Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Ưu đãi đầu tư đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài theo pháp luật đầu tư việt nam từ thực tiễn các khu kinh tế ven biển, vùng kinh tế trọng điểm miền trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 101 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ MINH DƯƠNG

ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI THEO PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ VIỆT NAM TỪ
THỰC TIỄN CÁC KHU KINH TẾ VEN BIỂN, VÙNG
KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM MIỀN TRUNG

Ngành : Luật kinh tế
Mã số : 8380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. BÙI NGUYÊN KHÁNH

HÀ NỘI, năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người cam đoan



Lê Minh Dương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI
ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI CÁC KHU
KINH TẾ VEN BIỂN, VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM MIỀN TRUNG ......... 7
1.1. Sự cần thiết phải ưu đãi đầu tư đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các
Khu kinh tế ven biển, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung ....................................... 7
1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại các Khu kinh tế ven biển, vùng kinh tế trọng điểm miền
Trung ........................................................................................................................... 9
1.3. Khái niệm, đặc điểm, phân loại khu kinh tế ven biển ........................................ 17
1.4. Pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các Khu
kinh tế ven biển, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung ............................................. 22
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại các Khu kinh tế ven biển, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung ...... 25
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI CÁC KHU KINH TẾ VEN
BIỂN VÀ VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM MIỀN TRUNG ............................ 34
2.1. Khái quát về các khu kinh tế ven biển và vùng kinh tế trọng điểm miền
Trung có liên quan đến pháp luật về Ưu đãi đầu tư đối với đầu tư trực tiếp nước
ngoài .......................................................................................................................... 34
2.2. Thực trạng quy định pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại các Khu kinh tế ven biển, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung................ 41
2.3. Thực trạng thực hiện pháp luật về Ưu đãi đầu tư đối với đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại các Khu kinh tế ven biển, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung ...... 59
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP

LUẬT VỀ ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI TẠI CÁC KHU KINH TẾ VEN BIỂN VÀ VÙNG KINH TẾ
TRỌNG ĐIỂM MIỀN TRUNG ............................................................................. 67


3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại các Khu kinh tế ven biển, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung ........... 67
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại các Khu kinh tế ven biển, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung................ 69
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN
CIEM

Association of Southeast Asian Nation
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương

CNH, HĐH Cơng nghiệp hố, hiên đại hố
DN
Doanh nghiệp
ĐTTN
Đầu tư trong nước
ĐTNN

Đầu tư nước ngồi


FDI

KCN
KCX
KH&CN
KKT

Foreign Direct Investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Official Development Assistance
Hỗ trợ phát triển chính thức
Khu cơng nghiệp
Khu chế xuất
Khoa học và cơng nghệ
Khu kinh tế

KCNC
KT – XH
KTTĐMT

Khu công nghệ cao
Kinh tế - xã hội
Kinh tế trọng điểm miền Trung

SCM
SEZ

Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng
Special Economic Zone

Đặc khu kinh tế
Transnational Corporations
Tập đoàn xuyên quốc gia
Thu nhập doanh nghiệp

ODA

TNCs
TNDN
UBND
UNCTAD
UNIDO
VAT
WEPZA
WTO

Uỷ ban nhân dân
United Nations Conference on Trade and Development
Diễn đàn của Liên hợp quốc về thương mại và phát triển
United Nations Industrial Development Organization
Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hiệp quốc
Thuế giá trị gia tăng
World Expot Processing Zone Association
Hiệp hội thế giới về khu chế xuất
World Trade Organization
Tổ chức Thương mại thế giới


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Số hiệu


Tên bảng

Trang

Bảng 2.1. Thông tin cơ bản về Quy hoạch các KKT trong Vùng

36

Bảng 2.2. Đóng góp vào ngân sách của các KKT của vùng KTTĐ miền
Trung

37

Bảng 2.3. Tình hình thu hút đầu tư vào các KKT trong Vùng

37

Bảng 2.4. Đóng góp vào ngân sách của các KKT của vùng KTTĐ miền
Trung

40


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ưu đãi đầu tư là một trong các giải pháp quan trọng trong việc thu hút đầu tư
góp phần vào tăng trưởng kinh tế và mang lại những tác động tích cực đến kinh tế và
xã hội của quốc gia và vùng miền. Với mục tiêu góp phần hồn thiện mơi trường luật
pháp tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh nhằm tăng cường thu

hút đầu tư cho sự phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam
luôn chú trọng xây dựng các chính sách đầu tư, trong đó có chính sách ưu đãi đầu tư
nhằm tạo ra một khung pháp lý hoàn thiện và phù hợp.
Khu kinh tế ven biển là mô hình phát triển có tính đột phá cho phát triển kinh tế
vùng, hỗ trợ những vùng, lãnh thổ có điều kiện thuận lợi khai thác lợi thế về điều kiện
tự nhiên, vị trí địa kinh tế và chính trị để phát triển kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế;
huy động tối đa nguồn nội lực, tìm kiếm và áp dụng những thể chế và chính sách kinh
tế mới để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực; kết hợp phát triển kinh tế với
giữ vững an ninh, quốc phòng
Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII năm 1997 đã đề
ra chủ trương nghiên cứu xây dựng thí điểm một vài đặc khu kinh tế, khu mậu dịch tự
do ở những địa bàn ven biển có đủ điều kiện. Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 Ban chấp
hành Trung ương khoá X về Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020 của Đảng ta chỉ
rõ: Nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển trên cơ sở phát huy
mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành nghề biển với cơ cấu phong phú,
hiện đại tạo ra tốc độ phát triển nhanh bền vững với hiệu quả, tốc độ cao; phấn đấu đến
năm 2020, kinh tế trên biển và ven biển đóng góp khoảng 53-55% GDP của cả nước,
trong đó các KKT được xác định đóng vai trị động lực, chủ đạo.
Bên cạnh đó, Bộ Chính trị có ý kiến chỉ đạo về việc hình thành các KKT tại
các Thông báo số 79-TB/TW ngày 27/9/2002 và số 155-TB/TW ngày 9/9/2004 của
Ban chấp hành Trung ương; Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 16/8/2004 của Bộ Chính
trị về phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh quốc phòng vùng Bắc Trung Bộ và Duyên
hải Trung Bộ đến năm 2010.
Tại Quyết định số 148/2004/QĐ-TTg ngày 13/8/2004 về phương hướng chủ yếu
phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đến năm 2010 và tầm nhìn
đến năm 2020, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành và địa phương nghiên cứu
xây dựng đề án thành lập KKT ven biển trên cơ sở phân tích tiềm năng lợi thế của các
vùng, thể chế hố chủ trương của Bộ Chính trị, tạo ra khung pháp lý và tổ chức hoạt động

1



của KKT nhằm bảo đảm sự phát triển lâu dài và bền vững của các KKT.
Lũy kế đến tháng 12/2016, các KKT ven biển của cả nước thu hút được 354 dự
án đầu tư nước ngoài với tổng mức đầu tư đăng ký đạt 42 tỷ USD, vốn đầu tư thực
hiện đạt 20,2 tỷ USD (bằng 48,1% tổng vốn đầu tư đăng ký) và 1.079 dự án đầu tư
trong nước với tổng vốn đầu tư đạt 805,2 nghìn tỷ đồng, vốn đầu tư thực hiện đạt
347,9 ngàn tỷ đồng (bằng 43,2% vốn đầu tư đăng ký).
Bên cạnh đó, các KKT ven biển cũng đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, xuất
khẩu, tăng thu ngân sách nhà nước, giải quyết việc làm. Trong năm 2016, các KKT
ven biển đạt tổng doanh thu khoảng 8 tỷ đô la, xuất khẩu đạt hơn 5 tỷ USD, đóng góp
vào ngân sách nhà nước khoảng 30 nghìn tỷ đồng. Bên cạnh các lợi ích kinh tế, các
KKT ven biển còn tạo điều kiện cho các địa phương giải quyết việc làm, thu hút lao
động có trình độ tay nghề cao. Đến nay, các KKT ven biển đã giải quyết việc làm cho
khoảng 130 nghìn lao động. Một số khu du lịch, nghỉ dưỡng tại các KKT ven biển đã
hình thành một mặt thu hút phát triển ngành du lịch, mặt khác là nơi sinh sống của các
chuyên gia đầu ngành trong và ngoài nước đến làm việc trong các KKT ven biển.
Sau hơn 10 năm thực hiện Luật Đầu tư chung kể từ năm 2005, đạo luật từng
được xem là “một bước tiến quan trọng trong tiến trình xây dựng, hồn thiện hệ thống
pháp luật về đầu tư tại Việt Nam”, đến nay mặt dù đã có sự thay đổi, điểu chỉnh, song
Luật Đầu tư vẫn còn khá nhiều điểm bất cập và hạn chế trong đó các quy định về ưu
đãi đầu tư, đặc biệt là sự chưa đồng bộ, thống nhất giữa các luật có liên quan về ưu đãi
đầu tư. Yêu cầu rà soát, sửa đổi, bổ sung những nội dung liên quan đến ưu đãi đầu tư
đang là một đòi hỏi thiết yếu để hồn thiện đạo luật với vị trí là một trong những văn
bản quan trọng nhất về kinh doanh và đầu tư. Thiết nghĩ, việc xem xét, đánh giá một
cách có hệ thống và tồn diện về pháp luật ưu đãi đầu tư đối với khu kinh tế ven biển
khơng chỉ góp phần hồn thiện pháp luật về ưu đãi đâu tư nói riêng mà cịn góp phần
xây dựng khung pháp luật đầu tư nói chung.
Thực tế trên đặt ra một yêu cầu cơ bản là làm sao để xây dựng một thể chế về
ưu đãi đầu tư đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khu kinh tế được vận hành tốt

để các chính sách đề ra phát huy hết các mặt mạnh của nó và đưa đến kết quả cuối
cùng là tăng trưởng ngày càng nhanh, càng mạnh cho nền kinh tế quốc gia. Với đề tài
“Ưu đãi đầu tư đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài theo pháp luật đầu tư Việt Nam từ
thực tiễn các Khu kinh tế ven biển, vùng kinh tế trọng điểm Miền trung” tác giả phác
họa bức tranh tổng thể các quy định về ưu đãi đầu tư đối với đầu tư trực tiếp nước
ngoài trong khu kinh tế ven biển của Việt Nam hiện nay. Trong luận văn này, tác giả

2


cũng đề cập đến thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với
đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khu kinh tế từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hồn
thiện các quy định pháp luật liên quan.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Về ưu đãi đầu tư, từ trước đến nay đã có một số cơng trình nghiên cứu ở các
góc độ khác nhau như: “Ưu đãi đầu tư đối với đầu tư nước ngoài theo Luật đầu tư
2014 từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng” của tác giả Nguyễn Văn Phụng, “Pháp luật về
ưu đãi đầu tư ở Việt Nam” của tác giả Lê Thị Lệ Thu; “Pháp luật của Việt Nam về ưu
đãi đầu tư với thực tiễn ở tỉnh Quảng Ngãi”, của tác giả Phạm Thị Thanh Ngọc; “So
sánh luật khuyến khích đầu tư trong nước và Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam”
của Phạm Thị Hải Yến; “Hoàn thiện pháp luật về khuyến khích đầu tư trong nước” của
Hồng Minh Sơn; “Hội nhập khu vực quốc tế về kinh tế và những vấn đề đặt ra với
khung pháp lý về đầu tư” của Lê Thanh Nga v.v…
Các luận văn nghiên cứu trên từ nhiều góc độ khác nhau đã phân tích, đánh giá
pháp luật về ưu đãi đầu tư nói chung. Tuy nhiên, mỗi cơng trình có sự nhìn nhận từ các
khía cạnh khác nhau, cũng có một số cơng trình nghiên cứu đề cập đến các vấn đề về
ưu đãi đầu tư đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài song chưa có cơng trình nào nghiên
cứu một cách cụ thể, báo quát và đi sâu vào đánh giá các quy định của pháp luật về ưu
đãi đầu tư đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khu kinh tế ven biển , vùng kinh tế
trọng điểm miền Trung hiện nay.

Đây là luận văn thạc sĩ luật học đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện về pháp
luật ưu đãi đầu tư đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khu kinh tế ven biển ở Việt Nam
hiện nay.
Dựa trên cơ sở các quy định của Pháp luật về Đầu tư, các văn bản pháp luật về
Đất đai, Thuế, các văn bản pháp luật về khu kinh tế … cùng với các báo cáo tổng kết,
rà soát, đánh giá thực tiễn, các bài viết, ý kiến tranh luận của các chuyên gia và các
cơng trình nghiên cứu khác… Tài liệu tham khảo từng nội dung cụ thể được trích dẫn
trong Luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu: Nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về của
pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với đầu tư trực tiếp nước ngồi; phân tích, đánh giá thực
trạng pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài từ thực tiễn các

3


khu kinh tế ven biển, vùng kinh tế trọng điểm miền trung; để từ đó đề xuất các phương
hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về về ưu đãi đầu tư đối với đầu tư trực tiếp nước
ngồi nói chung và tại các khu kinh tế ven biển, vùng kinh tế trọng điểm miền trung
nói riêng
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, Luận văn có
các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
- Nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về ưu đãi đầu tư và pháp luật về
ưu đãi đầu tư đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khu kinh tế ven biển, vùng kinh
tế trọng điểm;
- Phân tích đánh giá thực trạng pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại các khu kinh tế ven biển, vùng kinh tế trọng điểm ở Việt Nam hiện nay;
- Phân tích đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại các khu kinh tế ven biển, vùng kinh tế trọng điểm miền trung ở
Việt Nam hiện nay;

- Đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về về ưu đãi đầu tư đối
với đầu tư trực tiếp nước ngồi nói chung và tại các khu kinh tế ven biển, vùng kinh tế
trọng điểm miền trung ở Việt Nam trong thời gian tới
Với mong muốn chủ động đóng góp ý kiến để hồn thiện mơi trường pháp lý
minh bạch, bình đẳng, phù hợp với thực tế, thuận lợi cho cộng đồng doanh nghiệp,
Luận văn này hy vọng nhận được sự đánh giá, ủng hộ của các thầy cơ trong hội đồng,
theo đó thúc đẩy việc sửa đổi các quy định pháp luật hiện hành trong thời gian sớm
nhất, đáp ứng nguyện vọng của đông đảo doanh nghiệp. Đây cũng là một trong những
hành động thiết thực thực hiện theo phương châm chuyển từ một Nhà nước quản lý
điều hành sang một Nhà nước kiến tạo, liêm chính và hành động.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Các quy định của pháp luật về các ưu đãi, hỗ trợ,
bảo đảm đầu tư áp dụng đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khu kinh tế ven biển
nhưng không giới hạn trong các quy định về biện pháp ưu đãi đầu tư (ưu đãi về sử
dụng đất, thuế, khấu hao tài sản cố định, chuyển lỗ) và các hỗ trợ đầu tư khác, quy
định về thủ tục thực hiện ưu đãi đầu tư....
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các quy định của
pháp luật hiện hành về ưu đãi đầu tư trên cơ sở so sánh với pháp luật của một số nước

4


trên thế giới, đồng thời tìm hiểu thực tiễn áp dụng, triển khai các quy định về ưu đãi
đầu tư tại một số khu kinh tế ven biển vùng kinh tế trọng điểm miền Trung từ đó đề
xuất các kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề nêu trên.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết
- Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết
- Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh và tổng hợp.

- Phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm
- Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh và tổng hợp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận duy vật biện chứng.
- Phương pháp luận duy vật lịch sử.
- Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh và tổng hợp.
- Phương pháp tiếp cận hệ thống.
- Phương pháp chuyên gia
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn: “Ưu đãi đầu tư đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài theo pháp luật
đầu tư Việt Nam từ thực tiễn các Khu kinh tế ven biển, vùng kinh tế trọng điểm Miền
trung” có những đóng góp cơ bản sau:
- Giải quyết tương đối đầy đủ và có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về ưu
đãi đầu tư và pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khu
kinh tế ven biển;
- Chứng minh sự cần thiết của các quy định của pháp luật về ưu đãi đầu tư đối
với môi trường đầu tư tại các khu kinh tế ven biển miền Trung nói riêng và nền kinh tế
nói chung;
- Đánh giá đúng đắn thực trạng pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với đầu tư trực
tiếp nước ngoài trong khu kinh tế ven biển của Việt Nam đồng thời nêu lên những kết
quả đã đạt được và các bất cập tồn tại trong thực tiễn thực hiện các quy định về ưu đãi
đầu tư tại các khu kinh tế;

5


6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Từ những vấn đề lý luận, yêu cầu của thực tiễn, tác giả đưa ra một kiến nghị
hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về

ưu đãi đầu tư đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khu kinh tế ven biển.
7. Kết cấu của Luận văn
Gồm 03 chương, lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo:
Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại các khu kinh tế ven biển, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
Chương 2: Thực trạng pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại các khu kinh tế ven biển, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về ưu đãi đầu tư đầu
tư trực tiếp nước ngoài tại các KKt ven biển, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.

6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ ĐỐI
VỚI ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI CÁC KHU KINH TẾ VEN
BIỂN, VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM MIỀN TRUNG
1.1. Sự cần thiết phải ưu đãi đầu tư đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
các Khu kinh tế ven biển, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
1.1.1. Lợi thế và khả năng cạnh tranh của quốc gia
Michael Porter đã đi tiên phong trong việc sử dụng phân tích kinh tế để điều
tra các vấn đề liên quan đến khả năng cạnh tranh ở cấp độ tổ chức, công nghiệp và
quốc gia. Trong cuốn sách nổi tiếng của ông, Lợi thế cạnh tranh của các quốc gia,
Porter (1990) bao gồm các yếu tố quan trọng quyết định tính cạnh tranh của một nền
kinh tế là "một tập hợp các thể chế, chính sách và các yếu tố quyết định mức năng
suất của một quốc gia” [61, tr.11]. Khả năng cạnh tranh phải được hiểu như một khái
niệm toàn diện bao gồm nền tảng của sự thịnh vượng của một quốc gia. Sự thịnh
vượng của một quốc gia được xác định bởi năng suất của nền kinh tế - được đo bằng
giá trị của hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trên một đơn vị bởi nguồn nhân lực,
vốn và tài nguyên thiên nhiên của quốc gia. Năng suất là yếu tố chính quyết định mức

sống của một quốc gia trong thời gian dài; đó là yếu tố quyết định chính của thu nhập
bình qn đầu người ở một quốc gia (Porter, 2008).
Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tăng khả năng cạnh tranh, các Chính phủ
cấp quốc gia, khu vực và địa phương ưu tiên thành lập các khu (vùng) kinh tế, trong
đó, có các đặc khu kinh tế (SEZ). Tuy nhiên, giai đoạn phát triển của một khu vực cụ
thể sẽ xác định khu kinh tế và chiến lược cạnh tranh thích hợp nhất. Tính đến năm
2015, có khoảng 4.500 Đặc Khu kinh tế (SEZs) ở 140 quốc gia, tạo ra khoảng 68
triệu lao động trực tiếp trên thế giới (The Economist, 2015), trong đó tại Trung Quốc
có 30 triệu cơng nhân được tuyển dụng (El Shimy, 2008, Tejani, 2011). SEZs chiếm
hơn 200 tỷ USD xuất khẩu toàn cầu (Akinci and Crittle, 2008). SEZ đầu tiên được
thực hiện ở Shannon, Ailen (Amirahmadi và Wu, 1995). Khái niệm này được các
nước đang phát triển chấp nhận rộng rãi như là một chiến lược phát triển kinh tế trong
những năm 1970 và những năm 1980.
Cũng theo Michael Porter (1990), có 4 giai đoạn thúc đẩy tính cạnh tranh của
mỗi quốc gia, bao gồm: động lực dựa vào nguồn lực cơ bản (factor), động lực đầu tư,
động lực sáng tạo và động lực thịnh vượng. Trong cộng đồng kinh tế ASEAN, có sự
khác biệt lớn trong sự phát triển cạnh tranh của thành viên. Theo báo cáo của Diễn

7


đàn Kinh tế Thế giới, Brunei và Singapore đã đạt đến giai đoạn phát triển cạnh tranh
cuối cùng trong khi Campuchia, Lào và Myanmar vẫn đang trong giai đoạn đầu tiên.
Việt Nam đã bước sang giai đoạn 2 từ năm 2015.
Tùy theo mỗi giai đoạn phát triển cạnh tranh của quốc gia mà các quốc gia đó
xác định các mơ hình khu kinh tế để phát triển phù hợp. Ở đây, theo đánh giá, Việt
Nam đang trong giai đoạn thứ hai là giai đoạn cần đẩy mạnh thu hút đầu tư, đặc biệt
là đầu tư trực tiếp nước ngoài, do vậy việc thành lập các khu kinh tế, bao gồm các đặc
khu kinh tế (SEZ) là phù hợp. Theo Porter, có một số yếu tố có thể cho phép cải thiện
đáng kể năng suất ở giai đoạn này, như là: đầu tư mạnh vào cơ sở hạ tầng hiệu quả,

môi trường đầu tư thuận lợi, các ưu đãi đầu tư mạnh mẽ, và tiếp cận nguồn vốn tốt
hơn (Porter, 1990). [61, tr.14]
1.1.2 Tác động tích cực của vốn FDI đối với nền kinh tế
Thứ nhất, thúc đẩy chuyển giao, phát triển công nghệ nhất là ở những nước
đang phát triển.
Khi triển khai dự án đầu tư vào một nước, chủ đầu tư nước ngồi khơng chỉ
chuyển vào nước đó vốn bằng tiền, mà còn chuyển cả vốn vật tư hàng hố như: máy
móc, thiết bị, ngun nhiên vật liệu… và cả những giá trị vơ hình như: cơng nghệ, tri
thức khoa học, bí quyết quản lý, kỹ năng tiếp cận thị trường… cũng như đưa chuyên
gia nước ngoài vào hoặc đào tạo các chuyên gia bản xứ về các lĩnh vực cần thiết phục
vụ hoạt động của dự án. Điều này cho phép các nước nhận đầu tư không chỉ nhập
khẩu cơng nghệ đơn thuần, mà cịn nắm vững cả kỹ năng quản lý vận hành, sửa chữa,
mô phỏng và phát triển nó, nhanh chóng tiếp cận được với cơng nghệ hiện đại ngay
cả khi nền tảng công nghệ quốc gia chưa được tạo lập đầy đủ.
Thứ hai, tạo việc làm và phát triển nguồn nhân lực cho địa phương
Việc đầu tư thành lập DN mới cũng như tăng quy mô doanh nghiệp hiện tại sẽ
tạo rất nhiều công ăn, việc làm, bên cạnh đó lao động làm việc trong khu vực FDI
cũng sẽ tiếp thu được nhiều kỹ năng chuyên môn và quản lý. Và phản ứng dây
chuyền tự nhiên, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có vốn FDI với các doanh
nghiệp trong nước trên thị trường lao động là nhân tố thúc đẩy lực lượng lao động tự
nâng cao trình độ một cách tích cực và có hiệu quả hơn. Tất cả những điều đó sẽ góp
phần thúc đẩy tăng năng suất lao động của các nhà đầu tư trong nền kinh tế đồng thời
tạo ra môi trường cạnh tranh mạnh mẽ luôn buộc các nhà đầu tư phải đổi mới để nâng
cao năng suất lao động, đứng vững trong thị trường cạnh tranh.
Thứ ba, góp phần cải cách thủ tục hành chính và cải thiện tính minh bạch của
môi trường đầu tư.

8



Việc tiếp nhận nguồn vốn từ các nhà đầu tư nước ngồi giúp các nước sở tại
ln phải tự hồn thiện hệ thống pháp luật theo hướng phù hợp với thơng lệ quốc tế,
tạo ra sự minh bạch và bình đẳng cho các nhà đầu tư để cho các nhà đầu tư nước
ngồi có thể an tâm và nhanh chóng triển khai các cơ hội đầu tư.
Thứ tư, góp phần giúp hội nhập sâu rộng vào hoạt động kinh tế quốc tế và tăng
cường quan hệ đối ngoại với các nước, các tập đoàn lớn và các tổ chức trên thế giới.
Thứ năm, góp phần tác động lan tỏa đến các thành phần kinh tế khác trong nền
kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
Hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được nâng cao
qua số lượng các doanh nghiệp tăng vốn đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất. Đồng thời,
có tác động lan tỏa đến các thành phần kinh tế khác của nền kinh tế thông qua việc
chuyển giao công nghệ và năng lực quản lý, kinh doanh cho các doanh nghiệp trong
nước. Mặt khác, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cũng tạo động lực cạnh tranh
cho các doanh nghiệp trong nước nhằm thích ứng trong bối cảnh tồn cầu hóa, qua đó
nâng cao được năng lực của các doanh nghiệp trong nước.
1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với
đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các Khu kinh tế ven biển, vùng kinh tế trọng
điểm miền Trung
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.2.1.1. Khái niệm Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Xuất phát từ nhiều khía cạnh, góc độ, quan điểm khác nhau trên thế giới đã có
rất nhiều khái niệm khác nhau về FDI.
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) (1977): " FDI là một hoạt động đầu tư được
thực hiện nhằm đạt được những lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động trên
lãnh thổ của một nền kinh tế khác nền kinh tế nước chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu
tư là giành quyền quản lý thực sự doanh nghiệp” [58, tr.1]
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD): Đầu tư trực tiếp là hoạt
động đầu tư được thực hiện nhằm thiết lập các mối quan hệ kinh tế lâu dài với một
doanh nghiệp, mang lại khả năng tạo ảnh hưởng đối với việc quản lý doanh nghiệp.
Theo luật Đầu tư nước ngoài của Liên Bang Nga (04/07/1991) "Đầu tư trực

tiếp nước ngoài là tất cả các hình thức giá trị tài sản và những giá trị tinh thần mà nhà
đầu tư nước ngoài đầu tư vào các đối tượng sản xuất kinh doanh và các hoạt động
khác nhằm mục đích thu lợi nhuận" [58, tr.1 ]
Theo Hiệp hội Luật quốc tế Helsinki ILA ( (1996 ) : Đầu tư trực tiếp nước
ngoài là sự di chuyển vốn từ nước của người đầu tư sang nước của người sử dụng

9


nhằm xây dựng ở đó những xí nghiệp kinh doanh hay dịch vụ. [58, tr.1]
Theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam sửa đổi, ban hành 12/11/1996, tại
Điều 2 Chương 1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào
Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành hoạt động đầu tư theo
quy định của luật này. Theo Luật đầu tư năm 2005 (khoản 12 Điều 3), “Đầu tư nước
ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản
hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam”. Tuy nhiên khi Luật đầu
tư năm 2014 ra đời thay thế cho Luật đầu tư năm 2005 cũng không đưa ra một định
nghĩa hay khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài, mà cơ bản nêu lên bản chất của
đầu tư nước ngồi thơng qua một số khái niệm: đầu tư kinh doanh, nhà đầu tư nước
ngoài. Theo đó, “đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện các
hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn; mua
cổ phần; phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc
thực hiện dự án đầu tư.” và “ Nhà đầu tư nước ngồi là cá nhân có quốc tịch nước
ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh
doanh tại Việt Nam”.
Như vậy, mặc dù có rất nhiều quan điểm khác nhau khi đưa ra khái niệm về
FDI, song ta có thể đưa ra một khái niệm tổng quát nhất, đó là: Đầu tư trực tiếp nước
ngồi là hình thức mà nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư bằng tiền và các tài sản hợp pháp
khác để thực hiện các hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế;
đầu tư góp vốn; mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình

thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư ở nước tiếp nhận đầu tư. Trong đó, nhà
đầu tư nước ngồi có thể thiết lập quyền sở hữu từng phần hay toàn bộ vốn đầu tư và
giữ quyền quản lý, điều hành trực tiếp đối tượng mà họ bỏ vốn nhằm mục đích thu
được lợi nhuận từ các hoạt động đầu tư đó trên cơ sở tuân theo quy định của Luật
Đầu tư nước ngoài của nước sở tại.
1.2.1.2 Đặc điểm Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngồi có những đặc điểm cơ bản sau:
- Hoạt động FDI đưa ào nước tiếp nhận đầu tư bao gồm: vốn, cơng nghệ, kỹ
thuật, bí quyết kinh doanh, sản xuất, năng lực tiếp thị , trình độ quản lý...Hình thức
đầu tư này mang tính hồn chỉnh bởi khi vốn đưa vào đầu tư thì hoạt động sản xuất
kinh doanh được tiến hành và sản phẩm được tiêu thụ trên thị trường nước chủ nhà
hoặc xuất khẩu. Do vậy, đầu tư kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm là một
trong những nhân tố làm tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Đây là đặc
điểm để phân biệt với các hình thức đầu tư khác, đặc biệt là với hình thức ODA (hình

10


thức này chỉ cung cấp vốn đầu tư cho nước sở tại mà không kèm theo kỹ thuật và
công nghệ).
- Các chủ đầu tư nước ngồi phải đóng góp một lượng vốn tối thiểu vào vốn
pháp định tuỳ theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài ở từng nước, để họ có quyền
trực tiếp tham gia điều hành, quản lý đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. Chẳng hạn, ở
Việt Nam theo điều 8 của Luật Đầu tư nước ngồi tại Việt Nam quy định: ”Số vốn
đóng góp tối thiểu của phía nước ngồi phải bằng 30% vốn pháp định của dự án”
(Trừ những trường hợp do Chính phủ quy định).
- Quyền quản lý, điều hành doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi
phụ thuộc vào vốn góp. Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngồi càng cao thì quyền quản
lý, ra quyết định càng lớn. Đặc điểm này giúp ta phân định được các hình thức đầu tư
trực tiếp nước ngoài. Nếu nhà đầu tư nước ngồi góp 100% vốn thì doanh nghiệp đó

hồn tồn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành.
- Quyền lợi của các nhà ĐTNN gắn chặt với dự án đầu tư: Kết quả hoạt động
sản xuất kinh của doanh nghiệp quyết định mức lợi nhuận của nhà đầu tư. Sau khi trừ
đi thuế lợi tức và các khoản đóng góp cho nước chủ nhà, nhà ĐTNN nhận được phần
lợi nhuận theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định.
- Chủ thể của đầu tư trực tiếp nước ngoài thường là các công ty xuyên quốc
gia và đa quốc gia ( chiếm 90% nguồn vốn FDI đang vận động trên thế giới ). Thông
thường các chủ đầu tư này trực tiếp kiểm sốt hoạt động của doanh nghiệp ( vì họ có
mức vốn góp cao) và đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ.
- Nguồn vốn FDI được sử dụng theo mục đích của chủ thể ĐTNN trong khn
khổ luật Đầu tư nước ngoài của nước sở tại. Nước tiếp nhận đầu tư chỉ có thể định
hướng một cách gián tiếp việc sử dụng vốn đó vào những mục đích mong muốn
thơng qua các cơng cụ như: thuế, giá thuê đất, các quy định để khuyến khích hay hạn
chế đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một lĩnh vực, một ngành nào đó.
- Mặc dự FDI vẫn chịu sự chi phối của Chính Phủ song có phần lớn lệ thuộc
vào quan hệ chính trị giữa các bên tham gia hơn so với ODA.
- Việc tiếp nhận FDI không gây nên tình trạng nợ nước ngồi cho nước chủ
nhà, bởi nhà ĐTNN chịu trách nhiệm trực tiếp trước hoạt động sản xuất kinh doanh
của họ. Trong khi đó, hoạt động ODA và ODF ( Official Development Foreign)
thường dẫn đến tình trạng nợ nước ngoài do hiệu quả sử dụng vốn thấp. [58, tr.2 ]
1.2.2. Vai trò của đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế Việt Nam
Thứ nhất, đầu tư nước ngoài đã tạo ra một phương thức thu hút đầu tư mới, tác
động lan tỏa góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, “khơi dậy” và nâng cao hiệu quả

11


sử dụng các nguồn lực trong nước.
Số liệu thống kê cho thấy, FDI đã đóng vai trị quan trọng trong việc bổ sung
nguồn vốn đầu tư phát triển, chiếm 25% tổng vốn đầu tư tồn xã hội; tỷ trọng đóng

góp của khu vực đầu tư nước ngoài trong GDP chiếm khoảng 20%.
Thứ hai, khu vực FDI đã góp phần quan trọng vào đẩy mạnh xuất khẩu, chiếm
đến 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Với sự xuất hiện của các đại gia công nghệ như Samsung, LG, Microsoft,
Bosh, … kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã tăng nhanh trong vòng 3-5 năm qua.
Con số được Tổng cục Hải quan cơng bố, tính đến giữa tháng 12/2017, tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đã chạm ngưỡng 400 tỷ USD, trong đó, xuất
khẩu là gần 204 tỷ USD. Chỉ riêng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng điện thoại, máy
tính, điện tử và linh kiện các loại đạt kỷ lục với 71,6 tỷ USD.
Thứ ba, mặc dù vẫn được ưu tiên trong tiếp cận đất đai, tiền thuê đất, miễn
giảm thuế, song khu vực này đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách với giá trị
nộp ngân sách tăng từ 1,8 tỷ USD (giai đoạn 1994 - 2000) lên 14,2 tỷ USD (giai đoạn
2001 - 2010). Giai đoạn 2011 - 2015, thu ngân sách từ khu vực FDI đạt 23,7 tỷ USD,
chiếm gần 14% tổng thu ngân sách; năm 2017, khu vực FDI đã đóng góp vào thu
ngân sách gần 8 tỷ USD, chiếm 14,46% tổng thu ngân sách nhà nước.
Thứ tư, FDI đã thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực.
58,2% vốn đăng ký vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, tạo ra trên 50% giá trị
sản xuất cơng nghiệp, góp phần hình thành một số ngành cơng nghiệp chủ lực của
nền kinh tế.
Những địa phương đứng đầu trong thu hút FDI đã thể hiện rõ rệt tác động của
khu vực FDI đến cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp địa
phương. Điển hình là tỉnh Bắc Ninh, nhờ thu hút có hiệu quả FDI mà chỉ trong vòng
5 năm gần đây đã biến đổi căn bản, từ tỉnh nông nghiệp vươn lên trở thành tỉnh công
nghiệp, hiện nay nông nghiệp chỉ chiếm 8%, công nghiệp và dịch vụ chiến 82% cơ
cấu kinh tế. Hay như tỉnh Bình Dương ở phía Nam, sau hơn 30 năm thu hút FDI, hiện
nay, giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh năm 2016 đạt 530,412 tỷ đồng (năm 2017
tăng 10,98% so với 2016), tăng gấp 2,3 lần so với năm 2011.
Thứ năm, đầu tư nước ngồi đã đóng góp quan trọng trong việc giải quyết lao
động và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, một nhân tố cơ bản cho hội nhập và
phát triển.

Thứ sáu, khu vực FDI đã trực tiếp và gián tiếp đóng góp chuyển giao và phát
triển cơng nghệ, tham gia và thúc đẩy tiến trình cơng nghiệp hóa tại Việt Nam.

12


Thứ bảy, đầu tư nước ngồi đã thúc đẩy khơng chỉ tiến trình hội nhập quốc tế
sâu rộng, mà cịn trở thành nhân tố đẩy nhanh công cuộc phát triển cơ sở hạ tầng kỹ
thuật và xã hội, hoàn thiện hệ thống chính sách, văn bản pháp luật. [59, tr.2,3]
1.2.3. Khái niệm, bản chất, vai trò của ưu đãi đầu tư
1.2.3.1. Khái niệm ưu đãi đầu tư
Ưu đãi có thể là công cụ để các quốc gia theo đuổi chiến lược phát triển. Nếu
được sử dụng đúng cách, nó có thể bù đắp cho một số thiếu sót trong mơi trường kinh
doanh khơng thể khắc phục dễ dàng.
Chính sách ưu đãi FDI thu hút các nhà đầu tư vận động quốc tế đơi khi chính
thức thúc đẩy các nỗ lực nhằm mục đích cải thiện mơi trường thuận lợi của các nước
tiếp nhận. Ví dụ, một số quốc gia đã sử dụng thuế suất đặc biệt thấp để thu hút sự hiện
diện của doanh nghiệp nước ngoài, cũng như làm cho các doanh nghiệp trong nước ở
lại. Một loạt các chiến lược khác bao gồm các chế độ ưu đãi thuế quan, cắt bỏ thủ tục
hành chính, tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng và các biện pháp giáo dục, đào tạo. Nhiều
nước sau này nhắm đến các ngành kinh tế ưu tiên (ví dụ: các chiến lược cơng nghệ cao
của Đông Nam Á, “chế độ tự động” của Mỹ Latinh) và các vùng khác (đặc biệt liên
quan đến “các khu kinh tế đặc biệt”, “khu chế xuất” ”, v.v.)
Theo từ điển tiếng Việt thì ưu đãi “là việc dành cho những điều kiện, quyền lợi
đặc biệt hơn so với người khác”.
Theo định nghĩa của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD): Ưu đãi
đầu tư trực tiếp nước ngoài là các biện pháp được thiết kế nhằm ảnh hưởng đến quy
mô, địa điểm hoặc ngành của một dự án đầu tư FDI bằng cách tác động đến chi phí
tương đối của nó hoặc bằng cách thay đổi các rủi ro liên quan đến nó thơng qua các
khuyến khích mà khơng có sẵn đối với các nhà đầu tư trong nước tương ứng.

Theo Diễn đàn của Liên hợp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD), ưu
đãi đầu tư được định nghĩa như sau : Khuyến khích đầu tư hay còn gọi là ưu đãi đầu
tư là các biện pháp được Chính phủ sử dụng để thu hút đầu tư, hướng các dự án đầu
tư vào các ngành các khu vực cần thiết hoặc ảnh hưởng đến tính chất của đầu tư. Cơ
bản trên thế giới, ưu đãi đầu tư được quy về hai nhóm chính: chính sách thuế khóa
và chính sách phi thuế [7].
Theo Diễn đàn của Liên hợp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD) Ưu
đãi thường được sử dụng như một công cụ chính sách để thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngồi (FDI) và hưởng lợi nhiều hơn từ nó. Nó có thể được phân loại là ưu đãi tài
chính, tài khóa hoặc ưu đãi khác (bao gồm cả chế định/pháp qui). Tuy nhiên, cũng
theo UNCTAD, khơng có định nghĩa thống nhất về những gì cấu thành "Ưu đãi đầu

13


tư". Đa số các nước trên thế giới chủ yếu sử dụng ba loại ưu đãi đầu tư chính để thu
hút FDI: các ưu đãi tài chính, chẳng hạn như trợ cấp khơng hồn lại và cho vay với
lãi suất ưu đãi; Các ưu đãi tài khóa như miễn thuế và giảm thuế suất; Các ưu đãi khác,
bao gồm trợ cấp xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc dịch vụ, ưu tiên thị trường và qui định
nhượng bộ, bao gồm miễn trừ lao động hoặc tiêu chuẩn môi trường. [63, tr.63] (xem
phụ lục 3 và 3.1 đính kèm)
Theo UNTCAD, định nghĩa về "ưu đãi” có thể rất rộng, bao gồm hầu như bất
kỳ sự hỗ trợ nào được cung cấp bởi một quốc gia cho các nhà đầu tư, hoặc nó có thể
hẹp hơn, chỉ bao gồm các loại hỗ trợ cụ thể cho nhà đầu tư.
Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng của WTO (SCM) là thỏa
thuận đa phương duy nhất chứa định nghĩa về “trợ cấp”. Mục đích của thỏa thuận này
là thiết lập cơ chế kiểm soát quốc tế liên quan đến cấp trợ cấp liên quan đến thương
mại. Tuy nhiên, định nghĩa của Hiệp định về "trợ cấp" có liên quan trong bối cảnh
hiện tại, bởi vì các điều khoản "trợ cấp" và "ưu đãi" chồng lên nhau. “Trợ cấp" theo
nghĩa của Hiệp định SCM cũng tương tự như là một "ưu đãi ", nếu được cấp cho một

nhà đầu tư [63, tr.67].
Theo nghiên cứu của Th.S Nguyễn Thị Hồng Nhung, ưu đãi đầu tư gồm 03
phần : ưu đãi đầu tư, hỗ trợ đầu tư và bảo đảm đầu tư.
Ưu đãi đầu tư là “Tất cả những quy định do Nhà nước ban hành nhằm tạo điều
kiện thuận lợi hoặc tạo ra những lợi ích nhất định cho các nhà đầu tư trong nước cũng
như nước ngoài khi tiến hành đầu tư vào nền kinh tế, trên cơ sở kết hợp hài hịa giữa
lợi ích của Nhà nước, của nền kinh tế - xã hội và các nhà đầu tư”.
Hỗ trợ đầu tư: là tất cả những quy định do Nhà nước ban hành nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư khi tiến hành đầu tư vào nền kinh tế.
Bảo đảm đầu tư : Là các cam kết của Nhà nước Việt Nam về việc đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư trong quá trình tiến hành dự án đầu tư
tại Việt Nam. [38, tr.2,3]
Theo PGS.TS Trần Đình Thiên, ưu đãi đầu tư ngồi biện pháp ưu đãi tài chính
(chủ yếu là thuế) thì có loại ưu đãi liên quan đến thể chế tốt, một mơi trường đầu tư
cơng khai, minh bạch, bình đẳng, thủ tục thơng thống, phương thức quản trị ở đẳng
cấp cao. [74]
Theo pháp luật đầu tư Việt Nam, cho đến nay vẫn chưa có khái niệm chính
thức về “ưu đãi đầu tư”. Trong các văn bản pháp luật của Việt Nam vẫn tồn tại song
song nhiều thuật ngữ khác nhau như: “ưu đãi đầu tư”, “hỗ trợ đầu tư”, “bảo đảm đầu
tư” được sử dụng trong Luật đầu tư, pháp luật về thuế và một số văn bản khác… Tuy

14


nhiên, những nội dung của ưu đãi đầu tư cơ bản được cụ thể hóa bằng những quy
định mang tính hiện thực và được xác định rõ trong các văn bản qui phạm pháp luật
tạo điều kiện cho nhà đầu tư xác định rõ ràng và triển khai thực hiện.
Từ đó, có thể hiểu một cách khái quát khái niệm về ưu đãi đầu tư như sau: Ưu
đãi đầu tư là những cam kết cụ thể của nhà nước dành cho các nhà đầu tư khi đầu tư
tại nước tiếp nhận đầu tư, đồng thời để được hưởng ưu đãi đầu tư thì nhà đầu tư phải

đáp ứng được một số điều kiện do pháp luật nước tiếp nhận đầu tư quy định.
Pháp luật về ưu đãi đầu tư là hệ thống những quy phạm pháp luật do nhà nước
ban hành, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đầu tư, thương mại.
Mục đích của việc ưu đãi đầu tư là một trong những giải pháp nhằm thu hút các nhà
đầu tư đầu tư vào các lĩnh vực kinh doanh cụ thể. Nội dung quan trọng của quản lý
nhà nước là hướng các quan hệ trong lĩnh vực đầu tư theo một trật tự có định hướng,
đảm bảo đầy đủ các quyền và lợi chính đáng cho nhà đầu tư. Nhà nước quản lý hoạt
động đầu tư bằng luật pháp luật và đảm bảo một hành lang pháp lý cho hoạt động đầu
tư phát triển. Làm như thế, Nhà nước mới phát huy quyền lực và vai trị quản lý của
mình trong lĩnh vực đầu tư. Pháp luật về ưu đãi đầu tư có hợp lý và hiệu quả thì mới
đảm bảo được mơi trường bình đẳng mà ở đó các nhà đầu tư có thể phát huy hết năng
lực của mình.
1.2.1.2. Bản chất của ưu đãi đầu tư
Ưu đãi đầu tư phản ánh mối quan hệ lợi ích giữa nhà nước và nhà đầu tư:
Trong mối quan hệ này, Nhà nước là chủ thể quyết định các biện pháp ưu đãi; nhà
đầu tư là chủ thể nhận ưu đãi; khách thể của quan hệ này chính là các ưu đãi cụ thể
như các khoản lợi về thuế, tiền thuê đất… Mục đích của việc cấp ưu đãi là nhà nước
mong muốn chủ thể được nhận ưu đãi - các nhà đầu tư - đầu tư vào một số địa bàn và
lĩnh vực nhất định theo định hướng phát triển kinh tế.
Dưới một góc độ khác, chúng ta có thể hiểu, ưu đãi đầu tư là các cam kết của
Nhà nước đối với nhà đầu tư: Các ưu đãi cụ thể đó có thể thay đổi theo từng thời kỳ
tùy theo tình hình kinh tế - chính trị - xã hội cụ thể nhưng cam kết của Nhà nước là
khơng thay đổi bởi nó được đảm bảo bằng một bản “hợp đồng” được ký kết giữa Nhà
nước và nhà đầu tư, đó chính là các điều khoản quy định về ưu đãi tại Giấy chứng
nhận đầu tư mà Nhà nước cấp cho nhà đầu tư.
1.2.1.3. Vai trò của ưu đãi đầu tư
- Vai trò của các biện pháp ưu đãi đầu tư đối với nền kinh tế
Thứ nhất, ưu đãi đầu tư có vai trị to lớn trong việc thu hút vốn đầu tư trong
nước và nước ngoài: để thu hút các dự án đầu tư vào các lĩnh vực, địa bàn mong


15


muốn, Nhà nước sẽ ban hành nhiều chính sách, trong đó có chính sách về ưu đãi,
khuyến kích đầu tư.
Thứ hai, ưu đãi đầu tư giúp Nhà nước hoạch định cơ cấu kinh tế và rút ngắn
khoảng cách vùng miền: Thơng qua chính sách ưu đãi Nhà nước có thể khắc phục
được những mặt hạn chế trong việc phát triển kinh tế cho từng ngành, lĩnh vực, địa
bàn cụ thể và chủ động cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng thích hợp.
Thứ ba, giải quyết nhiều vấn đề xã hội của quốc gia nói chung và địa phương
nói riêng.
Việc tạo điều kiện thuận lợi cho việc ra đời các doanh nghiệp sẽ giúp giải
quyết vấn đề lao động của quốc gia nói chung cũng như khu kinh tế ven biển nói
riêng. Điều đó có tác động tích cực đến việc xố đói, giảm nghèo và góp phần giảm
các tệ nạn xã hội do thất nghiệp gây ra.
Thứ tư, ưu đãi thu hút đầu tư giúp tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện đại
và phương pháp quản lý tiên tiến của các nước phát triển: Ưu đãi đầu tư giúp thu hút
các doanh nghiệp nước ngồi từ đó chúng ta sẽ có điều kiện tiếp nhận những cơng
nghệ tiên tiến, hiện đại trên thế giới, tận dụng được những lợi thế của nước đi sau, rút
ngắn được khoảng cách về khoa học kỹ thuật với các nước đi trước.
Thứ năm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại và hiệu
quả: Ưu đãi đầu tư nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư, chủ yếu là các doanh nghiệp cơng
nghiệp và dịch vụ một mặt góp phần nâng cao tỷ trọng ngành công nghiệp trong tổng
số GDP của các ngành kinh tế tạo ra trên cả nước. Mặt khác, chúng ta thu hút được
những dự án có hàm lượng cơng nghệ, quản lý chất lượng cao góp phần phát triển
ngành nghề mới hiện đại và đa dạng.
Thứ sáu, hồn thiện những điểm cịn hạn chế của mơi trường đầu tư.
Qua quá trình quản lý các dự án đầu tư vào những khu vực, địa bàn ưu đãi đầu
tư nhất định, Nhà nước có thể điều chỉnh, bổ sung, hồn thiện hệ thống chính sách ưu
đãi đầu tư kịp thời. Những biện pháp mới này sẽ giúp cho nhà đầu tư thực hiện tốt

hơn dự án của mình bởi nó sát với thực tế. Vì vậy, việc ban hành và triển khai các ưu
đãi đầu tư cũng giúp cho Nhà nước có điều kiện cải thiện các biện pháp ưu đãi đầu tư
của mình sao cho hiệu quả và phù hợp với định hướng phát triển kinh tế.
Thứ bảy, góp phần đồng bộ hệ thống pháp luật đầu tư theo thông lệ quốc tế
Trong xu thế hội nhập kinh tế hiện nay, hệ thống pháp luật đầu tư nói chung và
các biện pháp ưu đãi đầu tư nói riêng có vai trị quan trọng, nó khơng những tạo ra
những lợi thế cạnh tranh để thu hút đầu tư mà xét trên góc độ khác nó cịn là những
biện pháp cần, bắt buộc phải có để phù hợp với chuẩn quốc tế.

16


1.3. Khái niệm, đặc điểm, phân loại khu kinh tế ven biển
1.3.1. Khái niệm khu kinh tế
Theo định nghĩa của Tổ chức Phát triển cơng nghiệp Liên Hiệp Quốc
(UNIDO) thì Khu kinh tế là một khu đất được lựa chọn đầy đủ chức năng, cung cấp
lợi thế về tiền tệ hoặc/và phi tiền tệ cho các doanh nghiệp nằm trong khu, với mục
tiêu là để thúc đẩy phát triển cạnh tranh kinh tế của một quốc gia, một khu vực, hoặc
một khu vực đô thị.
Cho đến nay, cũng theo UNIDO thế giới đã hình thành và phát triển 5 loại hình
khu kinh tế gồm: Khu cơng nghiệp (KCN) tiền thân của Khu kinh tế, Khu kinh tế đặc
biệt (SEZ), Khu công nghiệp sinh thái (EIP), Khu công nghệ (TP) và Khu đô thị đổi
mới, sáng tạo (ID). Tại Việt Nam, cho đến hiện tại đã thành lập được 03 trong số các
loại hình khu kinh tế trên, ngoại trừ khu công nghiệp sinh thái (EIP) và khu đô thị đổi
mới, sáng tạo (ID). Hiện nay, UNIDO đang phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt
Nam thực hiện Dự án “Triển khai sáng kiến KCN sinh thái hướng tới mơ hình KCN
bền vững tại Việt Nam”, trước mắt thí điểm nâng cấp 03 khu cơng nghiệp hiện có
thuộc 03 miền thành khu cơng nghiệp sinh thái, đó là khu cơng nghiệp Khánh Phú
(Ninh Bình), Hịa Khánh (Đà Nẵng) và Trà Nóc 1&2 (Cần Thơ).
+ Khu cơng nghiệp: là hình thức đơn giản nhất của các khu quy hoạch để thúc

đẩy phát triển kinh tế địa phương và động lực công nghiệp mới. Sự phức tạp của các
khu công nghiệp khác nhau rất lớn so với các cơ sở hạ tầng cơ bản như đường xá, các
tiện ích cơ bản, những khu phức hợp mềm như các sự kiện kết nối mạng và không
gian chung. Sự phát triển của các khu công nghiệp là một chiến lược hấp dẫn đối với
các nước ở giai đoạn phát triển cạnh tranh từ trung bình đến thấp.
+ Khu kinh tế đặc biệt : là khu vực phi thuế quan, đã tồn tại trong thương mại
quốc tế trong khoảng 2.500 năm, đầu tiên là ở Trung Quốc cổ đại, sau đó là Carthage
và Đế chế La Mã (World Bank, 1992). Các Khu kinh tế đặc biệt là một sự thích nghi
hiện đại, với mục tiêu phát triển, của khái niệm lâu đời về các cảng tự do (FPs). Các
cảng tự do phục vụ như trung tâm thương mại và trung gian thương mại giữa các
thương gia quốc tế. Cảng Tự do cũ nhất được thành lập tại cảng Delos của Canađa để
quảng bá thương mại (Amado, 1989). Các FPs cũng được thành lập trên các tuyến
thương mại quốc tế như Gibraltar (1704), Singapore (1819) và Hong Kong (1848)
(Amado, 1989).
SEZ hiện đại đầu tiên mà chúng ta biết ngày nay, được thành lập ở Shannon,
Cộng hòa Ai-Len (Ireland) vào năm 1959. Vùng Tự do Shannon nằm gần sân bay là
khu công nghiệp đầu tiên được tạo ra rõ ràng cho sản xuất theo định hướng xuất khẩu

17


miễn thuế hải quan trong khi được cung cấp các cơ sở như một khu cơng nghiệp
thơng thường. Mơ hình Khu tự do (Free Zone) của Shannon đã được thông qua như
một chiến lược phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển như Puerto Rico và Tây
Ban Nha vào đầu những năm 1960 (World Bank, 1992). Khái niệm SEZ đã được hỗ
trợ ở các nước đang phát triển bởi các tổ chức phát triển như UNIDO, UNCTAD, và
tổ chức AMPO (Amado, 1989) của Nhật Bản.
Trong những năm 1980, UNIDO đã thơng qua một nghị quyết khuyến khích
các nước phát triển xây dựng và tăng cường các chính sách để chuyển đổi các ngành
cơng nghiệp tương đối ít cạnh tranh hơn sang các quốc gia đang phát triển (Amado,

1989). Việc di chuyển các hoạt động công nghiệp sang các nước đang phát triển, thúc
đẩy bởi q trình tồn cầu hoá, liên quan đến sự phân mảnh của chuỗi giá trị toàn cầu
và lắp ráp ngoài biên giới và hội nhập theo chiều dọc, được thực hiện phần lớn trong
các ngành công nghiệp nằm trong khu vực SEZs (Amado, 1989).
Các khu kinh tế đặc biệt châu Á đầu tiên đã được mở bởi chính phủ Ấn Độ ở
Kandla năm 1965. Năm sau, Đài Loan thành lập KCX đầu tiên ở Cao Hùng, Đài
Loan (Amirahmadi và Wu, 1995), Trung Quốc thành lập đặc khu kinh tế Thẩm
Quyến đầu tiên vào năm 1979. Trong ASEAN, Singapore, Malaysia và Philippines
bắt đầu mở các Khu kinh tế đặc biệt vào năm 1968 và 1972 (World Bank, 1992).
+ Khu công nghệ : Hiện tượng công viên công nghệ được bắt đầu vào năm
1951 khi nghiên cứu Công viên công nghệ Stanford được tạo ra, mà sau này trở thành
nền tảng của Thung lũng Silicon. Ý tưởng bắt nguồn từ mơ hình tuyến tính của sự đổi
mới, dẫn đến việc tạo ra khoa học cộng đồng để tạo ra sự đổi mới. Các khu công nghệ
nằm trong khn khổ mơ hình đổi mới của thúc đẩy khoa học “science push”
(Coulon, 2004). Năm 1959, Công viên Nghiên cứu ở phía Bắc Carolina (Hoa Kỳ)
được thành lập như một chiến lược để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong một khu vực
suy giảm (Phillimore & Joseph, 2003). Cho đến những năm 1970, các khu công nghệ
là một hiện tượng của Hoa Kỳ, được thiết kế để phục vụ nhu cầu của các học giả có
đầu óc kinh doanh và xúc tiến và sử dụng các mối liên kết giữa các trường đại học ngành (Anttiroiko, 2004). Ý tưởng lan rộng trên khắp Hoa Kỳ sau khi Công viên
Nghiên cứu Stanford trở thành tiêu chuẩn cho khoa học dựa trên phát triển công
nghiệp. Người Nhật đã đưa khái niệm về các khu công nghệ thêm một chút nữa bằng
cách phát triển các thành phố khoa học vào những năm 1970, ví dụ như Thành phố
Khoa học Tsukuba. Đầu tiên các khu công nghệ được tạo ra ở châu Âu vào năm 1972
với Sophia-Antipolis ở Pháp và công viên khoa học tại Đại học Cambridge ở Anh
(Anttiroiko, 2004; Quintas, Wield, & Massey, 1992). Từ những năm 1980, các khu

18


công nghệ là một sự phát triển kinh tế hợp thời chiến lược để thúc đẩy động lực mới

ở các nước phát triển và mới nổi.
+ Khu đô thị đổi mới, sáng tạo (ID): Bắt đầu từ năm 2000, Dự án @22 là dự
án chuyển đổi một khu vực thành khu công nghệ và đổi mới ở Thành phố Barcelona
(Tây Ban Nha). Khu vực diễn ra dự án rộng 198 ha. Đó là một thành phố nhỏ nhưng
đa dạng. Thay vì áp dụng một mơ hình chun mơn lãnh thổ, dự án sử dụng mơ hình
hỗn hợp nhằm thúc đẩy gắn kết xã hội và phát triển kinh tế; hình thành đô thị cân
bằng và bền vững. Đáng lưu ý, dự án quan tâm và đầu tư đáng kể đến việc bảo vệ các
di sản, trung tâm lịch sử.
Khoảng 31% số công ty ở đây sở hữu tri thức về công nghệ. Với hệ thống cơ
sở hạ tầng bề thế, Dự án @22 ngày càng thu hút đầu tư, nguồn nhân lực chất lượng
cao. Hiện mơ hình @22 đang “nở rộ” ở những khu vực khác trong Thành phố
Barcelona và là mơ hình chuẩn trong chuyển đổi đơ thị, kinh tế và xã hội châu Âu.
Ở Việt Nam, từ năm 2003 đã xuất hiện một mơ hình khu kinh tế khá tương đồng
với Khu kinh tế đặc biệt (SEZ) theo định nghĩa của UNIDO, đó là Khu kinh tế mở
Chu Lai và sau này là các Khu kinh tế ven biển. Cho đến nay, Việt Nam đã hình
thành được 18 khu kinh tế ven biển, trong đó, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung có
04 khu, gồm: Khu kinh tế mở Chu Lai, Khu kinh tế Chân Mây- Lăng Cô, Khu kinh tế
Dung Quất và Khu Kinh tế Nhơn Hội (Sau này đổi tên thành Khu kinh tế Bình Định).
Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả tập trung vào nghiên cứu mơ hình khu
kinh tế ven biển, với những đặc tính khá tương đồng với đặc khu kinh tế mà như
UNIDO định nghĩa.
Theo điều 3, Nghị định số 29/2008/NĐ-CP, Khu kinh tế là khu vực có khơng
gian kinh tế riêng biệt với môi trường đầu tư và kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho các
nhà đầu tư, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ
tục quy định tại Nghị định này. Khu kinh tế được tổ chức thành các khu chức năng
gồm: chế xuất, sản xuất cơng nghiệp, giải trí, du lịch, đơ thị, dân cư, hành chính và
các khu chức năng khác phù hợp với từng khu kinh tế.
Khu kinh tế ven biển là khu kinh tế hình thành ở khu vực ven biển và địa bàn
lân cận khu vực ven biển, được thành lập theo các điều kiện, trình tự và thủ tục quy
định tại Nghị định số 29/2008/NĐ-CP.

Với khái niệm như vậy, Khu kinh tế ven biển vùng KTĐTMT được hiểu là
khu vực có khơng gian kinh tế riêng biệt với môi trường đầu tư và kinh doanh đặc
biệt thuận lợi cho các nhà đầu tư, có ranh giới địa lý xác định, nằm ở khu vực ven
biển và địa bàn lân cận khu vực ven biển, có các khu chức năng, được thành lập theo

19


×