VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN TRƯỞNG
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP
KHỞI NGHIỆP SÁNG TẠO TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, 2018
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN TRƯỞNG
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP
KHỞI NGHIỆP SÁNG TẠO TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Ngành: Chính sách công
Mã số: 8.34.04.02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM ANH TUẤN
HÀ NỘI, 2018
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 2016 được chọn là năm “Quốc gia khởi nghiệp”, điều này cho thấy
vấn đề khởi nghiệp đang được nhà nước và xã hội dành sự quan tâm đặc biệt.
Cùng với thành tựu của các doanh nghiệp truyền thống trong hơn 30 năm tiến
hành đổi mới, tuy còn non trẻ nhưng sự phát triển nhanh chóng của các doanh
nghiệp khởi nghiệp sáng tạo (DNKNST) đã góp phần đáng kể vào những thành
tựu phát triển chung của đất nước. Các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo đang
ngày càng khẳng định vai trò không thể thiếu của mình trong quá trình phát
triển kinh tế xã hội của đất nước.
Thực tiễn phát triển của nhiều nước trên thế giới hiện nay đã chứng minh
vai trò to lớn của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo đối với sự phát triển của
nền kinh tế. Khuyến khích phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo cho
phép khai thác tốt hơn nguồn lao động, nguồn vốn, công nghệ và thị trường.
Đặc biệt doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo là môi trường thuận lợi để khai
thác tối đa lượng chất xám, tinh thần làm giàu, ước mơ vươn mình ra thế giới
của thế hệ trẻ hiện nay. Ngoài ra, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo làm giảm
nguy cơ thất nghiệp, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giảm bớt sự chênh
lệch giàu nghèo, thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ cao của quốc gia.
Trong thời gian gần đây, cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng
công nghiệp 4.0) đã trở thành chủ đề được nghiên cứu, phân tích và bàn luận
rộng rãi với nhiều góc độ tiếp cận khác nhau. Thực tế đã cho thấy cách mạng
công nghiệp 4.0 đã bắt đầu có ảnh hưởng đến Việt Nam ở những mức độ khác
nhau trong các lĩnh vực của đời sống, kinh tế, chính trị. Vì vậy, việc nghiên
cứu, đánh giá về hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, coi đó như một giải
pháp phù hợp, một cách ứng phó hiệu quả để tranh thủ các cơ hội mà cuộc cách
1
mạng 4.0 đem lại cho Việt Nam là một nhiệm vụ rất cần thiết, có ý nghĩa cả về
lý luận và thực tiễn.
Sau hơn 10 năm gia nhập WTO, hiện nay Việt Nam đang tham gia một
loạt các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, đánh dấu sự hội nhập
sâu hơn, rộng hơn vào nền kinh tế thế giới. Những FTA này đang đặt Việt Nam
trong một sân chơi kinh tế mới với những thay đổi chiến lược nhằm nâng cao
hợp tác kinh tế, tháo gỡ những khó khăn, rào cản trước đây từng cản trở sự phát
triển của các doanh nghiệp, sự giao thương giữa các quốc gia. Quá trình hội
nhập vào các FTA đem lại rất nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam,
đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo có những sản phẩm mới,
những ý tưởng mới muốn phát triển rộng rãi trên thị trường thế giới. Hòa vào
sân chơi chung đã mang lại nhiều cơ hội, nhưng nó cũng đem đến không ít các
thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt là các doanh nghiệp khởi
nghiệp sáng tạo, rất cần sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. Cả nước đang lỗ lực phấn
đấu đạt mốc 1 triệu doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo vào năm 2020 đây là
điều không hề dễ dàng đòi hỏi sự quyết tâm mạnh mẽ của cả nhà nước, doanh
nghiệp và người dân. Một trong những vấn đề cấp thiết để giúp các doanh
nghiệp khởi nghiệp sáng tạo phát triển nhanh và mạnh trong bối cảnh hội nhập
hiện nay là xây dựng, hoàn thiện và thực hiện tốt chính sách hỗ trợ doanh nghiệp
khởi nghiệp sáng tạo. Việc thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi
nghiệp sáng tạo cần phải có cơ sở khoa học, phương pháp luận khoa học và căn
cứ vào tình hình thực tế.
Xuất phát từ việc phân tích lý luận và thực tiễn nêu trên, đề tài “Thực
hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam hiện
nay: thực trạng và giải pháp” đã được tác giả lựa chọn và tiến hành nghiên
cứu
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2
Đề tài nghiên cứu về DNKNST là một đề tài mới tại Việt Nam hiện nay.
Với sự phát triển mạnh mẽ của các DNKNST chính phủ đã lấy năm 2016 là năm
“quốc gia khởi nghiệp” và phê duyệt đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi
mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025” vào tháng 8/2016, đến năm 2017, Luật
doanh nghiệp nhỏ và vừa được thông qua có nội dung về các DNKNST.
Khí thế, tinh thần khởi nghiệp của cả nước đang sôi sục, làn sóng khởi
nghiệp đang diễn ra mạnh mẽ, nhiều bài tham luận, nhiều tài liệu nghiên cứu
về doanh nghiệp khởi nghiệp được công bố. Trong đó chủ yếu là các bài báo,
các báo cáo tham luận về chính sách hỗ trợ DNKNST của các cơ quan chức
năng hoặc các tổ chức kinh tế.
Trong phạm vi luận văn của mình, tôi xin tập trung giới thiệu một số báo
cáo, tham luận tiêu biểu có liên quan đến chính sách hỗ trợ DNKNST:
Báo cáo “Nghiên cứu cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo,
kinh nghiệm quốc tế - đề xuất giải pháp cho Việt Nam” do VCCI thực hiện năm
2017. Đây là bản báo cáo chi tiết về thực trạng DNKNST của Việt Nam trong
năm 2017 với những số liệu cụ thể về sự phát triển của các DNKNST. Tuy nhiên,
báo cáo chưa đưa ra được nguyên nhân và giải pháp để hiện thực hóa việc hỗ trợ
các DNKNST.
Bài tạp chí “Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo" số 1/2017 do Cục thông
tin khoa học và công nghệ quốc gia thực hiện. Bài viết có cách nhìn sâu sắc
về DNKNST, tuy nhiên chưa đưa ra được những khó khăn thách thức, thực
trạng của DNKNST hiện nay.
Tham luận “Huy động vốn cho các doanh nghiệp startup: thực trạng và
giải pháp”. Tác giả là thạc sĩ Trần Thị Thanh Huyền, Khoa Tài chính - Kiểm
toán, đại học Nguyễn Tất Thành (Thành phố Hồ Chí Minh). Tham luận viết về
một khía cạnh của chính sách hỗ trợ DNKNST là vấn đề huy động động vốn
3
cho các DNKNST. Nhưng bài tham luận lại chưa cụ thể hóa, chưa chia được
các kênh huy động vốn và những khó khăn khi gọi vốn của các DNKNST.
Tổng quan “Xây dựng và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp: vai trò của
chính sách chính phủ” do Cục Thông tin KH&CN Quốc gia thực hiện. Bài viết
này cung cấp cho độc giả, đặc biệt là các nhà hoạch định chính sách những khái
niệm toàn diện, các đặc điểm thành phần của hệ sinh thái khởi nghiệp và vai
trò của chính sách chính phủ trong việc phát triển thành công các hệ sinh thái
khởi nghiệp.
Luận văn thạc sĩ “Phát triển vườn ươm doanh nghiệp công nghệ trong các
trường đại học ở Việt Nam” do tác giả Nguyễn Thị Nguyên (2014), đại học Quốc
gia Hà Nội, thực hiện. Bài luận văn đã đánh giá thực trạng phát triển các vườn
ươm doanh nghiệp công nghệ tại các trường đại học và đưa ra các biện pháp khắc
phục. Tuy nhiên, các vườn ươm chỉ là một bộ phận nhỏ trong chính sách hỗ trợ
DNKNST.
Các công trình nghiên cứu, các báo cáo tham luận trong nước đã cho thấy
những quan niệm cơ bản về chính sách hỗ trợ DNKNST. Những nghiên cứu, định
hướng đó đã giúp tác giả luận văn có những cơ sở khoa học, lý luận cũng như thực
tiễn khi triển khai nghiên cứu việc thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST tại Việt
Nam.
Những công trình nghiên cứu trên đây đã cho tác giả những kiến thức vô
cùng quý giá để tác giả tham khảo, kế thừa trong quá trình thực hiện để tài luận
văn “Thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tại
Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST
của Việt Nam và phân tích tác động của những chính sách hiện có đối với sự
phát triển của DNKNST, luận văn đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm
4
hoàn thiện các chính sách giúp phát triển hơn nữa các DNKNST ở nước ta trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và làn sóng cách mạng 4.0 đang diễn ra mạnh
mẽ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là việc thực hiện chính sách hỗ trợ
DNKNST tại Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn giới hạn ở việc nghiên cứu việc thực hiện
chính sách hỗ trợ DNKNST tại Việt Nam hiện nay, cụ thể là từ những năm
2010, nhất là từ năm 2016 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử thông qua các
công cụ phân tích, tổng hợp, so sánh từ các nguồn số liệu thống kê thu thập
được.
Để thực hiện đề tài, tác giả thu thập các dữ liệu thứ cấp từ năm 2010 đến
năm 2017 thông qua các bài báo, sách nghiên cứu chuyên khảo, các công trình
nghiên cứu trong và ngoài nước và các báo cáo liên quan đến chính sách hỗ trợ
doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về doanh nghiệp khởi nghiệp
sáng tạo, đồng thời luận văn góp phần phân tích đánh giá thực trạng của chính
sách hỗ trợ DNKNST hiện nay của Việt Nam. Luận văn giúp đưa ra những giải
pháp nhằm hỗ trợ, phát triển DNKNST. Luận văn góp phần thiết thực trong
việc thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST trong tình hình mới.
5
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo luận văn được trình bày
trong ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo và
chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.
Chương 2: Thực trạng việc thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp
khởi nghiệp sáng tạo ở Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách hỗ trợ
doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.
6
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP SÁNG TẠO
1.1. Cơ sở lý luận về doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
Kể từ khi bắt đầu xuất hiện đến nay, có khá nhiều định nghĩa hay cách
hiểu về khởi nghiệp sáng tạo (KNST) và doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
(DNKNST). Trong tiếng Anh, khái niệm KNST (startup hoặc start-up) được
hiểu là việc một cá nhân hay một tổ chức của con người đang trong quá trình
bắt đầu kinh doanh, hay còn gọi là giai đoạn đầu lập nghiệp. Còn theo Mandela
Schumacher-Hodge, thuật ngữ “DNKNST- startup" không dùng để thông báo
loại hình của doanh nghiệp, mà chủ yếu dùng để miêu tả trạng thái phát triển
của doanh nghiệp (Ví dụ: tất cả các tập đoàn lớn hiện nay đều đã từng là
DNKNST).[1] Một cách tiếp cận khác theo Neil Blumenthal – Đồng sáng lập
và đồng CEO của Warby Parker - thì "DNKNST là một công ty hoạt động nhằm
giải quyết một vấn đề mà giải pháp không phải là hiển nhiên và dĩ nhiên không
có gì đảm bảo thành công cả”.[2]
Như vậy, theo định nghĩa của các học giả phương Tây, DNKNST có thể
hiểu là một tập hợp các nguồn lực tạm thời (nhân lực, tiền, thời gian…) để đi
tìm kiếm một mô hình kinh doanh mới và nhanh chóng xây dựng thành một tổ
chức/doanh nghiệp đạt quy mô, đồng thời có khả năng lặp lại hay nhân rộng tại
các thị trường khác nhau; và thường tận dụng công nghệ làm lợi thế cạnh tranh.
Tại Việt Nam, theo Luật Doanh Nghiệp Vừa và Nhỏ 2017, KNST
(startup) là quá trình khởi nghiệp dựa trên việc tạo ra hoặc ứng dụng kết quả
nghiên cứu, giải pháp kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao năng
7
suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa và có khả năng tăng
trưởng nhanh.[3]
Theo Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, DNKNST là một cộng đồng đặc biệt,
“tính chất tạo ra những sản phẩm mới, phân khúc khách hàng mới bằng những
công nghệ mới và ý tưởng mới chưa từng có, cách tiếp cận thị trường mới,
thường là liên quan đến công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và vì qua
mạng nên không có tính biên giới”.[4]
Chủ tịch HĐQT của FPT - ông Trương Gia Bình cho rằng: “nói đến
startup phải nói đến đỉnh cao của khoa học công nghệ, nói đến điều thế giới
chưa từng làm” và không tính đến các doanh nghiệp mở quán cà phê hay quán
phở. DNKNST là quá trình khởi nghiệp dựa trên các giải pháp kỹ thuật, công
nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của
sản phẩm, hàng hóa và có khả năng tăng trưởng nhanh.[5]
Một cách hiểu tương tự, bà Trương Lý Hoàng Phi- Giám đốc điều hành
Trung tâm Hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp TPHCM cho rằng DNKNST phải bảo
đảm được hai yếu tố là “start” và “up”. “Start” có nghĩa là bạn bắt đầu với một
ý tưởng mới, hoặc nếu ý tưởng đó không mới thì cách làm phải đột phá và
thường thì gắn với ứng dụng công nghệ. Còn “up” liên quan đến khả năng
thương mại hóa và quy mô của thị trường, nghĩa là ý tưởng đó phải có khả năng
được triển khai trong thực tế, có khách hàng hoặc khách hàng tiềm năng, đồng
thời phải có khả năng mở rộng được để “up” trong thời gian càng nhanh càng
tốt.[6]
DNKNST phải dựa trên một công nghệ mới, hoặc tạo ra hình thức kinh
doanh mới, hoặc xây dựng một phân khúc thị trường mới. Tức là các DNKNST
phải có gì đó khác biệt không chỉ với các DN khác ở trong nước, với tất cả các
công ty trước đây và cả với các DN khác trên thế giới. Vì đặc điểm đó nên DN
khởi nghiệp sáng tạo nhanh chóng thu hút được đầu tư trong và ngoài nước để
8
phát triển nhanh, ví dụ như Facebook, Google, thế nên chỉ trong 2-3 năm đã
phát triển để trở thành các tập đoàn lớn.
Tổng quát lại, có thể hiểu DNKNST (Startup) là những công ty đang
trong giai đoạn bắt đầu kinh doanh nói chung (Startup company), gắn với những
đỉnh cao của khoa học công nghệ, nói đến những điều thế giới chưa từng làm.
Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo là một tổ chức được thiết kế nhằm cung cấp
sản phẩm và dịch vụ trong những điều kiện không chắc chắn nhất và có cơ hội
tăng trưởng nhanh nhất, xây dựng một phân khúc thị trường mới, tạo ra sự khác
biệt không chỉ ở trong nước mà với tất cả công ty trên thế giới.
Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo là tổng thể các quan
điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà nhà nước sử dụng nhằm khuyên
khích, thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, góp
phần phát huy, nâng cao hiệu quả và khuyến khích cho hệ thống các doanh
nghiệp này phát triển mạnh mẽ, phục vụ cho sự phát triển kinh tế, xã hội của đất
nước.
Thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi sáng tạo là quá trình
chuyển hóa các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp của nhà nước thành những
hành động cụ thể nhằm thực hiện tốt những chính sách mà nhà nước ban hành
để hỗ trợ, phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.
1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
DNKNST có những đặc điểm riêng khác với các doanh nghiệp thông
thường. Các đặc điểm này được thể hiện bao gồm:
1.1.2.1. Đột phá và sáng tạo
Đột phá và sáng tạo là một xu hướng tất yếu trong hoạt động kinh doanh
trong thời đại 4.0. Giá trị của trí tuệ, sáng tạo và vô cùng to lớn, góp phần tạo
sự đột phá và quyết định khả năng cạnh tranh của DNKNST trong điều kiện
tiền vốn, máy móc hay cơ bắp là hữu hạn.
9
Tăng trưởng cao dựa vào sáng tạo và tiềm năng của DNKNST, với những
ý tưởng kinh doanh mang tính đột phá và sáng tạo. Dựa vào những ý tưởng
kinh doanh mang tính đột phá và sáng tạo dựa trên những giả thuyết không chắc
chắn, nhưng đã rõ nhu cầu của thị trường và nếu việc hoạt động như dự định,
sản phẩm hoặc dịch vụ có thể thu hút nhiều khách hàng tiềm năng đem lại một
lực đẩy mạnh mẽ cho DNKNST.
Đối với DNKNST, tính đột phá là điều bắt buộc. DNKNST có thể tạo ra
một điều gì đấy chưa hề có trên thị trường hoặc tạo ra một giá trị tốt hơn so với
những thứ đang có sẵn. Ví dụ, DNKNST có thể tạo ra một phân khúc mới trong
sản xuất (như thiết bị thông minh đo lường sức khoẻ cá nhân), một mô hình
kinh doanh hoàn toàn mới (như AirBnb), hoặc một loại công nghệ độc đáo,
chưa hề thấy (như công nghệ in 3D).
Công nghệ thường là đặc tính tiêu biểu của sản phẩm từ một DNKNST.
Đây là yếu tố quyết định, là mục tiêu kiên quyết theo đuổi của các DNKNST.
Dù vậy, ngay cả khi sản phẩm không dựa nhiều vào công nghệ, thì DNKNST
cũng cần áp dụng công nghệ để đạt được mục tiêu kinh doanh cũng như tham
vọng tăng trưởng.
1.1.2.2. Tiềm năng tăng trưởng và lợi nhuận lớn
Khác với doanh nghiệp truyền thống đề cao việc tạo ra lợi nhuận và một
khi đạt được lợi nhuận mới nghĩ đến việc mở rộng doanh nghiệp. DNKNST sẽ
đam mê tăng trưởng công ty càng nhanh càng tốt, và tạo ra một mô hình kinh
doanh có tính tăng trưởng. DNKNST sẽ muốn nhân bản mô hình kinh doanh
thành công của mình ra khắp thế giới.
DNKNST xem mình là người đi khai phá thị trường, họ tạo ra ảnh hưởng
cực lớn. Một DNKNST sẽ không đặt ra giới hạn cho sự tăng trưởng, và họ có
tham vọng phát triển đến mức lớn nhất có thể. DNKNST xây dựng mô hình kinh
doanh để sản phẩm hoặc dịch vụ của họ có thể cung cấp ở nhiều thị trường khác
10
nhau và có thể tùy chỉnh trong mô hình chuyển đổi khách hàng (ví dụ: hỗ trợ
khách hàng, ngôn ngữ, hậu cần, hoạt động tiếp thị), nhưng nhìn chung, thị trường
toàn cầu có thể được giải quyết đồng thời với cùng một sản phẩm hoặc dịch vụ
cốt lõi.
Nếu bạn chỉ muốn doanh nghiệp ổn định để cho bạn có thể sống còn thì
bạn đang nhắm tới doanh nghiệp nhỏ chứ không phải là DNKNST. Nếu bạn khởi
đầu một nhà hàng, bạn chỉ phải cạnh tranh với các nhà hàng địa phương khác.
Nếu bạn khởi đầu doanh nghiệp động cơ tìm kiếm thì bạn phải cạnh tranh với
toàn thế giới. Là một DNKNST, bạn phải đi cùng cái gì đó mà có thể được
chuyển giao cho thị trường lớn để cho bạn có được nhiều khách hàng.
Để thịnh vượng và tăng trưởng, nhà doanh nghiệp phải có viễn kiến về
tương lai. Điều đó nghĩa là DNKNST phải có khả năng cung cấp giá trị cho thị
trường lớn; nó phải làm cái gì đó mà nhiều khách hàng muốn; nó phải có khả
năng đạt tới khách hàng nhanh chóng nhất có thể được; và nó phải sẵn lòng
thay đổi khi thị trường hay công nghệ thay đổi. Chẳng hạn, nếu bạn tạo ra một
sản phẩm để được dùng chỉ trong thị trường địa phương, bạn có thể đạt tới một
số giới hạn người dùng nhưng nếu bạn tạo ra nó cho thị trường toàn cầu thì bạn
đang nghĩ về tăng trưởng nhanh. Nếu bạn muốn khởi đầu một công ty, tại sao
không bắt đầu với cái gì đó mà có tiềm năng nhất?
Đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa truyền thống người sáng lập sẽ
muốn có doanh thu từ ngay ngày đầu tiên doanh nghiệp đi vào hoạt động, và
tốt hơn nữa là có luôn lợi nhuận. Giá trị lợi nhuận sẽ phụ thuộc vào số tiền mà
bản thân người sáng lập muốn kiếm được (cho chính bản thân họ), cũng như sẽ
phụ thuộc vào kế hoạch mở rộng doanh nghiệp. Còn đối với các DNKNST có
thể cần đến nhiều tháng, thậm chí nhiều năm để có được doanh thu (dù rất nhỏ).
DNKNST sẽ tập trung vào phát triển một sản phẩm thật sự hữu ích cho người
11
dùng, nhằm có được một lượng khách hàng đông đảo. Nếu kế hoạch thành
công, lợi nhuận tài chính có thể rất khổng lồ.
1.1.2.3. Khởi đầu khó khăn và rủi ro cao
So với doanh nghiệp truyền thống DNKNST có nhiều rủi ro hơn và cũng
có nhiều lợi thế hơn. DNKNST thường làm việc theo nhóm để xây dựng doanh
nghiệp dựa trên công nghệ, quy trình, quy mô kinh doanh, hoặc ý tưởng mới
tạo ra cho họ một lợi thế cạnh tranh đáng kể so với các doanh nghiệp truyền
thống.
Vốn của DNKNST bắt đầu từ chính tiền túi của người sáng lập, hoặc
đóng góp từ gia đình và bạn bè, một số trường hợp thì gọi vốn từ cộng đồng
(crowdfunding). Tuy nhiên, phần lớn các DNKNST đều phải gọn vốn từ các
Nhà đầu tư thiên thần (angel investors) và Quỹ đầu tư mạo hiểm (Venture
Capital).
Đối với các doanh nghiệp nhỏ 32% sẽ thất bại trong ba năm đầu. Tuy
nhiên, tỉ lệ này vẫn còn nhiều tích cực so với DNKNST. Đối với các DNKNST
thì 92% các doanh nghiệp này sẽ chết trong ba năm đầu. Trong khi có gần 10%
công ty khởi nghiệp thành công, khoảng 20 - 30% sớm thất bại thì số còn lại là các công ty xác sống chỉ tạo ra doanh thu vừa đủ bù cho chi phí hoạt động,
số tiền này giảm dần, công ty tiếp tục sống ì ạch trong một khoảng thời gian
dài và gần như không thể duy trì được sản phẩm.[7]
DNKNST có ý tưởng khởi nghiệp độc đáo hoặc khác biệt/tốt hơn so với
các giải pháp cạnh tranh trên thị trường. Điều này làm cho việc thực hiện (làm
cho khách hàng thích sản phẩm hoặc dịch vụ của bạn hơn là sản phẩm hoặc
dịch vụ của đối thủ cạnh tranh) không chắc chắn và đương nhiên là khá rủi ro.
Trong thực tế, có một số DNKNST theo dõi những câu chuyện thành công của
các doanh nghiệp khác (sử dụng cùng một mô hình kinh doanh, tham gia vào
cùng một thị trường, có các sản phẩm hoặc dịch vụ tương tự). Trong trường
12
hợp này, một số rủi ro liên quan đến việc bán hàng và tiếp thị cũng có thể giảm
xuống.
1.1.2.4. Thiếu nguồn lực
Các DNKNST luôn thiếu nguồn lực (chủ yếu là thời gian và tiền bạc) vì
thị trường mục tiêu của họ lớn và việc phát triển sản phẩm đòi hỏi nhiều thử
nghiệm và tái triển khai. Điều quan trọng là tìm ra sự cân bằng phù hợp giữa
sự phát triển và việc thực hiện. Mục tiêu cuối cùng của bạn là đạt đến giai đoạn
có doanh thu nhanh chóng và tiết kiệm chi phí nhất có thể.
1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo đối với phát triển
kinh tế
1.1.3.1. Đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế
Các DNKNST sẽ là động lực của mọi nền kinh tế trong giai đoạn tới. Các
DNKNST ngày càng đóng góp nhiều hơn vào tổng GDP do số lượng ngày càng
nhiều và phân bổ ở hầu hết các ngành, lĩnh vực và địa phương. Ngoài ra, tốc độ
tăng trưởng của các DNKNST cao hơn rất nhiều so với các khu vực doanh nghiệp
khác, tại một số nước DNKNST được coi là xương sống của cả nền kinh tế.
DNKNST có đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế. DNKNST có
khả năng giữ vững nhịp độ tăng trưởng kinh tế và phát triển dù khi nền kinh tế
rơi vào khủng hoảng. Sự đóng góp này của các DNKNST là đáng kể, và các
nhà nghiên cứu kinh tế cũng như các nhà quản lý đều thống nhất cần phải trợ
giúp khu vực DNKNST là nền tảng để phát triển kinh tế và ổn định xã hội trong
thời đại công nghiệp 4.0. Với sự tiếp sức của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 và
thương mại điện tử thì các DNKNST sẽ là khu vực cạnh tranh lớn nhất, sáng
tạo lớn nhất vì nó huy động được toàn bộ nguồn lực cho xã hội và cho phát
triển.
DNKNST khi thành công sẽ phát triển nhanh chóng trở thành các doanh
nghiệp lớn đem lại nguồn lợi nhuận khổng lồ. Với những doanh nghiệp thành
13
công, quy mô của doanh nghiệp sẽ được mở rộng rất nhiều các DNKNST thành
công này sẽ dần trở thành các DN lớn, các tập đoàn xuyên quốc gia đóng góp
vào tăng trưởng của nền kinh tế.
Theo Mark Weinberger, Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc điều hành EY
toàn cầu cho biết: “Nền kinh tế toàn cầu đang trong quá trình dần phục hồi với
một tốc độ tăng trưởng tuy còn thấp. Có một cơ hội đẩy mạnh tăng trưởng thường
bị bỏ qua, đó là tăng cường hỗ trợ và thúc đẩy các DNKNST. DNKNST đang tiếp
tục thách thức xu hướng của thế giới trong khả năng kinh tế của họ và có kế hoạch
mở rộng và gia tăng nhân lực. Chính phủ các nước và các doanh nghiệp cần bắt
tay với các DNKNST để cùng tạo dựng được một môi trường tương tác hướng
đến thành công”.[8] Các DNKNST có niềm tin và thái độ rất tích cực đối với nền
kinh tế và khuynh hướng phát triển của nền kinh tế. Như vậy, DNKNST đang là
xu hướng phát triển kinh tế của thế giới, đồng thời DNKNST cũng là hạt nhân để
phục hồi, phát triển kinh tế thế giới vốn được đánh giá là phát triển chậm và già
cỗi trong thời đại 4.0.
1.1.3.2. Giải quyết lượng lớn việc làm
Đặc điểm chung của các DNKNST là sử dụng ít lao động, tuy nhiên với
số lượng DNKN lớn sẽ giải quyết được số lượng lớn lao động đặc biệt là nguồn
lao động trẻ có trình độ. Khởi nghiệp hoặc làm việc trong các công ty khởi nghiệp
ngay khi còn trên ghế nhà trường sẽ giúp sinh viên có kinh nghiệm về khởi
nghiệp để sau khi ra trường mỗi sinh viên là một DNKNST. Điển hình như đất
nước Isreal 95% sinh viên trước khi ra trường đều thực hiện tối thiểu đều mở cho
mình hoặc tham gia một tổ chức doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Tại Israel,
99% số sinh viên khởi nghiệp thất bại ngay từ trên ghế nhà trường. Như vậy mỗi
sinh viên đều tích lũy cho mình những kinh nhiệm về khởi nghiệp và tự tạo công
việc cho chính mình không lo là gánh nặng cho xã hội khi thất nghiệp.[9]
14
Rõ ràng, các DNKNST không chỉ mang lại lợi ích cho bản thân họ, vì
vậy chính phủ các nước, cần phải hỗ trợ DNKNST để xây dựng một môi trường
khuyến khích, hỗ trợ và thúc đẩy DNKNST, những công ty sử dụng lao động
tạo ra việc làm trong tương lai.
Theo khảo sát của EY toàn cầu về Tạo việc làm và tinh thần doanh nhân
trẻ trong năm 2017 trên toàn thế giới ước tính có khoảng 75 triệu thanh niên
thất nghiệp.[9] Chúng ta cần phải chú ý, quan tâm đến những tham vọng và sự
lạc quan của giới trẻ hiện nay, nếu không, chúng ta sẽ có nguy cơ lãng phí năng
lực của một thế hệ trẻ và chịu thiệt hại lâu dài về con người và kinh tế. Một nhu
cầu cấp thiết đặt ra là các nhà lãnh đạo doanh nghiệp, các DNKNST và các nhà
chính sách cần giúp các bạn trẻ phát huy tối đa tiềm năng của họ thông qua việc
tài trợ, cấp vốn hoặc tư vấn, cố vấn, tạo cơ hội việc làm và đào tạo thông qua
công việc thực tế. Khu vực DNKNST huy động được các nguồn lực trong dân
cư xã hội.
1.1.3.3. Huy động được các nguồn lực xã hội
Hiện nay rất nhiều DNKNST đang thiếu vốn trầm trọng thì nguồn vốn nhà
rỗi trong dân cư còn nhiều nhưng không huy động được. Khi DNKNST tiếp xúc
trực tiếp với người dân và huy động được nguồn vốn để kinh doanh. Tận dụng
nguồn lực vốn từ những người thân trong gia đình là điều mà các DNKNST làm
đầu tiên và rất phù hợp cho các DNKNST mới khởi đầu. Tuy là hình thức tự phát
nhưng cũng đã tận dụng tốt nguồn lực nhàn rỗi trong xã hội.
Lực lượng DNKHST giúp huy động lượng lớn vốn tồn tại trong dân cư.
Nếu có cơ chế phù hợp thì các nguồn lực của nền kinh tế sẽ được khai thác để
tạo ra của cải vật chất và đem lại lợi nhuận cho cá nhân, gia đình, doanh nghiệp
và xã hội. Theo Adam Smiths, sự giàu có của các quốc gia nhờ vào sự phát
triển của doanh nghiệp, trong quá trình tìm kiếm lợi nhuận, doanh nghiệp đã
làm giàu cho chính bản thân doanh nghiệp, mọi thành viên tham gia và cả cho
15
quốc gia qua đóng góp thuế.[10] Từ đó đến nay, các nhà quản lý và các nhà
kinh tế đều thừa nhận và nghiên cứu vai trò của doanh nghiệp. Với việc đẩy
mạnh khởi nghiệp tại các quốc gia thì vai trò của khu vực này thật sự lớn lao
đối với mỗi quốc gia đặc biệt là đối với các nền kinh tế mới nổi và đang phát
triển – những quốc gia có lượng vốn trong dân cực lớn.
1.1.3.4. Góp phần làm năng động nền kinh tế trong cơ chế thị trường
Tính linh hoạt của của các DNKNST đã tạo ra tính năng động của nền
kinh tế. Việc chuyển đổi nhanh chóng nhằm lấp các khoảng trống của thị trường
đã nói lên vai trò ổn định kinh tế của các DNKNST. Các DNKNST đem lại cho
nền kinh tế một hình ảnh mới về sự phát triển năng động, trở thành động lực
mới của nền kinh tế.
Sự ra đời của DNKNST đã làm tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế, làm
giảm sự độc quyền buộc các doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ tăng tính
cạnh tranh. Các doanh nghiệp phải liên tục đổi mới để tồn tại và phát triển. Với
sự linh hoạt của mình, các DNKNST sẽ tạo ra sức hút cạnh tranh, thậm chí cạnh
tranh với các công ty lớn, các tập đoàn xuyên quốc gia. Đồng thời DNKNST
còn đóng vai trò thúc đẩy quá trình chuyên môn hóa, phân công lao động trong
sản xuất.
Với sự linh hoạt của mình, các DNKNST là người đi tiên phong trong
việc áp dụng công nghệ và các phát minh mới cũng như các sáng kiến về kĩ
thuật. Do áp lực của cạnh tranh nên các DNKNST phải nghiên cứu cải tiến công
nghệ và đưa ra công nghệ mới với sự khác biệt để có thể cạnh tranh thành công.
Đây là những tiền đề đầu tiên làm thay đổi về công nghệ tạo ra nhiều đổi mới
trong nền kinh tế.
DNKNST giúp trẻ hóa nền kinh tế già cỗi, bị chi phối bởi các tập đoàn
lớn xuyên quốc tế. Thông qua các DNKNST Chính phủ các nước thổi một làn
16
gió mới, tăng cường đổi mới sáng tạo, tạo ra nhiều công ăn việc làm mới, nhiều
lĩnh vực ngành nghề mới.
1.1.3.5. Góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Các DNKNST thường chọn các ngách của thị trường, nên khả năng bao
phủ rất lớn. Vì qui mô và vốn nhỏ nên các DNKN thường chọn ngành về công
nghệ hoặc dịch vụ, thương mại. Cách lựa chọn như trên sẽ làm dịch chuyển
ngành dịch vụ so với ngành sản xuất, chế tạo và nông lâm ngư nghiệp. Ngoài ra,
các DNKNST tạo điều kiện để chuyển đổi kinh tế nông thôn và tạo điều kiện để
phụ nữ tham gia quản lý thông qua các dự án về nông nghiệp công nghệ cao. Ở
nhiều quốc gia, những DNKNST làm về công nghệ hỗ trợ sản xuất nông nghiệp
rất phát triển, chiếm một tỉ lệ cao trong các DNKNST. Đây là điều kiện để kinh
tế nông nghiệp, nông thôn có cơ hội nhảy vọt và là điều kiện để chuyển dịch kinh
tế nông thôn góp phần chuyển dịch nền kinh tế quốc gia.
Việc nhiều DNKNST được thành lập ở các vùng, các khu vực khác nhau
đặc biệt là ở các vùng nông thôn sẽ làm giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng
tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ. Điều này sẽ giúp cho việc chuyển
dịch cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông
nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ.
1.1.3.6. Ươm mầm các tài năng kinh doanh
Các DNKNST không chỉ có động lực từ những lợi ích kinh tế mà bên
cạnh những mục đích về doanh thu và lợi nhuận, việc để lại lợi ích cho xã hội
cũng là yếu tố thúc đẩy hàng đầu để phát triển DNKNST. Những yếu tố thúc
đẩy khác bao gồm việc đóng góp tích cực cho cộng đồng và truyền cảm hứng
và lôi cuốn người khác đi theo những khát vọng của họ. DNKNST cũng thể
hiện sự cam kết mạnh mẽ trong việc hỗ trợ và phát triển những người trẻ như
tạo ra những cơ hội thực tập và học nghề. Các DNKNST hầu như đều đang tạo
17
ra những cơ hội thực tập và học việc nhiều gấp 2 lần các doanh nhân lập nghiệp
khác trên toàn thế giới.[11]
Hiện nay, có rất nhiều bạn trẻ đang có ý định khởi nghiệp, họ có kế hoạch
khởi nghiệp và điều hành nghiệp kinh doanh riêng vào một thời điểm nào đó
phù hợp trong sự nghiệp của mình. Đáng chú ý, các bạn trẻ có muốn khởi
nghiệp đánh giá rất cao sự hướng dẫn và hỗ trợ của các doanh nhân, các
DNKNST đã thành công. Các bạn trẻ cho rằng một cơ hội thực tập thực tế có
sự hướng dẫn của các doanh nhân hàng đầu sẽ giúp những bạn trẻ thực hiện và
đạt được mục tiêu. Điều này cho thấy sự ảnh hưởng cả về tinh thần khởi nghiệp
và vai trò hỗ trợ của các DNKNST đối với các bạn trẻ là rất lớn.
Nhiều doanh nghiệp lớn đều xuất phát từ những doanh nghiệp khởi
nghiệp có quy mô cực nhỏ. Tuy nhiên, có hàng ngàn doanh nghiệp nhỏ ra đời
thì chỉ có ít doanh nghiệp phát triển thành những doanh nghiệp cực lớn như
Microsoft hay Google, Facebook, Apple. Chỉ những điều đó thôi cũng giúp cho
phong trào khởi nghiệp phát triển, và có thể nói DNKNST là nơi khởi phát tinh
thần doanh nghiệp, nơi đào tạo và cho ra đời những doanh nghiệp và doanh
nhân đem lại sự thay đổi sâu sắc đối với nền kinh tế. Nhiều nhà nghiên cứu cho
rằng vì hiệu quả theo quy mô không tồn tại, nên các DNKNST không phải là
động lực của nền kinh tế, nhưng nếu các DNKN là nơi để nhà doanh nghiệp
nhỏ làm quen với môi trường kinh doanh, dám nghĩ lớn và chịu nghiên cứu học
hỏi thì DNKNST sẽ trở thành cái nôi để ươm mầm cho các doanh nghiệp lớn
và tạo ra những doanh nhân thành đạt. Sự đóng góp đó của các DNKNST là
điều không thể phủ nhận.
18
1.2. Cơ sở lý luận về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng
tạo
1.2.1. Sự cần thiết thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi
nghiệp sáng tạo
DN khởi nghiệp sáng tạo cần được hỗ trợ vì những lợi ích mà DNKNST
mang lại cho nền kinh tế và vì những đặc điểm vốn có của DNKNST. Cụ thể
như sau:
- Đặc điểm nổi bật của DNKNST là tính sáng tạo trong mô hình kinh
doanh. Nhờ tính sáng tạo, DNKNST tạo ra những giá trị mới cho xã hội, tạo ra
nhiều giá trị gia tăng cho xã hội, có khả năng tăng trưởng nhanh và mở ra một
mô hình kinh doanh mới cho nền kinh tế. Học giả John R. Dearie (2017) đã chỉ
ra rằng, nhờ tính sáng tạo, các DNKNST đã có đóng góp rất lớn đến sự tăng
trưởng kinh tế Mỹ những năm 1950. Tính sáng tạo này rất cần được khuyến
khích để mở ra những hướng phát triển mới cho nền kinh tế.[12]
- Như đã phân tích, DNKNST luôn gắn với công nghệ, hoặc là sản phẩm
công nghệ, hoặc là sử dụng phổ biến công nghệ trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh. Trong bối cảnh xã hội loài người đang bước vào cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, việc thúc đẩy phát triển những DN gắn với công nghệ là một
đòi hỏi tất yếu.
- Mặc dù có tiềm năng đóng góp lớn cho sự phát triển kinh tế, song lại
có những trở ngại lớn cho sự phát triển của các DNKNST. Trở ngại đầu tiên,
cũng giống như mọi sự bắt đầu khác, là vốn đầu tư. Trong mọi hoạt động kinh
doanh, đều cần đến vốn đầu tư, song DNKNST cần một lượng vốn lớn do đặc
điểm kinh doanh gắn với công nghệ hoặc mô hình kinh doanh mới. Trở ngại
thứ hai, DNKNST được thành lập từ một ý tưởng kinh doanh sáng tạo – một ý
tưởng mới chưa từng có tiền lệ – bởi vậy, nó mới ở dạng tiềm năng, cần đầu tư
thêm nhiều chất xám và công sức để hoàn thiện và hiện thực hóa ý tưởng đó.
19
Tiếp đó, cũng do tính mới, tính sáng tạo nên DNKNST thường đối mặt với
những rủi ro tiềm ẩn, cần có sự hỗ trợ để vượt qua những rủi ro này.
DNKNST không thể đi một mình. Phát triển một hệ sinh thái khởi nghiệp
đổi mới sáng tạo cần ba trụ cột chính. Thứ nhất là nâng cao năng lực, nhận thức,
đặc biệt từ phía các địa phương và các trường đại học. Thứ hai, cần nâng cao
truyền thông để tạo ra văn hóa khởi nghiệp hỗ trợ khởi nghiệp, có nghĩa dám chịu,
dám làm, dám dứng lên và bắt đầu lại sau thất bại. Thứ ba là DNKNST không nên
một mình và phải liên kết. Trong hệ sinh thái thì Viện nghiên cứu, Trường đại học
và tổ chức cá nhân, doanh nhân là như nhau. Vì vậy, cần học hỏi lẫn nhau về các
bước đi phù hợp...
Ngoài ra, bên cạnh con người, các DNKNST cần có nguồn lực về tài
chính, dù ít hay nhiều vẫn nên có “bà đỡ” ban đầu từ phía chính sách của địa
phương để kích thích khu vực tư nhân tham gia với nhà nước hỗ trợ cho khởi
nghiệp.
1.2.2. Mục đích và yêu cầu của việc thực hiện chính sách hỗ trợ doanh
nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
Không phải mọi DNKNST đều được hỗ trợ. Đồng thời, hỗ trợ không có
nghĩa Nhà nước đem cho doanh nghiệp bao nhiêu tiền, mà là tạo cơ hội, tạo
thuận lợi cho doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ một phần chi phí khi
thực hiện hoạt động cụ thể nào đó. Mức độ hỗ trợ cũng khác nhau, trong đó,
doanh nghiệp đổi mới sáng tạo và doanh nghiệp tham gia cụm liên kết ngành,
chuỗi giá trị được hỗ trợ nhiều nhất. Khi khởi nghiệp, với nguồn vốn hạn chế,
khả năng kết nối đối tác chưa tốt, trong khi có rất nhiều thứ cần phải đầu tư nên
việc tận dụng các hỗ trợ từ chính sách sẽ giúp công ty thuận lợi hơn trong những
ngày đầu hoạt động.
Các chính phủ đang có xu hướng khuyến khích các doanh nghiệp trong
nước đẩy mạnh sáng tạo, tiếp cận với thế giới công nghệ, vươn mình đuổi theo
công cuộc cách mạng công nghệ 4.0 hiện nay. Với hỗ trợ từ phía chính phủ và
20
ngay chính bản thân mỗi doanh nghiệp cần nắm bắt cơ hội, mạnh dạn dấn thân
và khởi nghiệp thực hiện ước mơ của mình.
1.2.3. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện chính sách hỗ trợ doanh
nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
Quá trình thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST là quá trình phức tạp,
đòi hỏi chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố như:
1.2.3.1. Yếu tố môi trường chính trị
Những biến đổi trong hoàn cảnh chính trị có tác động đến việc thực
hiện chính sách hỗ trợ DNKNST. Thành phần trước tiên và cũng quan trọng
nhất của một hệ sinh thái hỗ trợ DNNKNST đó là chính sách của chính phủ.
Điều này không chỉ liên quan đến các lĩnh vực quan hệ trực tiếp với doanh
nghiệp khởi nghiệp nhỏ hay tinh thần khởi nghiệp, mà đối với một phạm vi
rộng các chính sách liên quan đến hệ thống thuế, các dịch vụ tài chính, viễn
thông, giao thông, thị trường lao động, hỗ trợ công nghiệp, giáo dục và đào
tạo, cơ sở hạ tầng và y tế. Phần lớn tại các nước môi trường chính trị các tác
động đến việc ban hành và thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST của quốc
gia đó bằng sự công nhận, hỗ trợ DNKNST.
1.2.3.2. Yếu tố môi trường kinh tế
Những thay đổi về điều kiện kinh tế có tác động to lớn đến việc thực hiện
chính sách hỗ trợ DNKNST. Một dự án hỗ trợ DNKNST phải dựa vào những
điều kiện kinh tế. Nhà nước có ngân sách dồi dào ưu tiên cho việc thực hiện
chính sách hay Nhà nước chỉ hỗ trợ hạn hẹp cho DN. Chẳng hạn một ưu đãi về
thuế thu nhập cho DNKNST. Thực tế, giảm thuế Thu nhập doanh nghiệp
(TNDN) cho DNKNST không phải là phương pháp hữu hiệu nhất giúp các DN
thoát khỏi tình cảnh bấp bênh, khó khăn lúc mới bắt đầu, nhưng đây lại là một
giải pháp tạo động lực, tạo niềm tin cho DN, đồng thời đây cũng chính là trong
số những giải pháp nuôi dưỡng nguồn thu. Việc nhà nước có những chính sách
giảm thuế sẽ giúp doanh nghiệp mới khởi nghiệp rất lớn vì có thể tiết kiệm được
21
chi phí và chuyển dòng vốn sang phục vụ cho công tác đầu tư, đồng thời giảm chi
phí trả lãi tiền vay, từ đó giảm giá thành, chi phí sản xuất kinh doanh, góp phần
nâng cao năng lực cạnh tranh, thu hút đầu tư.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng thì những
thay đổi của thế giới (bao gồm cả thay đổi chính sách của nhà nước và các tổ
chức kinh tế thế giới, các tổ chức khu vực) có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu
cực tới quá trình thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST thông qua ảnh hưởng
của chúng đến môi trường các nước, đặc biệt đối với những DNKNST sự thay
đổi chính sách của các nhà đầu tư, các quỹ đầu tư thiên thần trực tiếp ảnh hưởng
đến việc thực hiện chính sách. Tuy nhiên, tùy thuộc vào từng thời điểm cụ thể
mà mức độ ảnh hưởng của môi trường kinh tế quốc tế đến chính sách hỗ trợ
DNKNST khác nhau.
Việc thực hiện tốt được chính sách hỗ trợ DNKNST hay không phụ thuộc
rất lớn vào yếu tố môi trường kinh tế của Nhà nước và môi trường kinh tế quốc
tế.
1.2.3.3. Yếu tố môi trường xã hội
Phong trào khởi nghiệp ngày càng sôi nổi và bắt đầu phát triển hệ sinh thái
khởi nghiệp. Đây là điểm thuận lợi cho chính sách hỗ trợ DNKNST nhanh chóng
đi vào đời sống, tạo làn sóng khởi nghiệp mạnh mẽ. Nếu phong trào này thành
công, doanh nghiệp khởi nghiệp chính là những đối tượng tạo ra nhiều việc làm,
mang lại giá trị gia tăng vượt bậc cho nền kinh tế của mỗi quốc gia.
1.2.3.4. Yếu tố môi trường công nghệ
Khởi nghiệp sáng tạo, là quá trình khởi nghiệp dựa trên các giải pháp kỹ
thuật, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị
gia tăng của sản phẩm, hàng hóa và có khả năng tăng trưởng nhanh. Yếu tố cơ
sở hạ tầng công nghệ là nền tảng để các DNKNST thành công.
Các vườn ươm doanh nghiệp công nghệ cao là môi trường để thực hiện
chính sách hỗ trợ DNKNST. Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
22
đang bùng nổ mạnh mẽ công nghệ chính là phần hồn của doanh nghiệp nói
chúng và DNKNST nói riêng. Công nghệ sẽ là yếu tố để thực hiện tốt chính
sách và làm doanh nghiệp bứt phá vươn tầm thế giới.
1.2.3.5. Chủ thể chịu trách nhiệm thực hiện chính sách
Tổ chức bộ máy hành chính chịu trách nhiệm thực hiện chính sách hỗ trợ
DNKNST có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện chính sách. Việc tổ chức
thực hiện chính sách DNKNST đòi hỏi sự chung tay đồng bộ của các ngành,
lĩnh vực ở các cấp. Các mối quan hệ liên chính quyền như được thể hiện ở các
chương trình mục tiêu quốc gia, hoặc các mối quan hệ giữa các địa phương như
các chương trình của từng tỉnh, vùng có thể ảnh hưởng quan trọng đến việc
thực thi chính sách. Vì vậy nếu trong nội bộ chủ thể thực hiện chính sách có sự
chồng chéo, mâu thuẫn sẽ ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách hỗ trợ
DNKNST.
1.2.4. Các đặc điểm nội dung của chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi
nghiệp sáng tạo
Các quốc gia thường đưa ra các chương trình hỗ trợ, khuyến khích người
dân tham gia khởi nghiệp thông qua các chính sách thúc đẩy thành lập doanh
nghiệp, trợ giúp các DNKNST và các đề án hỗ trợ cộng đồng khởi nghiệp với
nhiều ưu đãi…nhằm tạo lập môi trường thuận lợi để thúc đẩy, hỗ trợ quá trình
hình thành và phát triển loại hình doanh nghiệp có khả năng tăng trưởng nhanh
dựa trên khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới.
1.2.4.1. Xây dựng chiến lược khởi nghiệp quốc gia
Chiến lược khởi nghiệp quốc gia là một chương trình được lên kế hoạch
thực hiện trong chuỗi giá trị giúp DNKNST hoạt động tốt hơn, hiệu quả hơn.
Tùy vào thế mạnh riêng, mỗi quốc gia và địa phương chọn cho mình những
lĩnh vực ưu tiên phù hợp, sau đó Nhà nước sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp khởi
nghiệp hoạt động hiệu quả.
23