Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Luận văn thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở các trường trung học phổ thông từ thực tiễn huyện đức linh, tỉnh bình thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (746.84 KB, 119 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN HUY SEN

THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
CÁC TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐỨC LINH, TỈNH BÌNH THUẬN

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN HUY SEN

THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
CÁC TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐỨC LINH, TỈNH BÌNH THUẬN

Ngành

: Chính trị học

Mã số

: 8 31 02 01


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN THẾ NGHĨA

HÀ NỘI, năm 2018


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận
đƣợc sự quan tâm, hƣớng dẫn tận tình của quý thầy, cô đang công tác, giảng
dạy tại Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Từ đó, giúp tôi có điều kiện tiếp cận và cập nhật, bổ sung thêm kiến thức về
khoa học chính trị, phục vụ tốt hơn cho công tác chuyên môn của bản thân.
Đến nay, tôi đã hoàn thành chƣơng trình học và hoàn chỉnh luận văn tốt
nghiệp, tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc, Khoa Triết học và tập thể
giảng viên đang công tác tại Học viện Khoa học xã hội đã giúp đỡ, tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi học tập, nghiên cứu trong suốt thời gian qua.
Tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến PGS.TS Nguyễn Thế Nghĩa,
ngƣời đã dành thời gian và tâm huyết để truyền đạt cho tôi kinh nghiệm,
phƣơng pháp nghiên cứu, tận tình hƣớng dẫn tôi với tinh thần trách nhiệm cao
trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Tôi gửi lời cảm ơn chân thành đến Lãnh đạo các trƣờng THPT trên địa
bàn huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận đã quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho
tôi nghiên cứu và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Dù đã có nhiều cố gắng, song luận văn chắc chắn không thể tránh khỏi
những thiếu sót và hạn chế. Tôi rất mong nhận đƣợc sự chia sẻ và những ý
kiến đóng góp quý báu của các thầy, cô và các bạn học viên để luận văn có
giá trị thực tiễn hơn.
Trân trọng cảm ơn!



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn “Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
các trường trung học phổ thông từ thực tiễn huyện Đức Linh, tỉnh Bình
Thuận” này là công trình nghiên cứu thực sự của cá nhân, đƣợc thực hiện
trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và xuất phát từ thực tiễn tại địa phƣơng, dƣới
sự hƣớng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Thế Nghĩa.
Các số liệu và những kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực,
chƣa từng đƣợc công bố dƣới bất cứ hình thức nào trƣớc khi trình, bảo vệ và
công nhận bởi Hội đồng đánh giá Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Chính trị học.
Một lần nữa tôi xin khẳng định sự trung thực của lời cam kết trên.
Ngƣời cam đoan

Trần Huy Sen


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: DÂN CHỦ VÀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ - MỘT
SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ................................................. 9
1.1. Lý luận chung về dân chủ ....................................................................... 9
1.2. Thực hiện dân chủ ở cơ sở .................................................................... 19
Tiểu kết Chƣơng 1 ....................................................................................... 28
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QUY CHẾ
DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ CÁC TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
HUYỆN ĐỨC LINH, TỈNH BÌNH THUẬN ............................................ 29
2.1. Khái quát đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa- con ngƣời, tỉnh
Bình Thuận trong thời kỳ đổi mới ............................................................... 29
2.2. Thực trạng việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở các trƣờng trung học
phổ thông huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận .............................................. 33
2.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở

trong các trƣờng trung học phổ thông - từ huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận
..................................................................................................................... 59
Tiểu kết Chƣơng 2 ....................................................................................... 68
KẾT LUẬN................................................................................................. 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CBGV-CNV : Cán bộ giáo viên - Công nhân viên
THPT

: Trung học phổ thông

GD&ĐT

: Sở Giáo dục và Đào tạo

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

UBND

: Uỷ ban nhân dân

Nxb

: Nhà xuất bản



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chúng ta có thể khẳng định rằng: nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền
dân chủ tiến bộ nhất trong lịch sử cho đến nay; việc vận dụng lý luận về dân
chủ xã hội chủ nghĩa để giải quyết tốt những vấn đề đang đặt ra đối với việc
phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội hiện nay là vô cùng cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu
sắc.
Tuy nhiên, vấn đề xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta
vẫn tồn tại một số bất cập: Hiện nay, “Tình trạng suy thoái về chính trị, tƣ
tƣởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng”; “Quyền làm chủ của nhân
dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị vi phạm. Tình trạng này làm
ảnh hƣởng nghiêm trọng đến bản chất tốt đẹp của chế độ dân chủ nƣớc ta, làm
suy giảm động lực phát triển của đất nƣớc. Chừng nào quan liêu, tham nhũng
và suy thoái nêu trên còn diễn ra trầm trọng, thì chừng đó chƣa thể nói chúng
ta đã xây dựng và phát huy tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của
nhân dân trong đời sống hiện thực. Nhận thức còn hạn chế của một bộ phận
cán bộ, công chức, viên chức và ngƣời dân, tổ chức bộ máy nhà nƣớc còn
cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả.. Hàng loạt vấn đề về lý luận và thực tiễn
trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam trong bối cảnh kinh tế thị trƣờng hiện nay đang đặt ra những đòi hỏi cấp
bách mà Đảng, nhà nƣớc và nhân dân ta cũng nhƣ các nhà khoa học cần phải
tập trung giải quyết.
Đáng lƣu ý là, tổ chức thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở còn chƣa
vững chắc, rộng khắp và chƣa thƣờng xuyên liên tục. “Dân chủ hình thức còn
nhiều… Tình trạng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân cũng nhƣ tình trạng
1



lợi dụng dân chủ, vi phạm kỷ cƣơng pháp luật còn xảy ra nhiều nơi… Việc
giám sát, kiểm tra thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở còn nhiều hạn chế”[17].
Trên địa bàn huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận có 03 trƣờng THPT
(Trƣờng THPT Đức Linh, Trƣờng THPT Quang Trung, Trƣờng THPT Hùng
Vƣơng) thực hiện nhiệm vụ giảng dạy cho đối tƣợng là con em địa phƣơng và
vùng lân cận, cho nên việc thực hiện có hiệu lực và hiệu quả Quy chế dân chủ
ở cơ sở, phát huy đƣợc quyền làm chủ của cán bộ giáo viên - công nhân viên
(CBGV-CNV) trong nhà trƣờng không những là yêu cầu cấp bách của sự
nghiệp đổi mới trong ngành GD&ĐT mà còn có tác động tích cực đến học
sinh, phụ huynh kích thích và lôi cuốn họ phát huy quyền làm chủ để cùng
tham gia vào sự nghiệp trồng ngƣời, vì mục tiêu “Dân giàu, nƣớc mạnh, xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở các trường trung học phổ thông từ thực tiễn huyện Đức
Linh, tỉnh Bình Thuận”làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ ngành
Chính trị học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, đề tài dân chủ vẫn luôn thu hút sự quan tâm của nhiều học
giả với nhiều cách tiếp cận khác nhau; đó là các bài viết trên các tạp chí, các
báo, đó là các luận án, luận văn, đề tài nghiên cứu khoa học; đó là các công
trình nghiên cứu dƣới dạng tài liệu tham khảo; có thể khái quát các công trình
nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến đề tài luận văn dƣới đây:
Phạm Ngọc Quang (1997), Dân chủ và chủ nghĩa xã hội - Từ di sản
của Lênin đến công cuộc đổi mới ở nước ta , Tạp chí Triết học số 1 (95). Bài
viết tập trung nghiên cứu những vấn đề về dân chủ và chủ nghĩa xã hội trong
di sản của Lênin và quá trình vận dụng vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam.

2



Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ (2001), ban hành cuốn “Hướng dẫn
triển khai quy chế dân chủ cơ sở”. Thông qua tổng kết việc ban hành và tổ
chức thực hiện quy chế dân chủ. Các tác giả chỉ ra những thành tựu đạt đƣợc
trong quá trình thực hiện dân chủ và nhấn mạnh: Thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở đã tạo ra động lực mới thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc;
và từ thực tiễn đổi mới đang đặt ra nhiều vấn đề về thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Phạm Ngọc Dũng (2003), Mối quan hệ giữa thực hiện dân chủ cơ sở và
đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo trong xây dựng hệ thống chính trị cơ
sở: Một số nguyên lý cơ bản, Tạp chí Triết học số 6 (145). Bài viết phân tích
một số nguyên lý cơ bản về mối quan hệ giữa thực hiện dân chủ cơ sở và đổi
mới nội dung, phƣơng thức lãnh đạo trong xây dựng hệ thống chính trị cơ sở
ở Việt Nam.
Nguyễn Trọng Thóc (2003), Phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay,
Tạp chí Triết học số 7 (146). Tác giả phân tích vấn đề phát huy quyền làm chủ
của nhân dân trong bối cảnh xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam và đƣa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện nhà nƣớc pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Lƣơng Đình Hải (2006), Xây dựng Nhà nước pháp quyền và vấn đề dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học số 1 (176).Trong
bài báo này tác giả tập trung phân tích vấn đề xây dựng nhà nƣớc pháp quyền
và vấn đề dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.Đồng thời, tác giả
luận chứng một số giải pháp thúc đẩy sự phát triển đồng bộ, biện chứng giữa
nhà nƣớc pháp quyền và dân chủ.
Lê Thi (2006), Công bằng, dân chủ và bình đẳng giới ở Việt Nam, Tạp
chí Triết học số 10 (185). Tác giả bài viết tập trung phân tích vấn đề công
bằng và bình đẳng về cơ hội, làm rõ vai trò của Nhà nƣớc trong việc tạo ra
3



các cơ hội về kinh tế, chính trị, cơ hội tiếp cận với các quỹ phúc lợi công
cộng. Đồng thời, đề xuất một số kiến nghị với Nhà nƣớc về vấn đề này.
PGS.TS.Nguyễn Thế Nghĩa (chủ biên), Những nguyên lý triết
học(2016), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; Trong công trình này tác giả chỉ
ra: sự phát triển của các hình thức dân chủ trong lịch sử, và nhấn mạnh rằng
“dân chủ là quyền làm chủ của nhân dân trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội”; “dân chủ đƣợc thể chế hóa vào chế độ nhà nƣớc và nó trở thành hình
thức chính quyền nhà nƣớc”; “dân chủ thể hiện mình nhƣ là nguyên nhân, nhƣ
là kết quả của tiến bộ xã hội, đồng thời lại là tiêu chuẩn của nó.”[42,tr.429 430]
TS. Lƣơng Gia Ban (chủ biên), công trình „„Dân chủ và việc thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở‟‟ (2003), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả
đã đề cập đến những khía cạnh rất cơ bản của vấn đề dân chủ dƣới quan điểm
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và đƣờng lối của
Đảng ta. Tác giả đã rút ra những bài học và ý nghĩa lịch sử từ di sản tƣ tƣởng
quý báu của V.I.Lênin và chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta hiện nay; đồng thời, làm rõ quan điểm
của Đảng và Nhà nƣớc ta về xây dựng cơ chế thực hiện dân chủ và những
yếu tố đảm bảo cho quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội.
PGS. TS Nguyễn Cúc với công trình „„Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở trong tình hình hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn‟‟, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội (2002). Tác giả đã đi sâu phân tích một số khía cạnh cơ
bản về lý luận và thực tiễn của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong
điều kiện lịch sử cụ thể hiện nay.
Trong bài viết của tác giả Trần Bạch Đằng, „„Dân chủ ở cơ sở một sức
mạnh truyền thống của dân tộc Việt Nam‟‟, Tạp chí Cộng sản, số 35
(12/2003). Tác giả khẳng định việc thực hiện dân chủ ở cơ sở là một khâu rất
4



quan trọng nhằm hoàn thiện cơ chế nhân dân làm chủ xã hội trong công cuộc
đổi mới ở Việt Nam.Theo tác giả, đây là một vấn đề không chỉ mang ý nghĩa
thời sự mà còn là một sự tiếp nối truyền thống, phát huy sức mạnh của dân tộc
đƣợc hình thành trong lịch sử mấy nghìn năm đấu tranh dựng nƣớc và giữ
nƣớc của dân tộc ta.
Nhóm các công trình nghiên cứu về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở:
“Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa theo chế độ một đảng ở nước ta”
của PGS Vũ Hữu Ngoạn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; “Một số suy
nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay” của TS Đỗ Trung Hiếu,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; “Dân chủ trên một số lĩnh vực ở Việt
Nam hiện nay” của GS. TS Phạm Ngọc Quang, Tạp chí Lý luận chính trị, số
11/2008; “Về quá trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”
của Lê Minh Quân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011; “Ý thức dân chủ xã
hội chủ nghĩa của sinh viên các trường đại học ngành khoa học xã hội và
nhân văn ở Hà Nội hiện nay”, luận văn thạc sĩ chuyên ngành CNXHKH của
tác giả Lƣu Duy Toàn, Hà Nội, 2013; và nhiều bài báo khác.
Các công trình khoa học trên đã đi sâu nghiên cứu về vấn đề dân chủ,
dân chủ XHCN, thực hiện dân chủ trên một số lĩnh vực. Từ quan điểm về dân
chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, các tác giả đã đƣa ra
quan niệm riêng về góc độ dân chủ của mình, luận giải tƣơng đối rõ những cơ
sở lý luận và thực tiễn về dân chủ, dân chủ XHCN, đồng thời đánh giá đúng
thực trạng kết quả thực hiện dân chủ ở các địa phƣơng, đơn vị, từ đó đề xuất
phƣơng hƣớng và những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lƣợng thực
hiện dân chủ trong thời gian tiếp theo.
Ngoài ra, còn có các đề tài khác nhƣ “Thực hiện Quy chế dân chủ và
xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay” do TS. Nguyễn Văn Sáu GS. Hồ Văn Thông đồng chủ trì. Đề tài “Hệ thống chính trị cơ sở - Đặc điểm,
5


xu hướng và giải pháp” của TS. Vũ Hoàng Công - Học viện Chính trị Quốc

gia Hồ Chí Minh, Hà Nội 2002 cũng tập trung nghiên cứu với những khía
cạnh khác nhau của vấn đề dân chủ và thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Tuy nhiên, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong các trƣờng trung
học phổ thông ở tỉnh Bình Thuận hiện chƣa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu.
Đề tài luận văn này đƣợc thực hiện dựa trên sự kế thừa, phát triển những kết
quả của các tài liệu có liên quan trƣớc đó để đánh giá, phân tích, từ đó đề xuất
ra các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong
các trƣờng trung học phổ thông từ thực tiễn huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận
trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ thực trạng việc thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở trong các trƣờng trung học phổ thông ở huyện Đức Linh,
tỉnh Bình Thuận, luận văn đề xuất phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở các trƣờng trung học phổ thông
của huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận trong những năm tiếp theo.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt đƣợc mục đích nêu trên, luận văn thực
hiện các nhiệm vụ sau đây:
Một là, phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về dân chủ và thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở ở các trƣờng THPT nói chung và ở tỉnh Bình
Thuận nói riêng.
Hai là, trên cơ sở phân tích thực trạng nhằm đánh giá, so sánh việc thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong các trƣờng THPT ở huyện Đức Linh, tỉnh
Bình Thuận trong thời gian qua.
Ba là, đề xuất một số nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả của việc thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở ở các trƣờng THPT ở huyện Đức Linh, tỉnh
Bình Thuận hiện nay.
6


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

Đối tượng nghiên cứu:Luận văn nghiên cứu việc thực hiện Quy chế dân
chủ cơ sở trong các trƣờng trung học phổ thông.
Phạm vi nghiên cứu:Phạm vi không gian: Khảo sát Quy chế dân chủ cơ
sở trong các trƣờng THPT trên địa bàn huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.
Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu việc thực hiện Quy chế dân
chủ cơ sở trong các trƣờng THPT trên địa bàn huyện Đức Linh, tỉnh Bình
Thuận từ 2010 đến nay thông qua khảo sát thực tế tại 03 trƣờng THPT ở
huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở thế giới quan và
phƣơng luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, đƣờng lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam về dân chủ, dân chủ hóa và quy chế dân chủ ở cơ sở.
Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu và trình bày luận
văn, chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời, sử dụng các phƣơng pháp cụ thể nhƣ: hệ
thống cấu trúc, lịch sử và lôgích, phân tích và tổng hợp, so sánh, quy nạp và
diễn dịch, khái quát hóa…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận:
Luận văn nghiên cứu về mặt lí luận, hệ thống hóa nhận thức về dân chủ
và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Qua đó, góp phần cung cấp luận chứng,
căn cứ khoa học của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong trƣờng học
nói chung và trƣờng THPT trên địa bàn huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận nói
riêng.

7


Kết quả nghiên cứu một số vấn đề lý luận về dân chủ và thực hiện quy

chế dân chủ ở cơ sở đã làm sáng tỏ, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu
quả thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong các trƣờng trung học phổ thông.
Về mặt thực tiễn:
Luận văn đã nêu lên một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân chủ và
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở để từ đó nâng cao hiệu quả thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở trong các trƣờng trung học phổ thông.
Luận văn cũng là một cơ sở khoa học có ý nghĩa thiết thực cho các
trƣờng học nói chung và các trƣờng THPT nói riêng trên địa bản tỉnh Bình
Thuận trong quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và luận văn cũng là
một tài liệu tham khảo có giá trị cho những ai quan tâm nghiên cứu đến vấn
đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn, không tính phần mở đầu thì đƣợc chia làm 2 chƣơng, phần
kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, cụ thể:
Chƣơng 1: Dân chủ và thực hiện dân chủ ở cơ sở - một số vấn đề lý
luận và thực tiễn
Chƣơng 2: Thực trạng và giải pháp thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
các trƣờng trung học phổ thông, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận

8


Chƣơng 1
DÂN CHỦ VÀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Lý luận chung về dân chủ
1.1.1. Khái niệm dân chủ
Thuật ngữ "dân chủ" ra đời trong xã hội Hy Lạp cổ đại, nó đƣợc tạo
thành bởi hai từ: Demos có nghĩa là nhân dân và Kratos có nghĩa là quyền
lực. Nhƣ vậy, dân chủ (Démoskratos), theo nguyên tiếng Hy Lạp, có nghĩa là

quyền lực thuộc về nhân dân và do chính nhân dân thực hiện quyền lực của
mình trong tất cả các lĩnh vực của đòi sống xã hội.
Quyền lực, trƣớc hết là quyền uy và sức mạnh của con ngƣời đƣợc thể
hiện trong những tổ chức xã hội nhất định. Trong xã hội công xã nguyên thủy,
quyền lực của nhân dân đƣợc bộc lộ và thực hiện trong những tổ chức tự quản
của công xã. Trong các xã hội có giai cấp và nhà nƣớc, quyền lực ấy đƣợc thể
chế hóa vào chế độ nhà nƣớc và pháp luật, Vì vậy, ở đây dân chủ mang hình
thức mới - hình thức nhà nƣớc với những tên gọi khác nhau: chính thể dân
chủ, nền dân chủ hay chế độ dân chủ. Chính thể dân chủ, theo V.I.Lênin: đó
là chính quyền của nhân dân.
Dân chủ ra đời gắn liền với hình thức nhà nƣớc, dân chủ mang trong mình
những đặc trƣng cơ bản sau:
Một là: Thừa nhận quyền sống, quyền tự do, bình đẳng của công dân trƣớc
pháp luật.
Hai là: Dựa trên nguyên tắc đa số quyết định, thiểu số phục tùng.
Ba là: Đƣợc thực hiện bằng những công cụ, phƣơng pháp và phƣơng tiện
có hiệu quả (giáo dục và cƣỡng bức, tự do và pháp luật..).
C.Mác cho rằng, dân chủ là cái chung, cái bản chất, nó đƣợc thể hiện ở
một mức độ nào đó trong các chế độ nhà nƣớc khác nhau. Với tƣ cách là chế
9


độ dân chủ thì nhà nƣớc phả xem xét và đặt con ngƣời vào vị trí trung tâm để
phục vụ.
Tuy nhiên, trong lịch sử đã tồn tại những nhà nƣớc phi dân chủ. Chẳng
hạn, nhƣ trong xã hội chiếm hữu nô lệ và xã hội phong kiến, hoặc những chế
độ độc tài nhƣ chế độ phát xít Hítle trƣớc đây là những chế độ bóp nghẹt
quyền làm chủ và tự do của con ngƣời.
. Trong xã hội không có giai cấp và không có nhà nƣớc, thì dân chủ đƣợc
bộc lộ và đƣợc thực hiện dƣới những hình thức tổ chức tự quản của xã hội.

Trong xã hội có giai cấp và nhà nƣớc, dân chủ đƣợc thể chế hóa vào chế độ
nhà nƣớc và nó trở thành hình thức chính quyền nhà nƣớc.
Với biểu hiện quyền làm chủ của nhân dân, dân chủ thể hiện trình độ văn
minh của con ngƣời trong mỗi thời kỳ lịch sử nhất định; nó mang một ý nghĩa
nhân văn sâu sắc. Trong mỗi thời kỳ lịch sử, dân chủ thể hiện mình vừa là
nguyên nhân, vừa là kết quả của sự tiến bộ xã hội.
Mặc dù xuất hiện từ rất sớm, nhƣng cho đến nay, khái niệm dân chủ vẫn
còn những quan niệm khác nhau. Các trào lƣu triết học phi mácxít thƣờng coi
nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số và sự bình đẳng của công dân là đặc
trƣng cơ bản của dân chủ. Họ xem xét dân chủ tách rời với những điều kiện
kinh tế - xã hội, với vấn đề sở hữu về tƣ liệu sản xuất và với vấn đề giai cấp
và đấu tranh giai cấp để giành quyền lực chính trị, quyền bình đẳng tham gia
vào các quyết định quản lý của nhà nƣớc. Đó chỉ là những quan niệm mang
tính chất hình thức về dân chủ, nhằm che đậy cho các mục đích chính trị ẩn
náu trong các thể chế chính trị của giai cấp thống trị, bóc lột.
Trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng, triết học mácxít đƣa ra
quan niệm đúng đắn về bản chất của dân chủ. Trong đó khẳng định: dân chủ
là mọi ngƣời dân bình đẳng với nhau và đƣợc quyền tham gia trực tiếp hay
gián tiếp vào các quyết định quản lý xã hội của nhà nƣớc, nhờ đó mà họ đều
10


có quyền đƣợc hƣởng thụ những lợi ích từ các quyết định đó mang lại. Khi đề
cập đến vấn đề đó, C. Mác đã viết: Dân chủ là mọi công dân đều có quyền
tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào những quyết định trong quá trình quản
lý, điều hành xã hội của nhà nước và đều có quyền được hưởng lợi từ trong
các quyết định đó một cách bình đẳng. V.I.Lênin còn nhấn mạnh: Phát triển
dân chủ một cách đầy đủ, nghĩa là làm cho toàn thể quần chúng nhân dân lao
động tham gia thật sự, bình đẳng và thật sự rộng rãi vào mọi hoạt động của
nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã đề cập đến bản chất của dân chủ

một cách ngắn gọn, khái quát: “Dân chủ là dân làm chủ”.
Từ thực tiễn lịch sử ra đời và phát triển của dân chủ, chủ nghĩa Mác Lênin đã nêu ra những quan niệm cơ bản về dân chủ nhƣ sau:
Thứ nhất, dân chủ là sản phẩm tiến hóa của lịch sử, là nhu cầu khách
quan của con ngƣời nhằm thỏa mãn những nhu cầu về mọi mặt ngày càng đầy
đủ hơn và thực chất hơn.
Thứ hai, dân chủ với tƣ cách là một phạm trù chính trị gắn với một
phƣơng thức sản xuất và một kiểu nhà nƣớc và một giai cấp cầm quyền nhất
định. Vì vậy, dân chủ luôn mang tính giai cấp, tính lịch sử cụ thể; không có và
không thể có thứ “dân chủ trừu tƣợng”, phi giai cấp, phi lịch sử.
Thứ ba, dân chủ với cách tiếp cận là giá trị và hệ giá trị mang lại công
bằng và bình đẳng có nghĩa là đã xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công. Theo
V.I.Lênin, dân chủ đó chính là bình đẳng. Rõ ràng là cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản để giành quyền bình đẳng có một ý nghĩa rất lớn, nghĩa là phải
hiểu bình đẳng cho đúng, hiểu theo nghĩa xóa bỏ giai cấp.
Trong xã hội có giai cấp và nhà nƣớc, quyền lực của nhân dân đƣợc thể
chế hóa bằng chế độ nhà nƣớc, pháp luật và cũng từ khi xã hội có giai cấp,
dân chủ đƣợc thực hiện dƣới hình thức mới - hình thức nhà nƣớc với tên gọi
là “chính thể dân chủ” hay “nền dân chủ”.
11


Buớc chuyền từ xã hội công xã nguyên thủy sang xã hội chiếm hữu nô
lệ đã đánh dấu bƣớc ngoặt quan trọng của dân chủ. Dân chủ là quyền lực của
nhân dân đƣợc thực hiện bởi những tổ chức tự quản một cách tự nguvện, theo
truyền thống đã chuyển sang một hình thức mới gắn với nhà nƣớc. Từ đây
dân chủ đƣợc thể chế hóa bằng chế độ nhà nƣớc, bằng pháp luật của giai cấp
thống trị chủ nô và đƣợc thực hiện chủ yếu bằng cƣỡng chế. Nên dân chủ hay
chế độ dân chủ đầu tiên trong lịch sử của xã hội có giai cấp xuất hiện.Do đó,
nền dân chủ luôn gắn với nhà nƣớc nhƣ là cơ chế để thực thi dân chủ và
mang bản chất giai cấp của giai cấp thống trị.

Nƣớc ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, hƣớng đến xây dựng
thành công CNXH và nền dân chủ XHCN. Đây là khát khao, nguyện vọng
của cả dân tộc Việt Nam, đồng thời nó cũng là động lực to lớn cho những
thắng lợi của sự nghiệp đổi mới của cách mạng nƣớc ta những năm vừa qua.
Trong tƣ tƣởng và hoạt động thực tiễn của mình, chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn trung thành với lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, lý
luận về dân chủ nói riêng, phấn đấu cho sự nghiệp xây dựng một nền dân
chủ thực sự cho dân tộc. Nghiên cứu nền dân chủ ở Mỹ và Pháp chủ tịch
Hồ Chí Minh cho rằng đó là nền dân chủ tƣ sản, tiếng là cộng hòa và dân
chủ nhƣng dân chủ với thiểu số trong xã hội, đó là dân chủ của giai cấp tƣ
sản, còn đại bộ phận các giai cấp nhƣ giai cấp công nhân, nông dân và
ngƣời lao động khác vẫn bị bóc lột nặng nề. Chính dân chủ kiểu tƣ sản
không phải là mẫu hình cho Việt Nam đi theo. Để có dân chủ, chính quyền
cách mạng phải thực hiện tự do cho dân chúng, một chính quyền có nhiệm
vụ to lớn thì “Bao nhiêu cái xấu, thối nát, bất công, áp bức của chế độ cũ,
của các Hội đồng kỳ mục trƣớc sẽ không thể tồn tại trong các Uỷ ban nhân
dân bây giờ” [32, tr.23]. Trong nhà nƣớc của dân, thì dân là chủ, ngƣời
dân đƣợc hƣởng mọi quyền dân chủ, nghĩa là có quyền làm bất cứ việc gì
12


mà pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nƣớc của
dân phải bằng mọi nỗ lực, hình thành đƣợc các thiết chế dân chủ để thực
thi quyền làm chủ của ngƣời dân, trên ý nghĩa đó, các vị đại diện của dân,
do dân cử ra, chỉ là thừa ủy quyền của dân, chỉ là công bộc của dân.
Dân chủ là khát vọng muôn đời của con ngƣời. Theo đó, “Dân là chủ”
là cách diễn đạt ngắn gọn, rõ ràng, đi thẳng vào bản chất của khái niệm
trong cơ cấu quyền lực của xã hội.
Tóm lại, dân chủ là một phạm trù chính trị - xã hội. Quan niệm về dân
chủ có một quá trình phát triển từ thấp đến cao, phụ thuộc vào những điều

kiện kinh tế, chính trị, xã hội nhất định trong từng giai đoạn cụ thể của lịch
sử. Quan niệm về dân chủ trong lịch sử là hết sức phức tạp, theo các chiều
hƣớng khác nhau và chịu sự chi phối bởi lợi ích kinh tế và hệ tƣ tƣởng của
các giai cấp khác nhau. Chỉ có dƣới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin thì
vấn đề dân chủ mới đƣợc đề cập một cách đầy đủ nhất, bản chất nhất và khoa
học nhất. Cũng phải khẳng định rằng, chỉ có dƣới CNXH, thì mới đảm bảo có
đƣợc một nền dân chủ thực sự cho nhân dân lao động, dân chủ với ý nghĩa
đích thực của nó.
1.1.2. Vai trò của dân chủ trong xã hội và trong trường học
Vai trò của dân chủ trong xã hội:
Ngay từ xã hội công xã nguyên thủy, để duy trì sự tồn tại của mình, con
ngƣời đã biết tự tổ chức ra những hoạt động có tính cộng đồng, các thành viên
công xã đều bình đẳng tham gia vào mọi công việc của xã hội. Việc cử ra
những ngƣời đứng đầu các cộng đồng và phế bỏ những ngƣời đứng đầu nếu
không thực thi đúng những quy định chung đƣợc giao do mọi thành viên công
xã quyết định thông qua đại hội nhân dân. Đây đƣợc coi là hình thức dân chủ
sở khai, chất phác của những tổ chức cộng đồng tự quản trong xã hội chƣa có
giai cấp.
13


Khi chế độ chiếm hữu tƣ nhân về tƣ liệu sản xuất ra đời, giai cấp và bất
bình đẳng xuất hiện, các hình thức tự quản của xã hội trƣớc đây đã không còn
thích hợp, xã hội cần đến những tổ chức chính trị với những công cụ bạo lực,
cƣỡng bức để điều chỉnh hoạt động của xã hội, giai cấp và công dân. Trong
điều kiện nhƣ vậy, một tổ chức đặc biệt đã ra đời, đó là nhà nƣớc. Trong xã
hội chiếm hữu nô lệ, giai cấp chủ nô đã lập ra cơ quan quyền lực nhằm trƣớc
hết bảo vệ lợi ích của mình và sau nữa nhằm đáp ứng nhu cầu ổn định trật tự
xã hội. Cơ quan quyền lực đó chính là nhà nƣớc dân chủ đối với chủ nô, thực
hiện sự thống trị của thiểu số đối với đại đa số những ngƣời lao động, tức

những ngƣời nô lệ. Nhƣng cũng từ đây, nhà nƣớc do giai cấp chủ nô nắm giữ
đã quy định dân bao gồm chủ nô, quý tộc, tăng lữ, thƣơng gia, một số trí thức
và ngƣời tự do, còn tuyệt đại đa số nô lệ thì không đƣợc coi là dân.
Sau hàng ngàn năm lịch sử, các giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp
tƣ sản đã bằng mọi cách tiếp tục chiếm đoạt quyền lực của nhân dân lao động.
Với sự thành công của Cách mạng Tháng Mƣời Nga năm 1917 đã mở ra một
thời đại mới: lần đầu tiên trong lịch sử loài ngƣời, nhân dân lao động đã giành
lại đƣợc quyền lực chính trị của mình. Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa do giai cấp
công nhân lãnh đạo thông qua chính đảng của nó đã trở thành nhà nƣớc đầu
tiên thực hiện quyền lực của nhân dân.
Nghiên cứu quá trình xuất hiện, tồn tại và phát triển của các nền dân
chủ trong lịch sử, đặc biệt là phân tích kỹ quy luật phát triển của nền dân chủ
chủ nô, dân chủ tƣ sản, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã
khẳng định: đấu tranh cho dân chủ là một quá trình lâu dài và không thể dừng
lại ở dân chủ tƣ sản. Sự tất yếu diễn ra và thắng lợi của cách mạng xã hội chủ
nghĩa cùng là sự tất yếu ra đời của một nên dân chủ mới - dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Quá trình đó gắn liền với quá trình ra đời của chủ nghĩa xã hội.

14


Tuy nhiên, sự hình thành và phát triển của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa là một quá trình lâu dài. Cách mạng xã hội chủ nghĩa tạo ra những điều
kiện cần thiết để giải phóng quần chúng nhân dân lao động, để mở rộng dân
chủ và trên cơ sở đó cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng lôi cuốn nhân dân lao
động vào công cuộc cải tạo xã hội, xây dựng nền dân chủ mới.
Chính vì vậy, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực, tiền đề quan
trọng xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa và dân chủ xã hội chủ nghĩa sẽ
đƣợc nâng lên tầm cao mới, từng bƣớc phù hợp với quá trình phát triển của
kinh tế, chính trị và văn hóa, xã hội.

Trong quá trình hình thành và phát triển, dân chủ xã hội chủ nghĩa có
những đặc trƣng cơ bản sau đây:
Một là, với tƣ cách là chế độ nhà nƣớc đƣợc sáng tạo bởi quần chúng
nhân dân lao động dƣới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, dân chủ xã hội chủ
nghĩa bảo đảm mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Nhà nƣớc bảo đảm thỏa
mãn ngày càng cao các nhu cầu và lợi ích của nhân dân, trong đó có lợi ích
của giai cấp công nhân – giai cấp tiên tiến nhất và cách mạng nhất . Đây chính
là đặc trƣng bản chất chính trị của dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Hai là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phải lấy chế độ công hữu về tƣ
liệu sản xuất để phát triển kinh tế. Chế độ sở hữu đó phù hợp với quá trình xã
hội hóa ngày càng cao của sản xuất nhằm thỏa mãn nhu cầu không ngừng
tăng lên về vật chất và tinh thần của tất cả quần chúng nhân dân lao động.
Đây là đặc trƣng kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đặc trƣng này
đƣợc hình thành và bộc lộ ngày càng đầy đủ cùng với quá trình hình thành và
hoàn thiện của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đó là quá trình cải tạo và xây
dựng lâu dài kể từ khi bƣớc vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cho đến
khi chủ nghĩa xã hội thực sự trƣởng thành.

15


Ba là, trên cơ sở của sự kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể
và lợi ích của toàn xã hội (do nhà nƣớc của giai cấp công nhân đại diện), nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa có sức động viên, thu hút mọi tiềm năng sáng tạo,
tính tích cực xã hội của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Trong
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tất cả các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn
thể và mọi công dân đều đƣợc tham gia vào công việc của nhà nƣớc (bằng
thảo luận, góp ý kiến xây dựng chính sách, hiến pháp, pháp luật...). Mọi công
nhân đều đƣợc hƣởng quyền và thực hiện nghĩa vụ trong mọi lĩnh vực .
Bốn là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng phải có những nhu cầu tồn

tại để mƣu cầu lợi ích của tuyệt đại đa số cho tuyệt đại đa số. Thực hiện dân
chủ rộng rãi với đông đảo quần chúng nhân dân, đồng thời hạn chế dân chủ và
thực hiện trấn áp thiểu số những thế lực phản động chống phá chủ nghĩa xã
hội.Đây chính là chuyên chính kiểu mới và dân chủ theo lối mới trong lịch sử.
Năm là, nếu dân chủ xã hội chủ nghĩa không ngừng đƣợc mở rộng cùng
với sự phát triển kinh tế, xã hội; hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế hoạt
động và trình độ dân trí.
C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã có những luận điểm khái quát về
chủ nghĩa xã hội, về dân chủ xã hội chủ nghĩa và tính tất yếu của việc xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin, động lực của quá trình phát triển xã hội, của quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội là dân chủ. Với việc phát triển chế độ dân chủ một cách đầy
đủ. Thực hiện dân chủ đầy đủ, rộng rãi trở thành một yêu cầu khách quan,
một động lực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội Chủ nghĩa xã hội chỉ
có thể có đƣợc bằng phƣơng pháp thực hành dân chủ một cách rộng rãi trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực hành dân chủ rộng rãi trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội cũng chính là quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, một nền dân chủ mới bảo đảm cho sự thành công của chủ nghĩa xã
16


hội. Bởi vì, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bắt nguồn từ bản chất của chế độ xã
hội chủ nghĩa. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng là quá trình vận
động và thực hành dân chủ; là quá trình vận động biến dân chủ từ khả năng
thành hiện thực trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; là quá trình đƣa các
giá trị, chuẩn mực, nguyên tắc của dân chủ vào thực tiễn xây dựng cuộc sống
mới. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thực sự trở thành một cuộc cách
mạng của đông đảo quần chúng nhân dân lao động dƣới sự lãnh đạo của đảng
cộng sản. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng thực
hiện chuyển giao quyền lực thực sự về cho nhân dân với mục đích lôi cuốn

nhân dân vào quá trình sáng tạo xã hội mới.
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình tất yếu diễn ra
nhằm xây dựng, phát triển và hoàn thiện dân chủ, đáp ứng nhu cầu của nhân
dân. Trƣớc hết, nó trở thành điều kiện, tiền đề thực hiện quyền lực, quyền làm
chủ của nhân dân; là điều kiện cần thiết, tất yếu để mỗi công dân đƣợc sống
trong bầu không khí thực sự dân chủ.
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng chính là quá trình thực
hiện dân chủ hóa đời sống xã hội dƣới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân
thông qua chính đảng của nó, Đảng Cộng sản. Đây cũng là nhân tố quan trọng
chống lại những biểu hiện của dân chủ cực đoan, vô chính phủ, ngăn ngừa
mọi hành vi coi thƣờng kỷ cƣơng, pháp luật.
Nhƣ vậy, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một quá trình tất
yếu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, của quá trình vận động biến
dân chủ từ khả năng trở thành hiện thực, để nền dân chủ “ngày càng hƣớng
tới cơ sở hiện thực của nó, tới con ngƣời hiện thực, nhân dân hiện thực, và
đƣợc xác định là sự nghiệp của bản thân nhân dân”[38].
Tại Đại hội IX, Đảng ta đã khẳng định :“Thực hiện tốt quy chế dân chủ,
mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý
17


xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng”. Theo đó, việc phát
huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở nƣớc ta hiện nay là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt. Cũng vậy,
việc phát huy dân chủ và mở rộng dân chủ ở cơ sở trong các trƣờng THPT là
vấn đề có vai trò hết sức quan trọng và là vấn đề thời sự rất quan trọng của
bản thân tổ chức, hoạt động của các cơ sở giáo dục và đào tạo hiện nay.
Vai trò của dân chủ trong trƣờng học
Đổi mới toàn diện đất nƣớc, trong đó đổi mới giáo dục – đào tạo có ý
nghĩa quan trọng đối với xây dựng con ngƣời, phát triển nguồn nhân lực phục

vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nƣớc ta. Để tạo ra động lực cho đổi mới
trƣớc hết cần phải thực hiện dân chủ hóa, nhất là dân chủ hóa ở cơ sở. Trên
tinh thần đó, ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị Trung ƣơng Đảng đã ban hành Chỉ
thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Ngày 08
tháng 9 năm 1998, Chính phủ đã ra Nghị định số 71/1998/NĐ-CP ban hành
Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan. Đây là cơ sở pháp lý
để triển khai và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở của ngành GD&ĐT nói
chung và ở các trƣờng học nói riêng. Việc đƣa Quy chế dân chủ vào nhà
trƣờng có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng:
Một là, thực hiện Quy chế dân chủ ở trƣờng học góp phần nâng cao
nhận thức về quyền và nghĩa vụ, phát huy quyền làm chủ, khơi dậy đƣợc sức
sáng tạo, của cán bộ, giáo viên và của ngƣời học.Cho nên cần đánh giá đúng
mối quan hệ giữa các cá nhân với tập thể . Điều đó đòi hỏi đối với mỗi
CBGV-CNV trong nhà trƣờng phải ý thức đƣợc quyền làm chủ của mình, tự
giác thực hiện nghĩa vụ đƣợc giao, góp phần nâng cao ý thức xây dƣợng nhà
trƣờng. Nhƣ vậy, một khi Quy chế dân chủ cơ sở đƣợc tổ chức thực hiện tốt
không những sẽ khắc phục đƣợc những tiêu cực mà còn khơi dậy đƣợc tính

18


sáng tạo của mỗi cá nhân, tạo đƣợc sức mạnh đoàn kết của tập thể, do đó sẽ
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của nhà trƣờng.
Thứ hai, thực hiện Quy chế dân chủ ở trƣờng học sẽ tăng cƣờng nề nếp,
kỷ cƣơng, khắc phục đƣợc các hiện tƣợng tiêu cực, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý, sử dụng tài sản, tài chính, trong thi, cử tuyển sinh, đánh giá v.v...
dân chủ gắn liền với kỉ cƣơng, tình thƣơng và trách nhiệm thì hiệu quả về mọi
mặt trong nhà trƣờng sẽ đƣợc nâng lên.
Thứ ba, thực hiện Quy chế dân chủ ở trƣờng học sẽ góp phần niềm tin
và xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa nội bộ trƣờng học với cấp ủy Đảng

và Chính quyền, giữa giáo viên với học sinh và phụ huynh học sinh. Trong
đó, giáo viên và học sinh đƣợc biết, đƣợc bàn, đƣợc làm những gì và kiểm tra
những gì? Điều đó góp phần tạo ra cơ chế tự điều chỉnh và tự kiểm tra giám
sát trong quản lý của nhà trƣờng góp phần ngăn chặn đƣợc những hành vi
quan liêu, sai trái, của cán bộ, công chức, viên chức tạo ra niềm tin của
CBGV-CNV với lãnh đạo nhà trƣờng.
1.2. Thực hiện dân chủ ở cơ sở
1.2.1. Sự cần thiết phải thực hiện dân chủ ở cơ sở
Trƣớc yêu cầu của thời đại, thực tiễn đặt ra vấn đề phải đổi mới và hội
nhập quốc tế, yêu cầu của đổi mới chính trị ở cơ sở đòi hỏi phải thực hiện dân
chủ ở cơ sở nhƣ là một tất yếu khách quan. Đây là nơi đông đảo ngƣời lao
động sinh sống và làm việc. Hay nói cách khác, nhân dân ở đây là những
ngƣời lao động ở xã, phƣờng, thị trấn. Chính vì vậy, cơ sở là nơi ngƣời dân có
nhu cầu về làm chủ, có điều kiện thuận lợi nhất để thể hiện quyền làm chủ của
mình và thực hành dân chủ ở cơ sở.
Bác Hồ sinh thời thƣờng hay nói với cán bộ, chiến sĩ là: “Dễ trăm lần
không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”, nhắc nhở cán bộ,
chiến sĩ luôn tâm niệm về một chế độ dân chủ, đất nƣớc của nhân dân, chính
19


×