sự điều chỉnh: Thực hiện chức năng KSVTTPL và thực hành quyền
công tố theo quy định của Hiến pháp 1959, 1980, 1992, 2013 và các Luật Tổ
chức VKSND 1960, 1981, 1992, 2014; thực hiện chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức
VKSND năm 2014. Song, yêu cầu kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung và
trong lĩnh vực dân sự nói riêng luôn đặt ra và được pháp luật ghi nhận.

KSVTTPL trong TTDS xuất phát từ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật, kiểm sát các hoạt động tư pháp (cơ chế kiểm tra, giám sát từ bên ngoài) và
gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của VKSND.
KSVTTPL trong TTDS là xác định cơ chế kiểm soát quyền lực tư pháp để
tránh sự lạm quyền, tiêu cực của Tịa án trong q trình giải quyết vụ việc dân
sự; bảo đảm việc tuân thủ pháp luật, tôn trọng các quyền tố tụng của đương sự;
bảo vệ quyền, lợi hợp pháp của đương sự, nhất là trường hợp đương sự là người
yếu thế (người mất năng lực hành vi, có nhược điểm thể chất, tinh thần, chưa
thành niên...), không thể tham gia tố tụng (trường hợp tuyên bố một người đã
chết hoặc mất tích) hoặc kém hiểu biết về luật pháp. KSVTTPL trong TTDS còn
là cơ chế bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa quyền tự định đoạt của đương sự và
sự can thiệp của Nhà nước để bảo vệ công lý.
1.2.2 Cơ sở thực tiễn
Thứ nhất, xuất phát từ thực tiễn kinh tế - xã hội cụ thể của nước ta.
Nền kinh tế nước ta có xuất phát điểm chủ yếu là nền kinh tế nông nghiệp
lạc hậu, hơn 70% dân số nước ta sống ở nông thôn và chủ yếu làm nông nghiệp,
điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn, mặt bằng dân trí thấp, đặc biệt ở khu vực
miền núi, vùng cao ít quan tâm đến pháp luật. Nếu như ở các nước đã có trình
độ phát triển cao và truyền thống pháp luật lâu đời, người dân có sự hiểu biết về


14

pháp luật đầy đủ, thu nhập cao, dịch vụ pháp lý phát triển nên họ có khả năng (tự
mình hoặc nhờ Luật sư) để bảo vệ quyền và lợi ích của họ khi có tranh chấp thì ở
nước ta đại đa số người dân chưa có được điều kiện đó. Do trình độ dân trí cịn
hạn chế nên người dân cịn gặp nhiều khó khăn trong việc tự chứng minh để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án. Hơn nữa với thu nhập của
đa số người dân cịn thấp nên họ khơng có điều kiện mời Luật sư bảo vệ quyền
lợi cho mình khi có tranh chấp. Không chỉ vậy, hệ thống bổ trợ tư pháp chưa

thực sự phát triển, chưa trở thành công cụ hỗ trợ cho người dân khi phát sinh và
giải quyết tranh chấp (số lượng Luật sư ở nước ta hiện nay chưa đáp ứng được
yêu cầu tham gia tất cả các phiên tòa, so với nhu cầu về dịch vụ pháp lý hiện nay
và xu thế gia tăng nhanh của nhu cầu này trong những năm tới, thì số lượng Luật
sư nước ta cịn chưa tương xứng2). Vì thế, trong điều kiện như hiện nay vẫn cần
phải có cơ chế kiểm tra, giám sát bản án, quyết định của Tòa án một cách có hiệu
quả để bảo đảm cho việc giải quyết các vụ việc dân sự nhanh chóng, kịp thời,
đúng pháp luật, nhằm góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự,
đặc biệt là những người yếu thế, không thể tham gia tố tụng và hiểu biết về pháp
luật kém. Một trong những cơ chế hữu hiệu, đó chính là hoạt động Kiểm sát việc
tn theo pháp luật trong TTDS của VKS.
Thứ hai, xuất phát từ thực tiễn xu hướng các vụ việc tranh chấp dân sự
ngày càng gia tăng về số lượng và độ phức tạp, trong khi đó việc giải quyết của
Tịa án cịn nhiều sai sót cần phải có cơ chế giám sát, kiểm sát.
Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước ta đang thực hiện cơng cuộc đổi
mới tồn diện và hội nhập quốc tế, nền kinh tế đang chuyển đổi, các tranh chấp
dân sự phát sinh ngày càng nhiều với tính chất ngày càng phức tạp hơn, thì vấn
đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, bảo đảm việc giải
quyết các vụ việc dân sự nhanh chóng, kịp thời và đúng pháp luật là u cầu
quan trọng trong q trình thực hiện cơng cuộc cải cách tư pháp, đặc biệt là việc
bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, những người yếu thế và người hiểu
biết pháp luật kém. Thực tiễn cho thấy trong thời gian qua tỷ lệ bản án, quyết

2

Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2011), “Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của BLTTDS”, ngày 14/3/2011.


15


định dân sự của Tòa án bị hủy, bị sửa do có sai sót hàng năm khơng giảm3. Điều
này chứng tỏ sai lầm trong việc giải quyết các vụ án dân sự vẫn còn tồn tại.
Thứ ba, xuất phát từ nhu cầu kế thừa và phát huy thành tựu đã được VKS
qua hơn 50 năm xây dựng và trưởng thành.
Trải qua 55 năm xây dựng và phát triển, vượt lên mn vàn khó khăn, thử
thách, ngành Kiểm sát nhân dân đã đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng
của Đảng với nhiều thành tựu nổi bật. Xuyên suốt các hoạt động, từ tham gia xây
dựng thể chế, chỉ đạo điều hành đến thực thi pháp luật, cán bộ, công chức ngành
Kiểm sát luôn quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: ngành Kiểm sát
của nhân dân, dựa vào nhân dân và phục vụ nhân dân; Quán triệt quan điểm cải
cách tư pháp về xây dựng nền tư pháp công bằng, dân chủ, nghiêm minh. Những
nguyên tắc Hiến định về tôn trọng, bảo vệ quyền con người, quyền công dân đã
được tổ chức thực hiện nghiêm túc.4
VKSND là cơ quan có vai trị rất quan trọng trong việc bảo vệ công lý và
trật tự chung trong xã hội. Hơn nửa thế kỉ qua, VKSND luôn chủ động triển khai
thực hiện tốt những nhiệm vụ do Quốc hội giao, góp phần thiết lập kỷ cương, kỷ
luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, bảo vệ pháp chế Xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm pháp luật được thực thi nghiêm minh và thống nhất. Mục tiêu
quán xuyến của hoạt động Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS là bảo
vệ quyền sở hữu hợp pháp về tài sản, bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích công
cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức trong các quan hệ dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động. Dưới góc độ lịch sử
và thực tiễn, nghiên cứu cơ quan Công tố/VKS Việt Nam từ năm 1945 đến nay
cho thấy, tuy mức độ có khác nhau trong từng thời kỳ nhưng vai trị của cơ quan
Cơng tố/VKS trong việc giải quyết các vụ việc dân sự luôn được khẳng định,
phát triển và phát huy hiệu quả trong thực tiễn đời sống xã hội.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 thì “Tịa án
nhân dân là cơ quan xét xử của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực
hành quyền tư pháp”. Như vậy, trong hệ thống các cơ quan Nhà nước chỉ có duy

3

Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2011), “Báo cao giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của BLTTDS”, ngày 14/3/2011.
4
/>

16

nhất Tịa án mới có chức năng xét xử giải quyết các vụ việc dân sự. Vì vậy, địi
hỏi phải có cơ chế kiểm tra, giám sát bản án, quyết định của Tịa án một cách có
hiệu quả.
1.3. Những yếu tố ảnh hƣởng tới kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng dân sự
1.3.1. Tính hợp lý của các quy định về kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng dân sự
Tính hợp lý của các quy định về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng dân sự của Viện kiểm sát là yếu tố tác động tới hiệu quả của công tác kiểm
sát án dân sự. Trải qua các giai đoạn phát triển của đất nước, mặc dù chức năng
của VKS có sự điều chỉnh: Thực hiện chức năng KSVTTPL và thực hành quyền
công tố theo quy định của Hiến pháp 1959, 1980, 1992, 2013 và các Luật Tổ
chức VKSND 1960, 1981, 1992; 2014 thực hiện chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo Hiến pháp 1993 và Luật Tổ chức
VKSND năm 2014. Song, yêu cầu kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung và
trong lĩnh vực dân sự nói riêng ln đặt ra và được pháp luật ghi nhận.
KSVTTPL trong TTDS xuất phát từ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật, kiểm sát các hoạt động tư pháp (cơ chế kiểm tra, giám sát từ bên ngồi) và
gắn liền với q trình hình thành và phát triển của VKSND.
Trước năm 2004, phạm vi và quyền hạn của Viện kiểm sát đối với kiểm
sát án dân sự sơ thẩm được mở rộng. Theo đó, Viện kiểm sát cấp huyện có

quyền khởi tố vụ án dân sự, quyền u cầu Tồ án điều tra xác minh hoặc tự
mình tiến hành điều tra xác minh nếu thấy cần thiết; có quyền tham gia các phiên
tồ sơ thẩm dân sự...Với phạm vi quyền hạn này, Viện kiểm sát cấp huyện có thể
thực hiện tốt hơn và có hiệu quả vai trò kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng dân sự. Tuy nhiên, BLTTDS sửa đổi năm 2011 và BLTTDS năm 2015 đã
hạn chế hơn quyền hạn của Viện kiểm sát, đặc biệt là quyền tham gia tố tụng tại
phiên tòa. Sự hạn chế này đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả công tác
kiểm sát án dân sự, do tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác kiểm sát việc giải
quyết các vụ việc dân sự bị thu hẹp; số lượng cán bộ, Kiểm sát viên bị giảm
thiểu do hạn chế nhu cầu công việc.


17

Hoạt động chủ yếu của cán bộ, KSV là tiếp nhận thông báo thụ lý, các
quyết định, bản án do Toà án chuyển đến sau khi đã giải quyết và có nhiệm vụ
nghiên cứu để phát hiện vi phạm, sai lầm của Toà án khi giải quyết tranh chấp.
Vấn đề đặt ra là nếu chỉ kiểm sát thông qua nghiên cứu vụ án bằng việc đọc các
quyết định, bản án để phát hiện sai lầm, vi phạm của Toà án khi giải quyết tranh
chấp là không khả thi. Việc bãi bỏ quy định về quyền kiểm sát hồ sơ của Tồ án
dẫn tới việc hạn chế, thậm chí làm giảm đáng kể hiệu quả kiểm sát của Viện
kiểm sát đối với công tác kiểm sát án dân sự. Xét cả về lý thuyết và thực tiễn,
bản án được ban hành có thể khơng phản ánh đầy đủ, đúng các tình tiết, sự kiện,
chứng cứ có trong hồ sơ, tính chân thực trong lời khai báo, trình bày của đương
sự, người làm chứng. Ngoài ra, việc Toà án chưa thu thập đầy đủ chứng cứ, tài
liệu cần thiết để giải quyết vụ án, hoặc khơng cịn khả năng để xác minh làm rõ
hơn, tình tiết quan trọng của vụ án, bỏ qua một vài tình tiết có liên quan đến
đánh giá, vận dụng pháp luật nội dung...cũng có thể dẫn tới bản án của Tồ án có
những sai lầm nghiêm trọng. Nếu chỉ dựa vào bản án, quyết định thì VKS cấp
huyện cũng thiếu dữ liệu cần thiết, không thể đủ cơ sở tin cậy để phát hiện sai

lầm, vi phạm của Toà án. Trên phương diện cải cách tư pháp, nếu yêu cầu tăng
cường vai trò của VKS thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp thì
việc hạn chế quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự có thể dẫn tới
Viện kiểm sát khơng thể thực hiện có hiệu quả chức năng của mình.
1.3.2. Chủ trương cải cách tư pháp của Đảng về chức năng, nhiệm vụ
của Viện Kiểm sát trong tố tụng dân sự
Chủ trương cải cách tư pháp của Đảng về chức năng, nhiệm vụ của Viện
Kiểm sát trong tố tụng dân sự là yếu tố thúc đẩy hoạt động kiểm sát án dân sự
của Viện kiểm sát. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, mà nội dung cốt lõi chính là sự quản lý nhà
nước và xã hội bằng pháp luật, đòi hỏi sự tuân theo pháp luật triệt để của các cơ
quan nhà nước, các tổ chức và công dân. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta (bổ sung, phát triển năm 2011)
và Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X trình Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI nêu rõ: Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân...Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có


18

sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức,
quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, tăng cường các cơ chế giám sát. Qua sơ kết 03 năm thực hiện Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020, Bộ chính trị đã chỉ rõ: Một trong những nguyên nhân làm cho
chất lượng xét xử các vụ án dân sự thời gian qua cịn thấp là do chưa có cơ chế
giám sát, kiểm sát hiệu quả việc giải quyết các vụ án này. Kết luận số 79-KL/TW
ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động Toà án,
VKS, Cơ quan điều tra khẳng định: “VKSND có chức năng thực hành quyền

cơng tố và kiểm sát hoạt động tư pháp như hiện nay...”. Báo cáo chính trị của
Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa X trình Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ
XI u cầu cần phải “bảo đảm tốt hơn các điều kiện để VKSND thực hiện hiệu
quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp” .
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) xác
định: VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp. Trong hệ thống cơ quan kiểm sát thì Viện kiểm sát cấp huyện là cơ quan
đóng vai trị quan trọng, phần lớn các hoạt động tố tụng dân sự của Toà án cần
phải kiểm sát là hoạt động tố tụng do Toà án cấp huyện thực hiện. Nếu thực hiện
tốt được khâu kiểm sát tố tụng dân sự tại cấp sơ thẩm này thì sẽ hạn chế được
khối lượng công việc phát sinh ở Viện kiểm sát cấp tỉnh và cấp tối cao. Vì vậy,
đường lối cải cách tư pháp dân sự với định hướng nâng cao hiệu quả kiểm sát
hoạt động tư pháp dân sự là yếu tố tạo thêm sức mạnh, động lực và quyết tâm
của ngành trong việc tăng cường công tác kiểm sát án dân sự của Viện kiểm sát.
1.3.3. Trình độ, năng lực của Kiểm sát viên, Kiểm tra viên
Trình độ, năng lực của Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, đặc biệt là Kiểm sát
viên là yếu tố có ảnh hưởng đến chất lượng kiểm sát án dân sự. Việc nghiên cứu
cho thấy kiểm sát án dân sự là một lĩnh vực khá phức tạp và nhạy cảm, liên quan
trực tiếp đến quyền lợi của dân nên địi hỏi cán bộ làm cơng tác này phải am hiểu
sâu sắc về chính sách pháp luật về dân sự, hơn nhân gia đình, thương mại, lao
động qua từng thời kỳ lịch sử đồng thời phải nắm vững quy trình và thủ tục tố
tụng tư pháp. Do vậy, trình độ, năng lực của Kiểm sát viên là yếu tố có ảnh


×