Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

MỘT số điểm mới về tội PHẠM TRONG PHẦN CHUNG của BLHS năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.5 KB, 6 trang )

MỘT SỐ ĐIỂM MỚI VỀ TỘI PHẠM TRONG PHẦN CHUNG CỦA BỘ
LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015, SỬA ĐỔI NĂM 2017.
Ngày 27-11-2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Bộ luật
hình sự (BLHS) sửa đổi. Đến ngày 20/06/2017, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa
XIV thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015
Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi tắt là
BLHS năm 2015), theo đó, Bộ luật gồm 3 phần, 26 chương, 426 điều so với Bộ
luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 (sau đây gọi tắt là BLHS 1999),
có nhiều điểm mới quan trọng về tội phạm trong phần chung của BLHS năm 2015,
được thể hiện cụ thể như sau.
1. Về điểm mới về khái niệm tội phạm và phân loại tội phạm trong BLHS năm
2015.

Khái niệm tội phạm được quy định tạikhoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015, có
một số điểm mới đó là:
Về khách thể của tội phạm, so với khái niệm tội phạm của các Bộ luật Hình
sự trước đó thì khái niệm tội phạm trong BLHS năm 2015 đã bổ sung thêm “quyền
con người” vào các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, sự bổ sung này là
nhằm cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 (Điều 3 và chương II).
Vềchủ thể của tội phạm, chủ thể của tội phạm đã được mở rộng hơn, bao gồm
Con người và pháp nhân thương mại, quy định này là phù hợp với quy định về
pháp nhân thương mại.
Về hậu quả pháp lý của tội phạm: Trong khái niệm tội phạm của Bộ luật Hình
sự năm 1999 không quy định về tính phải bị xử lý hình sự nhưng dưới góc độ khoa
học pháp lý khi phân tích về tội phạm thì tính phải bị xử lý hình sự vẫn mặc nhiên
được thừa nhận. Có nghĩa, chỉ có tội phạm mới “phải bị xử lý hình sự” hay “phải
bị xử lý hình sự” chỉ gắn liền với tội phạm.
Đây là lý do mà BLHS năm 2015 bổ sung đặc điểm “phải bị xử lý hình sự”
trong định nghĩa khái niệm tội phạm tại Điều 8.
Như vậy, so với BLHS năm 1999, khái niệm tội phạm trong BLHS năm 2015
đã có nhiều điểm mới bổ sung theo hướng chặt chẽ, khoa học và phù hợp với thực


tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta.
- Điểm mới về phân loại Tội phạm.
Cách phân loại tội phạm giống như cách phân loại tội phạm trong BLHS năm
1999. Tuy nhiên, BLHS năm 2015 diễn đạt dấu hiệu mức cao nhất của khung hình
phạt cụ thể, rõ ràng hơn qua việc thể hiện cả mức cao nhất tối thiểu và mức cao
nhất tối đa.
BLHS năm 2015 bổ sung quy định về phân loại tội phạm đối với pháp nhân
thương mại cụ thể là tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện được phân loại
căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội theo


quy định tại khoản 1 Điều 9 và quy định tương ứng đối với các tội phạm được quy
định tại Điều 76 của BLHS năm 2015.
Bổ sung quy định này có ý nghĩa quan trọng để xác định thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự, thẩm quyền điều tra của cơ quan tiến hành tố tụng đối với
pháp nhân thương mại phạm tội; ngoài ra việc sửa đổi, bổ sung quy định về tổng
hợp hình phạt trong trường hợp pháp nhân thương mại phạm nhiều tội có ý nghĩa
rất quan trọng trong xét xử.
2. Thu hẹp độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Theo đó người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được quy định tại 28
điều luậttrong số 314 tội danh được quy định trong BLHS (chiếm tỷ lệ 8,91%)
thuộc 04 nhóm tội phạm: (1) Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm con người; (2) Các tội xâm phạm sở hữu; (3) Các tội phạm về ma túy;
(4) Các tội xâm phạm an toàn công cộng.
So với BLHS năm 1999, quy định của BLHS năm 2015 giới hạn phạm vi phải
chịu trách nhiệm hình sự của người trong độ tuổi 14 đến dưới 16 tuổi hẹp hơn,
BLHS năm 1999 chỉ giới hạn theo loại tội phạm còn BLHS năm 2015 không chỉ
giới hạn theo tội phạm mà còn giới hạn trong phạm vi một số tội phạm.
3. Trường hợp chuẩn bị phạm tội (Điều 14)

So với BLHS năm 1999, Có ba điểm mới rất quan trọng, đó là:
Khái niệm được mở rộng về nội hàm “chuẩn bị phạm tội”, theo đó, “chuẩn bị
phạm tội” bao gồm cả hành vi “thành lập, tham gia nhóm tội phạm”; đồng thời bổ
sung quy định loại trừ đối với các trường hợp mà hành vi chuẩn bị phạm tội cấu
thành một tội phạm cụ thể quy định tại Điều 109 (tội hoạt động nhằm lật đổ chính
quyền nhân dân), điểm a khoản 2 Điều 113 (tội khủng bố nhằm chống chính quyền
nhân dân) và điểm a khoản 2 Điều 299 (tội khủng bố) của BLHS.
Thu hẹp phạm vi xử lý hình sự đối với người có hành vi chuẩn bị phạm tội,
quy định rõ trong 25 tội danh thuộc 04 nhóm tội phạm (các tội xâm phạm an ninh
quốc gia; các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người;
các tội xâm phạm sở hữu và các tội xâm phạm an toàn công cộng)người có hành vi
chuẩn bị phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự, đây là một điểm mới của về
chuẩn bị phạm tội trong Bộ luật.
Trên cơ sở quy định này, lần đầu tiên, BLHS năm 2015 đã quy định một
khung hình phạt riêng đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội ngay trong từng điều
luật quy định về các tội danh cụ thể.
Đối với người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi chỉ phải trách nhiệm hình sự về hành
vi chuẩn bị phạm tội đối với 02 tội danh: giết người và cướp tài sản. Từ thực tiễn
xác định đây là những tội đặc biệt nguy hiểm, có tính bạo lực cao, xâm hại trực
2


tiếp đến tính mạng, sức khỏe của con người, cần được quy định để phòng ngừa, xử
lý, ngăn chặn sớm trước khi có thể xảy ra trên thực tế.
Vậy, so với BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 giới hạn phạm vi các hành vi
chuẩn bị phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự hẹp hơn và có sự phân biệt giữa
trường hợp chủ thể từ đủ 16 tuổi trở lên với trường hợp chủ thể từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi.
4. Về đồng phạm.
Khoản 4, Điều 17, BLHS năm 2015 bổ sung quy định xác định trách nhiệm

hình sự cụ thể trong trường hợp vượt quá của người thực hành, quy định “Người
đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người
thực hành”.
Quy định này thể hiện nguyên tắc chịu trách nhiệm độc lập về việc cùng thực
hiện vụ đồng phạm. Trong vụ đồng phạm, mỗi người đồng phạm tuy phải chịu
trách nhiệm chung về tội phạm nhưng do trách nhiệm hình sự là trách nhiệm cá
nhân nên việc xác định trách nhiệm hình sự cho từng người đồng phạm vẫn phải
dựa trên cơ sở hành vi cụ thể của mỗi người.
5. Về không tố giác tội phạm
Điểm mới đó là mở rộng đối vớingười không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con,
cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội về phải chịu trách nhiệm
hình sự là là các tội phạm “Xâm phạm an ninh quốc gia” và tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng.
BLHS năm 1999 thì chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm an ninh
quốc gia và các tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Điều 313.
Mở rộng phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của người bào chữa về hành vi
không tố giác thân chủ, việc BLHS năm 2017 quy định người bào chữa phải chịu
trách nhiệm hình sự nếu “không tố giác các tội quy định tại Chương XIII (Xâm
phạm an ninh quốc gia)của Bộ luật này hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng do chính người mà mình bào chữa đang chuẩn bị, đang thực hiện
hoặc đã thực hiện mà người bào chữa biết rõ khi thực hiện việc bào chữa”,
Theo quy định này thì hành vi không tố giác thân chủ của người bào chữa đã
mở rộng hơn so với BLHS 2015, không chỉ còn bó hẹp đối với việc không tố giác
những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Điều 389.
BLHS năm 2017 quy định rõ việc chịu trách nhiệm hình sự của người bào
chữa trong trường hợp không tố giác tội phạm như trên là hoàn toàn phù hợp, đảm
bảo được nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa và đáp ứng đầy đủ hơn, hiệu quả
hơn cho công tác đấu tranh, phòng ngừa và chống các tội phạm xâm phạm an ninh
quốc gia, các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác.
6. Về loại trừ trách nhiệm hình sự


3


Được quy định thành một chương, Chương IV, gồm có 07 điều luật, BLHS
năm 2015 bổ sung có 03 trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, đó là
Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội (Điều 24): Lần đầu tiên pháp
luật hình sự nước ta ghi nhận về hành vi gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm
tội là trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự. Việc ghi nhận này hoàn toàn
phù hợp với thực tiễn xét xử, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật hình sự.
Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật
và công nghệ (Điều 25):Các quy trình, quy phạm có liên quan đến hoạt động đã
được tiến hành được tuân thủ đúng và các biện pháp phòng ngừa trong điều kiện
chung cho phép được áp dụng đầy đủ. Chủ thể đã cố gắng hạn chế thấp nhất những
thiệt hại hoặc rủi ro mà có thể lường thấy được, đã tiến hành các biện pháp cần
thiết nhất để ngăn ngừa thiệt hại có thể xảy ra và thiệt hại, rủi ro xảy ra nằm ngoài
mong muốn của chủ thể.
Hành vi rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ
thuật và công nghệ phải nhằm đạt được mục đích duy nhất là đem lại lợi ích cho xã
hội và mục đích này đã không thể đạt được, gây ra sự rủi ro với chính việc nghiên
cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ.
Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên. (Điều 26): Hành
vi gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự có dấu hiệu nào đó bị pháp luật hình sự cấm
trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng
vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy
đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu
chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
7. Bổ sung đối với trường hợp không áp dụng thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự.
Khoản 4, Điều 28, BLHS năm 2015 bổ sung với Tội tham ô tài sản thuộc

trường hợp quy định tại khoản 4 điều 353 của Bộ luật hình sự; tội nhận hối lộ
thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 điều 354 BLHS.Việc BLHS
năm 2015 đưa tội tham ô và nhận hối lộ vào trường hợp không được hưởng áp
dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là cần thiết, thể hiện sự quyết tâm cao
của Nhà nước trong đấu tranh không khoan nhượng đối với loại tội phạm này.
8. Điểm mới về căn cứ miễn trách nhiệm hình sự.
Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS năm 2015 có
những điểm mới như sau.
Thứ nhất, đương nhiên miễn trách nhiệm hình sự: Người phạm tội được miễn
trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ: Khi tiến hành điều tra, truy tố
hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội
không còn nguy hiểm cho xã hội; Khi có quyết định đại xá.
Thứ hai, người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi thỏa mãn
một trong các căn cứ: Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của
4


tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; Khi tiến hành
điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn
khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa; Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc,
góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến
mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt,
được Nhà nước và xã hội thừa nhận.
Ngoài ra, BLHS 2015 đã bổ sung thêm một căn cứ mới để có thể được miễn
trách nhiệm hình sự, nếu người phạm tội đáp ứng đầy đủ các điều kiện tại khoản 3
Điều 29: “…Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm
trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài
sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự
nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách
nhiệm hình sự.”

10. Về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp Nhà nước ta đã quy định trách nhiệm hình
sự của pháp nhân tại Chương XI BLHS năm 2015.
Tuy nhiên, việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân mới chỉ tập
chung vào pháp nhân thương mại và đối với hai nhóm tội là các tội xâm phạm trật
tự quản lý kinh tế và các tội phạm về môi trường.
*. Về Hình phạt: Đối với pháp nhân thương mại phạm tội có hình phạt chính
và hình phạt bổ sung.
Hình phạt chính bao gồm: Phạt tiền; Đình chỉ hoạt động có thời hạn; Đình chỉ
hoạt động vĩnh viễn.
Hình phạt bổ sung bao gồm: Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số
lĩnh vực nhất định; Cấm huy động vốn; Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt
chính.
- Về nguyên tắc áp dụng hình phạt: đối với mỗi tội phạm mà người hoặc pháp
nhân thương mại phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng
một hoặc một số hình phạt bổ sung.
*. Về điều kiện chịu trách nhiệm hình sự: pháp nhân thương mại chỉ phải chịu
trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện sau đây: Hành vi phạm tội được thực
hiện nhân danh pháp nhân thương mại; Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích
của pháp nhân thương mại;Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều
hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại; Chưa hết thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Bộ luật hình sự.
Khi truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân cần chú ý quy định tại khoản
2 Điều 75 Bộ luật hình sự "Việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự
không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân".

5


*. Về phạm vi chịu trách nhiệm hình sự: Điều 76 quy định pháp nhân thương

mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về 33 tội phạm, trong đó có 22 tội thuộc
nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và 09 tội thuộc nhóm các tội phạm
về môi trường.
Như vậy những điểm mới quy định về tội phạm trong phần chung của BLHS
năm 2015 là cơ sở pháp lý quan trọng trong công cuộc đấu tranh, phòng ngừa tội
phạm của đảng và nhà nước ta, thể hiện chính sách pháp luật hình sự của đảng và
nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay./.

6



×