Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Tỷ lệ tăng huyết áp và các yếu tố nguy cơ trên bệnh nhân đến tầm soát tại cơ sở khám chữa bệnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.09 KB, 64 trang )

MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ................................................................................................................... 1
Mục tiêu nghiên cứu:.........................................................................................................3
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU...........................................................................5
1.1 Tổng quan về Tăng huyết áp (THA).............................................................................5
1.2. Các nghiên cứu về tỉ lệ mắc bệnh THA tại Việt Nam và trên thế giới.......................15
1.3 THA và các hành vi nguy cơ có thể tác động được:...................................................18
1.4. THA và các yếu tố ảnh hưởng không tác động được:................................................25
CHƯƠNG 2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.............................29
2.1. Thiết kế nghiên cứu:..................................................................................................29
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu:............................................................................29
2.3 Đối tượng nghiên cứu:................................................................................................29
2.4. Cỡ mẫu...................................................................................................................... 29
2.5. Tiêu chí chọn mẫu:....................................................................................................29
2.6 Thu thập dữ liệu.........................................................................................................30
2.7 Xử lý số liệu............................................................................................................... 37
2.8 Về y đức:.................................................................................................................... 38
CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU......................................................................39
3.1 Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu.........................................................................39
3.2 Tỉ lệ người trưởng thành mắc bệnh tăng huyết áp (n = 1141).....................................41
3.3. Các hành vi lối sống và yếu tố nguy cơ.....................................................................41
3.4. Khảo sát mối liên quan..............................................................................................43
CHƯƠNG 4 BÀN LUẬN...............................................................................................52
4.1 Đặc tính dân số - xã hội của dân số nghiên cứu..........................................................52
4.2 Tỉ lệ hiện mắc tăng huyết áp.......................................................................................53
4.3 Các yếu tố liên quan với tăng huyết áp.......................................................................54
4.4 Điểm mạnh, điểm hạn chế của đề tài..........................................................................58
4.5 Khả năng khái quát và tính ứng dụng.........................................................................58
KẾT LUẬN..................................................................................................................... 59
ĐỀ XUẤT........................................................................................................................ 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................62




1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tăng huyết áp (THA) là một bệnh mạn tính, theo y văn có khoảng 90 - 95%
không tìm thấy nguyên nhân, tiến triển “thầm lặng” không có triệu chứng nhưng
gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm như tai biến mạch máu não, suy tim... để lại
nhiều di chứng nặng nề dẫn đến tử vong, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và
là gánh nặng cho bản thân, gia đình và xã hội, là nguyên nhân gây ra tử vong hàng
đầu trên thế giới.
Tại Việt Nam, theo nghiên cứu của Viện Tim mạch tại thành phố Hà Nội
năm 2001-2002, tỉ lệ THA ở người lớn là 23,2%, tương đương với các nước trên
thế giới. Tỷ lệ THA trong các nghiên cứu về dịch tễ học luôn vào khoảng từ 20%
đến 25% cho thấy tỉ lệ mắc bệnh đang có xu hướng tăng nhanh khi nền kinh tế
ngày càng phát triển [14]. Năm 1960, tỉ lệ THA khoảng 1%, năm 1992 là 11,2%,
năm 2001 là 16,3% và năm 2005 là 18,3%. Theo điều tra năm 2008 của Viện Tim
mạch Việt Nam tiến hành ở người trưởng thành (từ 25 tuổi trở lên) trên toàn quốc
cho thấy, tỉ lệ THA đã tăng lên đến 25,1%. Với dân số hiện nay của Việt Nam là
khoảng 88 triệu dân thì ước tính sẽ có khoảng 11 triệu người bị THA [11].
Trong số những người bị THA có tới 52% không biết mình bị THA; 30%
biết bị THA nhưng chưa có một biện pháp điều trị; và 64% (khoảng 2,4 triệu
người) THA đã được điều trị nhưng vẫn chưa đưa được huyết áp về số huyết áp
mục tiêu. Như vậy, hiện nay Việt Nam có khoảng 9,7 triệu người hoặc là không
biết bị THA, hoặc là THA nhưng không được điều trị, hoặc có điều trị nhưng chưa
đưa được huyết áp về mức bình thường. Dự báo trong những năm tới số người
THA sẽ còn tăng do các yếu tố liên quan như: hút thuốc lá, lạm dụng rượu - bia,
dinh dưỡng bất hợp lý, ít vận động. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), khống chế
được những yếu tố nguy cơ này có thể làm giảm được 80% bệnh THA [24].



2

Thực trạng việc phát hiện, quản lý và điều trị người có THA tại cộng đồng
gặp rất nhiều khó khăn. Do đó cần xây dựng một kế hoạch mang tính chất chiến
lược trong phòng, chống THA để góp phần hạn chế các biến chứng của THA, giảm
tỷ lệ bệnh nhân THA phải tái nhập viện. Vì vậy, công tác tầm soát để sớm phát hiện
người mắc có THA tại cộng đồng là cần thiết nhằm kiểm soát có hiệu quả tình
trạng THA thông qua việc hướng dẫn người bệnh thay đổi lối sống, thói quen sinh
hoạt…bên cạnh việc điều trị bằng thuốc là một trong những vấn đề y tế công cộng.
Tăng huyết áp (THA) là thách thức lớn về y tế công cộng trên toàn thế giới. Tính
chung, 26,4% số người trưởng thành trên thế giới bị tăng huyết áp vào năm 2000, tương
đương tổng số 972 triệu người, trong đó khoảng 2/3 số người thuộc các nước đang phát
triển. Dự báo đến năm 2025, tỉ lệ hiện mắc tăng huyết áp sẽ lên đến 29,2%, tương đương
tổng số 1,56 tỉ người. [25]
THA hiện đang là gánh nặng bệnh tật tại nhiều quốc gia. Tăng huyết áp không
phát hiện và kiểm soát được sẽ dẫn đến các biến chứng trầm trọng, gây tử vong hoặc để
lại di chứng nặng nề, là gánh nặng cho bản thân, gia đình và xã hội. Tại Mỹ, có khoàng
1/3 số người trưởng thành mắc bệnh (khoảng 68 triệu người), gây tử vong cho 347000
người (năm 2008), ước tính gây tổn thất 93,5 tỉ đô la Mỹ (năm 2010) vì các chi phí liên
quan đến chăm sóc y tế, thuốc men, và ngày làm việc bị mất.
Bản thân bệnh THA thường không có bất kỳ dấu hiệu hay triệu chứng nào, nên
nhiều người không nhận ra họ đang mắc bệnh tăng huyết áp, và như vậy, người bệnh tăng
huyết áp có thể được phát hiện tình cờ, hoặc khi có biến chứng. Tăng huyết áp hầu như
có thể dự phòng và kiểm soát được bằng cách thay đổi hành vi, lối sống . Vì vậy, việc xác
định tỉ lệ THA trong cộng đồng, nguyên nhân và đặc biệt yếu tố nguy cơ là rất quan
trọng, giúp cải thiện chiến lược nâng cao nhận thức và dự phòng ở cấp độ quốc gia.

Trên cơ sở đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm trả lời câu hỏi: Tỉ lệ
hiện mắc tăng huyết áp trong số những người trưởng thành đến tầm soát bệnh tại Viện Vệ

sinh – Y tế công cộng TP.Hồ Chí Minh là bao nhiêu? Các yếu tố liên quan đến tăng huyết
áp là gì? Có mối liên quan nào giữa tăng huyết áp và một số yếu tố dân số, hành vi, lối


3

sống, chỉ số sinh hóa? Kết quả nghiên cứu là cơ sở góp phần đề xuất mô hình chăm

sóc sức khỏe, tư vấn trong việc theo dõi và kiểm soát tốt tăng huyết áp ở giai đoạn
sớm.
Câu hỏi nghiên cứu: Tỉ lệ hiện mắc tăng huyết áp của người trưởng thành đến
tầm soát bệnh mạn tính tại Viện Vệ sinh - Y tế công cộng TP. Hồ Chí Minh là bao nhiêu?
Các yếu tố nguy cơ liên quan đến bệnh tăng huyết áp là gì?

Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu chung: Xác định tỉ lệ hiện mắc bệnh tăng huyết áp và các yếu tố liên
quan ở người trưởng thành tầm soát bệnh mạn tính tại Viện Vệ sinh - Y tế công cộng TP.
Hồ Chí Minh.
Mục tiêu cụ thể:
1/ Xác định tỉ lệ hiện mắc tăng huyết áp ở người trưởng thành tầm soát bệnh mạn
tính tại Viện Vệ sinh - Y tế công cộng TP. Hồ Chí Minh.
2/ Xác định các yếu tố nguy cơ của tăng huyết áp ở người trưởng thành tầm soát
bệnh mạn tính tại Viện Vệ sinh - Y tế công cộng TP. Hồ Chí Minh.
3/ Xác định mối liên quan giữa tăng huyết áp với các đặc điểm dân số học, hành vi
và các yếu tố khác ở người trưởng thành tầm soát bệnh mạn tính tại Viện Vệ sinh - Y tế
công cộng TP. Hồ Chí Minh.


4


DÀN Ý NGHIÊN CỨU

ĐẶC ĐIỂM
- Dân số - xã hội
- Tiền sử bệnh

TĂNG HUYẾT ÁP

CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ
- BMI
- Hút thuốc lá
- Uống rượu/bia
- Thói quen ăn uống
- Vận động thể lực


5

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Tổng quan về Tăng huyết áp (THA)
1.1.1. Định nghĩa
Theo thống nhất của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Hội Tăng huyết áp quốc tế
(ISH) và Liên uỷ ban quốc gia về tăng huyết áp của Hoa Kỳ (JNC), THA được định nghĩa
như sau:
Một người trưởng thành được gọi là THA khi huyết áp (HA) tối đa, HA tâm thu
(HATT) ≥ 140 mmHg và/hoặc HA tối thiểu, HA tâm trương (HATTr) ≥ 90 mmHg hoặc
đang điều trị thuốc hạ áp hàng ngày hoặc có ít nhất 2 lần được bác sĩ chẩn đoán là THA
[8]
THA cũng là yếu tố nguy cơ của nhiều bệnh tim mạch khác như: tai biến mạch
máu não, bệnh mạch vành...

1.1.2. Phân loại tăng huyết áp
Phân loại theo Hội Tim mạch học Việt Nam:
Phân độ tăng huyết áp theo WHO/ISH 2003 và JNC-VII [25]

Khái niệm
HA tối ưu
HA bình thường
HA bình thường – cao
THA
THA độ 1 (nhẹ)
THA độ 2 (trung bình)
THA độ 3 (nặng)
THA tâm thu đơn độc

HA tâm thu

HA tâm trương

(mmHg)

(mmHg)

<120
120-129
130-139
140 - 159
160 - 179
≥ 180
≥140




Và/ hoặc
Và/ hoặc
Và/ hoặc

<80
80-84
85 - 89
90 - 99
100 - 109
≥ 110
<90

- Phân độ này dựa trên đo HA tại phòng khám. Nếu HATT và HATTr không cùng một
phân loại thì chọn mức HA cao hơn để xếp loại.
- Khi HATT và HATTr ở hai mức độ khác nhau, chọn mức độ cao hơn để xếp loại.
- Tăng HATT đơn độc cũng được đánh giá theo mức độ 1, 2 hay 3 theo giá trị của HATT
nếu HATTr < 90 mmHg.


6

Phân loại THA tại Việt Nam:
Xuất phát từ cách phân độ THA của WHO/ISH và JNC, Hội tim mạch Việt Nam
đã đưa ra cách phân độ như sau: [8]
Phân độ THA tại Việt Nam hiện nay

Phân loại


HA tâm thu

HA tâm trương

(mmHg)
<120
120-129
130-139
140 - 159
160 - 179
≥ 180
≥ 140

(mmHg)
<80
80-84
85 – 89
90 – 99
100 – 109
≥ 110
< 90

HA tối ưu
HA bình thường
HA bình thường - cao
THA độ 1 (nhẹ)
THA độ 2 (trung bình)
THAđộ 3 (nặng)
THA tâm thu đơn độc
1.1.3 Dịch tễ học THA


Tăng huyết áp là một bệnh hay gặp nhất trong số các bệnh lý tim mạch ở tất cả các
nước trên thế giới. Theo tổ chức Y tế Thế giới, tỉ lệ THA thay đổi ở mỗi quốc gia qua các
năm có khác nhau: Hoa Kỳ (năm 2004) là 29%; Anh quốc (năm 2006) là 40%; Canada
(năm 2007) là 25%; Ai Cập (năm 2006) là 26,3%; và năm 2003 tại các quốc gia: Ý
(37,7%); Thuỵ Điển (38,4%); Phần Lan (48,7%) và Đức (55,3%). [29]
Tại Việt Nam, qua các cuộc điều tra về dịch tễ học trong những năm gần đây cho
biết bệnh THA có chiều hướng gia tăng: tỉ lệ hiện mắc THA trên toàn quốc năm 1992
(11,7%); năm 1999, (16,05%), năm 2001 là 16,3% và năm 2005 là 18,3%. Tại thành phố
Hà Nội (2002) là 23,2%; tại cộng đồng Miền Bắc (2003) là 16,3%; thành phố Hồ Chí
Minh (2004) là 20,5% [14]
1.1.4. Cơ chế bệnh sinh THA
Cơ chế bệnh sinh gồm THA nguyên phát và THA thứ phát [8].
1.1.4.1 THA nguyên phát:
THA nguyên phát chiếm 90% các trường hợp, cơ chế bệnh sinh đến nay chưa rõ
ràng, biểu hiện qua một số yếu tố sau:
- Tăng hoạt động thần kinh giao cảm sẽ làm tim ở trạng thái tăng động do tăng
hoạt động của tim dẫn đến tăng cung lượng và tăng tần số tim. Toàn bộ hệ thống động


7

mạch ngoại vi và động mạch thận bị co thắt, làm tăng sức cản ngoại vi để lại hậu quả cuối
cùng là THA động mạch.
- Tác dụng co mạch của adrenalin và noradrenalin: hai chất này do tuỷ thượng
thận bài tiết ra, khi hệ giao cảm bị kích thích. Adrenalin có tác dụng co mạch dưới da
nhưng lại làm giãn mạch vành, mạch não, mạch cơ vân nên chỉ làm THA tối đa.
Noradrenalin làm co mạch toàn thân nên làm tăng cả HA tối đa và HA tối thiểu.
- Vai trò của hệ RAA: Renin - Angiotensin - Aldosteron. Renin là enzym được tế
bào của tổ chức cạnh cầu thận và một số tổ chức khác tiết ra khi có yếu tố kích thích. Yếu

tố kích thích tiết Renin là nồng độ muối trong huyết tương và kích thích thụ thể của
adrenecgic. Khi Renin được tiết ra sẽ chuyển 2 globulin (được tổng hợp từ gan) gọi là
angiotensinogen thành angiotensin I (là peptid có 10 acid amin), theo máu đến tuần hoàn
phổi được tách khỏi chất vận chuyển và cắt đi 2 acid amin nhờ coverting enzym ở phổi
còn lại 8 acid amin được gọi là angiotensin II có rất nhiều tác dụng:
Trên mạch máu: Angiotensin II làm co các tiểu động mạch sát với mao mạch nơi
mà thành tiểu động mạch còn cơ trơn. Tác dụng co mạch của của angiotensin II mạnh gấp
30 lần so với noradrenalin.
Kích thích lớp cầu của vỏ thượng thận làm tăng bài tiết aldosterol do tác dụng lên
enzym 20α hydroxylase, là enzym chuyển cholesterol thành 20α hydroxy cholesterol, gây
tăng giữ nước và giữ muối.
Kích thích trực tiếp lên ống thận làm tăng tái hấp thu natri.
Kích thích vùng postrema (diện sau cùng ở nền não thất IV) là vùng có những tế
bào nhạy cảm với tác dụng của angiotensin II, do đó làm tăng trương lực mạch máu và
làm tăng sức cản ngoại vi dẫn đến THA.
Kích thích các cúc tận cùng thần kinh giao cảm tăng bài tiết noradrenalin và giảm
sự tái nhập noradrenalin trở lại các cúc tận cùng.
Làm tăng tính nhạy cảm của noradrenalin đối với mạch máu. Từ những hiểu biết
trên ta thấy angiotensin II có tác dụng rộng khắp toàn bộ hệ thống động mạch, làm tăng
sức cản noại vi và tăng thể tích dịch lưu hành là cơ sở THA.


8

Giảm chất điều hoà HA: prostaglandin E2 và kali krein ở thận có chức năng sinh
lý là điều hoà huyết áp, hạ canxi máu, tăng canxi niệu khi chất này bị ức chế hoặc thiếu
gây THA.
- Vai trò của natri trong cơ chế bệnh sinh của THA: natri có vai trò trong bệnh
THA cả trên thực nghiệm và trong điều trị. Trong điều kiện bình thường các hormon và
thận sẽ hiệp đồng để thải natri làm cho lượng natri trong máu ổn định. Hiện tượng ứ natri

xảy ra khi lượng natri sẽ tăng giữ nước, hệ thống mạch sẽ tăng nhạy cảm với angiotensin
và noradrenalin.
1.1.4.2 THA thứ phát:
Có nguyên nhân rõ ràng
- Bệnh thận ở nhu mô thận đều có thể gây THA thứ phát. Cơ chế gây THA do thận
liên quan đến thể tích lòng mạch hoặc tăng hoạt động renin – angiotensin - aldosteron,
giảm sản xuất chất giãn mạch cần thiết (có thể là prostaglandin hoặc bradykinin) giảm bất
hoạt các chất giãn mạch hoặc kém thải trừ natri nên natri bị giữ lại làm THA.
- THA do dị dạng động mạch thận: có khoảng 75% bệnh nhân hẹp động mạch thận
là do xơ vữa đặc biệt là bệnh nhân lớn tuổi, 25% còn lại do dị dạng xuất phát từ lớp cơ
(thường gặp ở đối tượng trẻ tuổi). THA do bệnh mạch thận là do giảm tưới máu nhu mô
thận, do hẹp nhánh chính hoặc nhánh phụ động mạch thận dẫn đến hoạt hoá hệ R.A.A,
angiotensin II được giải phóng gây co mạch trực tiếp.
- U tuỷ thượng thận là nguyên nhân hiếm gặp gây THA (chiếm 1 - 2%), là khối u
tế bào ưa crôm sản xuất và phóng thích ra lượng lớn catecholamin (norepinephrine hoặc
epinephrin hoặc cả hai).
- Do cường aldosteron và hội chứng cushing: Hậu quả angiotensin II kích thích
làm tăng aldosteron gây giữ natri bằng cách kích thích sự trao đổi natri và kali ở ống
thận gây giữ nước làm tăng thể tích tuần hoàn gây THA. Cường aldosteron có thể do khối
u hoặc quá sản vỏ thượng thận hai bên. Cường aldosteron tiên phát chiếm 0,3% tổng số
bệnh nhân THA.
- Hẹp eo động mạch chủ: chiếm khoảng 7% bệnh nhân tim bẩm sinh do đường
kính động mạch chủ có thể bị nhỏ hoặc bị thắt ở trên bất kì vị trí nào của động mạch


9

nhưng hay gặp nhất ở đoạn dưới nơi xuất phát của động mạch dưới đòn trái. Trong hẹp eo
động mạch chủ gây THA ở chi trên trong khi lại hạ HA ở chi dưới, HA ở chi trên cao hơn
HA ở chi dưới 30 mmHg.

- THA ở phụ nữ có thai: Bệnh THA xuất hiện nặng lên trong thời kỳ có thai gây tử
vong cho bà mẹ và thai nhi, tỉ lệ tử vong ở mẹ là 10%, ở con là 33%.
- Sử dụng estrogen: là dạng phổ biến nhất của THA thứ phát, cơ chế do tăng hoạt
động hệ R.A.A do estrogen kích thích tổng hợp angiotensin và làm tăng angiotensin II
làm cường aldosteron thứ phát. Trường hợp này chỉ xảy ra ở 5% phụ nữ sử dụng thuốc và
HA trở lại bình thường sau 6 tháng dừng thuốc.
- Các nguyên nhân khác: THA kết hợp với tăng kali máu, bệnh to đầu chi, tăng
canxi máu do cường tuyến cận giáp.
1.1.5 Biểu hiện của bệnh tăng huyết áp [2]
1.1.5.1 Lâm sàng
Bệnh nhân bị THA đa số đều không có triệu chứng gì cho tới khi phát hiện ra
bệnh. Các biểu hiện phổ biến đau đầu vùng chẩm và hai bên thái dương, ngoài ra có thể
có hồi hộp, mệt, khó thở, mờ mắt, tê đầu chi..., một số các triệu chứng khác tuỳ thuộc vào
nguyên nhân hoặc biến chứng của THA. THA thường xuyên sẽ làm cho thất trái to ra, về
lâu dài, thất trái bị giãn; khi sức co bóp của tim bị giảm nhiều thì sẽ bị suy tim, lúc đầu
suy tim trái rồi suy tim phải và trở thành suy tim toàn bộ. Về lâm sàng, lúc đầu người
bệnh mệt mỏi, khó thở khi gắng sức, về sau với gắng sức vừa cũng khó thở và đến giai
đoạn cuối của bệnh thì khó thở cả khi đi ngủ.
Vì thế, đo HA là phương pháp có ý nghĩa chẩn đoán xác định., phương pháp
Korotkoff dùng huyết áp kế thủy ngân hoặc các loại huyết áp kế khác theo định kì 6
tháng/lần. Số đo HA được đánh giá theo tiêu chuẩn của Hội Tim mạch học Việt Nam như
sau:
Tại phòng khám: khi bệnh nhân có trị số HA ≥ 140/90mmHg, sau khám lâm sàng
ít nhất 2 hoặc 3 lần khác nhau. Mỗi lần khám được đo ít nhất 2 lần.
Tại nhà: khi đo nhiều lần đúng phương pháp, THA có trị số HA >135/85 mmHg.


10

Các dấu hiệu lâm sàng khác: bệnh nhân có thể béo phì, mặt tròn, cơ chi trên phát

triển hơn cơ chi dưới trong hẹp eo động mạch chủ. Tìm các biểu hiện vữa xơ động mạch
trên da (u vàng, u mỡ…)
Khám tim phổi có thể phát hiện sớm dày thất trái hay dấu hiệu suy tim trái, sờ và
nghe động mạch để phát hiện các trường hợp nghẽn hay tắc động mạch cảnh.
Khám bụng có thể phát hiện tiếng thổi tâm thu hai bên rốn, trong hẹp động mạch
thận, phồng động mạch chủ hoặc phát hiện thận to, thận đa nang.
Khám thần kinh có thể phát hiện các tai biến mạch máu não cũ hoặc nhẹ.
1.1.5.2. Cận lâm sàng:
Đánh giá nguy cơ tim mạch, tổn thương thận và tìm nguyên nhân bằng xét nghiệm
:- Máu: công thức máu, ure, creatinin, điện giải đồ, cholesterol toàn phần, HDL - C, LDL
- C, glucose, acid uric trong máu.
- Nước tiểu: protein, hồng cầu…
- Soi đáy mắt, điện tâm đồ, X quang tim, siêu âm tim…
- Chụp UIV nhanh, thận đồ (đối với THA thứ phát hoặc những trường hợp khó xác
định).
- Định lượng catecholamin nước tiểu 24h (đối với trường hợp u tủy thượng thận).
1.1.6. Các yếu tố nguy cơ của bệnh THA
Đái tháo đường type 2: theo thống kê của Tổ chức y tế thế giới thì tỷ lệ bệnh
nhân ĐTĐ týp 2 có THA kèm theo chiếm khoảng 71%
Các nghiên cứu trong và ngoài nước đều cho thấy tỉ lệ mắc THA ở những bệnh nhân
ĐTĐ týp 2 gần gấp đôi ở những bệnh nhân không ĐTĐ, mối liên quan này làm gia tăng
đáng kể các biến chứng tim mạch (lớn gấp 2 lần so với bệnh nhân THA không có ĐTĐ).
Do vậy khả năng xảy ra các biến chứng về tim mạch trong vòng 10 năm ở bệnh nhân
ĐTĐ týp 2 kèm theo THA là từ 20%- 30% [17].
Rối loạn chuyển hoá Lipid máu: là nguyên nhân chính dẫn đến vữa xơ động
mạch, đó cũng là nguyên nhân gây THA và các biến chứng của THA
Các nghiên cứu của nhiều tác giả trong và ngoài nước về rối loạn chuyển hoá Lipid đều
cho biết hàm lượng Cholesterol ở người THA có xơ vữa động mạch tăng nhiều hơn so



11

với ở người có xơ vữa động mạch nhưng không có THA. Hàm lượng Cholesterol trung
bình ở những người THA có vữa xơ động mạch cũng tăng cao hơn so với người không
THA có vữa xơ động mạch…[17]. Để hạn chế vữa xơ động mạch cần chống tăng
Cholesterol máu bằng điều trị dự phòng bằng chế độ ăn giảm mỡ động vật, tập luyện thể
dục thường xuyên và dùng các thuốc giảm Cholesterol máu.
Yếu tố di truyền:
- Người da đen có tỉ lệ tăng huyết áp cao và nặng hơn các chủng tộc khác
- Tiền sử gia đình có người thân bị bệnh động mạch vành: nữ < 65 tuổi hoặc nam
< 55 tuổi .
- Bố hoặc mẹ bị bệnh này thì trong số con cái cũng có người mắc bệnh. Bệnh nhân
THA di truyền lại cho con cái không phải bệnh THA mà chỉ truyền lại một số đặc điểm
của cơ thể thuận lợi cho bệnh THA như thể tạng, đặc điểm của hoạt động thần kinh cao
cấp…nhưng chỉ khi có tác động của các yếu tố bên ngoài như điều kiện sinh hoạt vật
chất, tinh thần, giáo dục, truyền thống...giống nhau ở những người cùng gia đình của
bệnh nhân THA mới gây ra THA [16].
Người trên 60 tuổi (nam) và ở tuổi tiền, mãn kinh (nữ):
Bệnh THA thường thấy ở tuổi trung niên trở đi, tuổi càng cao thì tần suất mắc
bệnh càng nhiều. Tỉ lệ bệnh nhân lớn tuổi THA trên thế giới ngày càng gia tăng, đặc biệt
ở các nước phát triển và khoảng 65% bệnh nhân lớn tuổi có THA.
Nữ giới ở lứa tuổi tiền, mãn kinh thì bị THA nhiều hơn hẳn so với nam giới cùng
lứa tuổi. Theo thống kê của Viện tim mạch Việt Nam thì tỉ lệ bệnh nhân THA tuổi mãn
kinh chiếm 10,12% bệnh nhân THA [16].
1.1.7 Hành vi lối sống với THA
Hút thuốc lá:
Chất Nicotin có trong thuốc lá kích thích hệ thần kinh giao cảm làm co mạch
ngoại vi, làm tăng nồng độ Serotonin, Catecholamin ở não, tuyến thượng thận. Thực
nghiệm của Maslova năm 1958 trên súc vật thí nghiệm cho thấy Nicotin trong thuốc lá
gây THA. Theo các nhà nghiên cứu thì hút một điếu thuốc lá, HATT có thể tăng lên tới 11

mmHg, HATTr tăng lên tới 9 mmHg và kéo dài 20-30 phút, hút nhiều có thể gây cơn


12

THA kịch phát nguy hiểm. Nếu hút thuốc lá trên 10 điếu/ngày, liên tục trong 3 năm thì có
nguy cơ THA và mắc các bệnh tim mạch cao hơn so với người bình thường..
Hút thuốc lá, cho dù không phải là một nguyên nhân THA nhưng lại là yếu tố
nguy cơ quan trọng liên quan đến bệnh, vì nguy cơ mắc bệnh mạch ở người tăng huyết áp
có hút thuốc lá cao hơn 50 - 60% so với người THA không hút lá và 25% các trường hợp
thiếu máu cơ tim nguyên nhân từ hút thuốc lá.[25]
Uống rượu:
Rượu được hấp thu nhanh qua đường tiêu hoá, chủ yếu đoạn đầu ruột non và đạt
hàm lượng trong máu cao nhất sau khi uống từ 30 đến 90 phút. Hơn nữa, rượu còn có thể
gây rối loạn nhịp tim, rối loạn điều hoà lipoprotein và triglycerid, làm tăng nguy cơ nhồi
máu cơ tim và các bệnh lý về mạch máu. Các thực nghiệm cho thấy rằng với khối lượng
lớn, ethanol có tác dụng co mạch trực tiếp. Giảm tiêu thụ rượu xuống tới dưới 3 lần uống
trong ngày (30ml rượu) làm giảm HA ở bệnh nhân có điều trị [26]
Mức độ an toàn trong sử dụng rượu bia được đưa ra theo những nghiên cứu về các
nguy cơ do rượu bia gây ra cho sức khỏe. Ở các nước việc tính toán mức độ uống rượu
bia dựa vào số đơn vị rượu sử dụng hàng ngày. Tùy theo mỗi quốc gia, một đơn vị rượu
thường có 8-14 gram rượu nguyên chất, thường áp dụng nhất là đơn vị rượu chứa 10
gram rượu nguyên chất.[26]
Uống nhiều rượu hay gây THA, càng uống nhiều HA càng cao. Vùng nào tiêu thụ
nhiều rượu, nơi đó nhiều người bị THA. Rượu uống nhiều còn làm mất hiệu quả của
những thuốc chữa THA. Qua điều tra dịch tễ học bệnh THA ở Việt Nam trong 4 năm
(1989 - 1992) nhận thấy lạm dụng rượu ở người THA cao hơn những người bình thường.
Thói quen ăn mặn: các công trình nghiên cứu đều cho thấy là tăng Natri máu do
chế độ ăn mặn gây ra THA, ăn mặn liên quan đến THA là kiến thức có từ lâu và đã được
khoa học chứng minh, do đó hạn chế muối trong khẩu phần ăn hàng ngày là một trong

những biện pháp dễ nhất để phòng ngừa THA và cách điều trị mà không phải dùng thuốc
tốt nhất.


13

Stress: ảnh hưởng lớn của yếu tố tinh thần xúc cảm, đối với nội tạng nói riêng và
sức khoẻ nói chung. Sự xuất hiện của các stress có tính tiêu cực đối với bệnh nhân THA
sẽ làm cho bệnh nặng lên, dễ xảy ra tai biến mạch máu não và nhồi máu cơ tim.
Béo phì: béo phì có liên quan đến nhiều bệnh lí về chuyển hoá, tim mạch, là yếu
tố nguy cơ chính của THA, những người cơ địa béo phì dễ bị THA, béo phì và THA liên
quan chặt chẽ với nhau. Béo phì là hậu quả của tình trạng mất cân bằng năng lượng, trong
đó năng lượng ăn vào vượt quá năng lượng tiêu hao trong một thời gian dài. Béo phì ngày
càng phổ biến ở trên thế giới, cũng như ở Việt Nam. Ở các nước phát triển tỉ lệ người béo
phì cũng đang có xu hướng tăng nhanh. Béo phì rất có hại cho tim mạch vì hay dẫn đến
THA và xơ vữa động mạch, cuối cùng dẫn đến rút ngắn tuổi thọ rõ rệt.
Nhiều nghiên cứu cho thấy béo phì có tương quan thuận với HA. Tỉ lệ THA tăng
theo mức độ béo phì, tỉ lệ THA tăng dần theo mức độ thừa cân ở cả nam và nữ giới.
Người béo phì độ II có tỉ lệ THA từ 33% - 39% so với người tiền béo phì tỉ lệ THA chiếm
17% - 24% [4]. Ở những người béo phì có THA, chỉ cần giảm 5 kg là HA đã giảm nhiều.
Các nhà khoa học cho biết, nếu giảm 10 kg thì HA tâm thu có thể giảm từ 5 đến 20
mmHg, đồng thời còn có nhiều lợi ích khác như giảm tỉ lệ mắc đái tháo đường, hạ lipid
máu...[11]
1.1.8 Biến chứng THA:
THA thường gây ra biến chứng ở các cơ quan sau:
Tim:
- Cấp: Phù phổi cấp, nhồi máu cơ tim cấp...
- Mạn: Dày thất trái, suy vành mạn, suy tim...
Mạch não:
- Cấp: Xuất huyết não, tắc mạch não, tai biến mạch máu thoáng qua...

- Mạn: tai biến mạch máu, tai biến mạch máu thoáng qua...
Thận: tiểu ra máu hoặc protein, suy thận...
Đáy mắt : phù, xuất huyết, xuất tiết, mạch co nhỏ...
Bệnh động mạch ngoại vi
1.1.9 Điều trị THA


14

1.1.9.1. Thay đổi hành vi lối sống (điều trị không dùng thuốc)
Là phương pháp điều trị bắt buộc song song với tất cả phương pháp điều trị, bao
gồm giảm cân ở người quá cân, hoạt động thể lực, giảm lượng rượu uống vào, ăn nhiều
trái cây tươi và rau quả.... Phương pháp điều chỉnh lối sống là giải pháp làm giảm HA,
giảm nhu cầu dùng thuốc, đồng thời giúp phát hiện, phòng ngừa các yếu tố nguy cơ tim
mạch của bệnh nhân.[7], [16]
Điều chỉnh lối sống làm giảm huyết áp

Trọng lượng

Khuyến cáo
Duy trì trọng lượng cơ thể bình

Làm giảm HA TT
Cân nặng được

thường (BMI 18,5 – 24,9)

giảm
5 – 10 mmHg/10


Chế độ dinh dưỡng

Ăn nhiều trái cây, rau và các thực phẩm ít

kg
8 – 14 mmHg

chất béo, giảm mỡ bão hoà và mỡ toàn
Thói quen ăn mặn

phần
Giảm Natri trong khẩu phần ăn

Hoạt động thể lực

< 100 mEq/l (2,4g Na+ hay 6g NaCl)
Hoạt động thể lực đều đặn như đi bộ nhanh 4 - 9mmHg

2 – 8 mmHg

(ít nhất 30 phút/ngày và hầu hết các ngày
Thói quen uống

trong tuần)
Uống không quá 2 ly rượu nhỏ mỗi ngày

rượu

tương đương: 30ml Ethanol, 720 ml bia,


2 - 4mmHg

300 ml rượu hay 90 ml Whisky cho nam
giới. Với nữ giới, liều lượng rượu cần
giảm chỉ còn một nửa.
1.1.9.2 Điều trị bằng thuốc
Thuốc được dùng điều trị THA nhằm can thiệp vào các khâu của huyết động đã bị
thay đổi trong quá trình bệnh lý. Huyết áp động mạch phụ thuộc vào 2 yếu tố đó là: Cung
lượng tim và sức cản ngoại vi. Tăng huyết áp xảy ra khi có tăng cung lượng tim hoặc tăng
sức cản ngoại vi, hoặc tăng cả 2 yếu tố huyết động đó. Điều trị bằng thuốc phải có sự chỉ
định của bác sĩ; liều dung bắt đầu từ từ và tăng dần để đạt mức huyết áp tối ưu.


15

1.2. Các nghiên cứu về tỉ lệ mắc bệnh THA tại Việt Nam và trên thế giới
1.2.1 Các nghiên cứu tại Việt Nam:
- Nghiên cứu của Phạm Gia Khải và cộng sự, năm 2003, điều tra tại 4 tỉnh phía
Bắc phát hiện 818/5.012 người mắc THA (16,3%), trong số mắc THA chỉ có 94/818
người (11,5%) dùng thuốc điều trị và tỉ lệ huyết áp được khống chế tốt là 19,1% [14].
- Nghiên cứu của Vũ Bảo Ngọc, năm 2004, khảo sát 2.366 người từ 18 tuổi trở lên
tại quận 4, TP. Hồ Chí Minh, cho biết tỉ lệ hiện mắc THA là 21,9%; tỉ lệ THA tăng theo
tuổi, BMI và giảm khi trình độ học vấn tăng lên.[17]
- Nghiên cứu của Trần Hòa, Trương Phi Hùng và cộng sự, năm 2004 tại huyện Mỏ
Cày, Bến Tre, cho biết tỉ lệ mắc bệnh THA ở người lớn ≥40 tuổi là 43%, nam có xu
hướng nhiều hơn nữ, tỉ lệ nhận biết THA là 83,3%, tuy nhiên chỉ có 14,2% được điều trị
thường xuyên [9].
- Nghiên cứu của Tô Văn Hải, năm 2005, khảo sát 400 bệnh nhân ĐTĐ cho biết có
54,5% (218/400) bệnh nhân có kèm theo THA và tỉ lệ bệnh nhân THA có tăng
Cholesterol máu là 61,9% [6].

- Nghiên cứu của Cao Mỹ Phương và cộng sự, năm 2005, cho biết tỉ lệ bệnh nhân
ĐTĐ có THA kèm theo chiếm 55,6% [20].
- Nghiên cứu của Mã Bửu Cầm, năm 2006 tại Bệnh viện Nguyễn Trãi TP.Hồ Chí
Minh về thực hành ăn kiêng và kiểm soát cân nặng ở bệnh nhân THA tuổi 40 trở lên, cho
biết bệnh nhân nhận biết 3 yếu tố nguy cơ của THA là ăn mặn (83%), béo phì (65,6%),
uống rượu (60,7%) [3]
- Nghiên cứu của Trần Thiện Thuần, năm 2007, cho biết hành vi và những yếu tố
liên quan đến THA ở người lớn tại TP Hồ chí Minh [25]
- Nghiên cứu của Viên Văn Đoan và cộng sự, năm 2007, theo dõi và điều trị cho
5.840 bệnh nhân THA trong vòng 5 năm cho biết có 90,8% bệnh nhân THA được quản lý
tốt; 9,2% bệnh nhân chưa được quản lý tốt, trong số bệnh nhân được quản lý tốt có 71,5%
bệnh nhân đạt được huyết áp mục tiêu và 28,5% bệnh nhân THA chưa đạt được HA mục
tiêu [15].


16

- Nghiên cứu của Nguyễn Văn Hoàng, Bệnh viện đa khoa Tân Thạnh – Long An,
năm 2007, khảo sát 1.134 bệnh nhân THA cho biết tỉ lệ các yếu tố nguy cơ tim mạch và
tổn thương cơ quan đích ở BN THA cao tuổi là khá cao: tiền sử gia đình 1,5%, hút thuốc
lá 23,4%, béo phì 13,49%, đái tháo đường 13,23%, tăng cholesterol 50,4%, tăng
Triglycerit 51,2%, tăng LDL 54,8%, giảm HDL 14,3%, suy thận mạn là 10,6% [10].
- Nghiên cứu của Trần Cao Minh và Phùng Đức Nhật, năm 2008, truyền thông, giáo
dục người bệnh là vấn đề then chốt trong kiểm soát THA lâu dài. Nên truyền thông qua
mạng lưới y tế cộng đồng và các phương tiện thông tin đại chúng (truyền hình, phát
thanh, báo chí, tờ rơi…). Điều quan trọng để điều trị và kiểm soát THA thành công là lôi
kéo người bệnh tham gia và tạo mối quan hệ tốt giữa thầy thuốc với bệnh nhân.
- Nghiên cứu của Trịnh Quang Trí (2008) tại TP. Buôn Ma Thuột, tỉnh DakLak cho
biết tỉ lệ THA ở người Ê Đê trưởng thành là 21%, trong đó các yếu tố nguy cơ là tuổi cao,
giới tính nam, chỉ số BMI tăng [21].

- Nghiên cứu của Trần Minh Giao, năm 2009, khảo sát 1213 bệnh nhân nội trú tại
Bệnh viện Nhân dân Gia Định, cho biết THA chiếm 13%, do biến chứng của THA là
60,7%, bệnh nhân có tiền căn THA chiếm 97,8%, Các bệnh lý đi kèm gồm đái tháo
đường 2 chiếm 25,8%; bệnh lý mạch vành chiếm 64,4%; rối loạn lipid máu chiếm 61,3%
[4].
- Nghiên cứu của Hồ Văn Hải, năm 2009, khảo sát 300 bệnh nhân từ 18 tuổi trở
lên đến khám và điều trị tại Trung tâm y tế huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu,
cho biết tỉ lệ bệnh nhân THA có các yếu tố nguy cơ gây tăng huyết áp được ghi nhận như
sau: ăn mặn là 81%, không hoạt động thể lực 60%, có uống rượu/bia 55%, hút thuốc lá
35%, ăn nhiều dầu mỡ 15% [5].1.2.2 Các nghiên cứu trên thế giới:
Nghiên cứu của Lorna Aucott, Amdha Poobalan, W. Cairns S. Smith và cộng sự,
năm 2004, khảo sát hiệu quả giảm cân ở người béo phì mắc bệnh THA tại Anh, cho biết
nếu giảm trung bình 10 kg thể trọng thì sẽ giảm được 4,6 mmHg đối với huyết áp tâm thu
(HATT) và 6,0 mmHg đối với huyết áp tâm trương (HATTr) [27].


17

Nghiên cứu của tác giả Janghorbani, Mohsen, Amini và cộng sự, năm 2005, điều
tra tỉ lệ THA và các yếu tố nguy cơ liên quan đối với 35.048 nam và 34.576 nữ lứa tuổi từ
25-65 tại Iran cho biết tỉ lệ tiền THA là 59,6% ở nam giới, 44,5% ở nữ giới và tỉ lệ THA
là 19,8% ở nam giới và 26,9% ở nữ giới. Phân tích đa biến cho thấy béo phì có liên quan
với THA ở cả 2 giới [29].
Nghiên cứu của Lawrence J. Beilin và Ian B. Puddey, năm 2006, nghiên cứu cắt
ngang ở Trung Quốc cho biết có mối liên quan giữa uống rượu và nguy cơ THA, người
uống nhiều rượu ( 30 lần/tuần) có nguy cơ gấp 2 lần so với người không uống rượu
[29].
Nghiên cứu của Midgley J.P, thì những người > 45 tuổi bị THA, trị số huyết áp sẽ
giảm 6,3/2,2 mmHg nếu giảm lượng muối Natri 9mmol/ngày [24].
Nghiên cứu của Katz.A., Rosenthal T., Maoz C. tại Israel về hiệu quả của chế độ

muối khoáng tác động lên HA 24 giờ ở người lớn tuổi THA: Chế độ ăn muối hàng ngày
được điều chỉnh cho ít Na và tăng K, Mg trong 6 tháng [24]
Khảo sát của WHO năm 2005 cho biết, tại Brazil tỉ lệ béo phì ở nữ là 61%, Trung
Quốc 30%, Ấn Độ 22%, Pakistan 31%, Nga 69%, Anh 68% và tỉ lệ béo phì ở nữ nhiều
hơn ở nam. Cũng theo WHO (2006), ít nhất 1/6 dân số thế giới bị thừa cân, hơn 300 triệu
người lớn béo phì (BMI ≥ 30), 22 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị thừa cân, béo phì [29].
Theo WHO (2007), tại Canada tỉ lệ người lớn hút thuốc là 16,2%, trong đó nam
20,3% và nữ 12,8%; tại Mỹ tỉ lệ hút thuốc ở nam là 23,9% và nữ là 18,1%, tỉ lệ người hút
thuốc nhiều nhất ở nhóm có trình độ học vấn thấp [29].

1.3 THA và các hành vi nguy cơ có thể tác động được:
1.3.1 THA và BMI
Các yếu tố của THA bao gồm tuổi cao, giới nam, chỉ số khối cơ thể tăng, béo
bụng, chỉ số vòng bụng/vòng mông tăng, rối loạn đường máu, rối loạn mỡ máu, uống
nhiều rượu, tiền sử gia đình huyết thống có người THA. Yếu tố liên quan mạnh nhất đến
THA là mức độ béo phì. THA và các yếu tố nguy cơ , nhất là yếu tố nguy cơ liên quan
đến lối sống đã trở thành vấn đề cần giải quyết không chỉ điều trị bằng thuốc để kiểm soát
HA, đồng thời cần phải có hàng loạt các biện pháp trong y tế dự phòng, trong đó truyền


18

thông GDSK nhằm vào các yếu tố nguy cơ về lối sống theo hướng tích cực cho người
bệnh THA (14)
Chỉ số BMI tăng là một trong những yếu tố nguy cơ tăng bệnh mạch vành và
THA. Nhiều kết quả cho thấy chỉ số BMI có liên quan đến THA ở cả hai giới [4,3,38].
Theo nghiên cứu của Phạm Gia Khải và cộng sự, cùng các nghiên cứu khác cũng khẳng
định yếu tố liên quan mạnh đến THA là chỉ số BMI cao [4,9,36]
Tỷ lệ người có BMI ≥25 ở Canada (2007) là 43%, trong đó BMI ≥30 là 11,4%,
tỷ lệ người thừa cân, béo phì ở những người có trình độ học vấn cao, nhiều hơn ở những

người có trình độ học vấn thấp, theo WHO tỷ lệ béo phì ở nữ nhiều hơn ở nam, tỷ lệ béo
phì ở nữ tại Brazil năm 2005 là 61%, Trung Quốc là 30%, Ấn độ là 22%, pakistan 31%,
Nga 69%, Anh 68% [28]
1.3.2 THA và hút thuốc lá
Chất Nicotin có trong thuốc lá tác dụng chính là làm co mạch ngoại biên, tăng
nồng độ các chất Serotonin, Catecholamin tại não và tuyến thượng thận. Năm 1950,
Maslova thực nghiệm trên súc vật thí nghiệm cho thấy Nicotin trong thuốc lá gây THA.
Và nghiên cứu trên công nhân ở nhà máy thuốc lá, nơi công nhân phải chịu đựng khói bụi
và khói thuốc lá nhiều cũng nhận thấy tỷ lệ huyết áp tăng cao rõ rệt. Cho dù các tác giả
vẫn chưa thống nhất chung hút thuốc lá gây THA như thế nào, nhưng tất cả đều cho rằng
những người đã THA nếu hút thuốc lá chỉ có hại, chỉ số HA tăng lên rõ rệt làm tang nguy
cơ các biến chứng THA.
Dù cho hút thuốc lá không là nguyên nhân chính gây THA, nhưng lại là yếu tố
nguy cơ quan trọng liên quan đến THA, do nguy cơ mắc bệnh mạch vành ở người THA
có hút thuốc lá cao hơn so với người THA không hút thuốc lá là 50-60%, trong những
trường hợp thiếu máu cơ tim nguyên nhân từ hút thuốc lá là 25% [25]
Hút thuốc lá gây nên gánh nặng bệnh tật toàn cầu 4,1% và chỉ đứng sau THA
(4,5%). Theo WHO (2002), trên toàn thế giới có hơn 1,25 tỉ người hút thuốc lá, trong đó
nam giới chiếm khoảng 1 tỉ người, riêng Trung Quốc có hơn 300 triệu người hút và nữ
giới vào khỏang 250 người. Tỷ lệ hút thuốc lá ở các nước đang phát triển khoảng 50% và
các nước phát triển là 35%


19

Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ nam giới hút thuốc lá cao. Theo điều
tra y tế quốc gia năm 2001- 2002 , tỷ lệ hút thuốc lá nam giới ở nông thôn và thành thị
xấp xỉ nhau khoảng 56,1%, tỷ lệ nữ giới hút thuốc lá khoảng 1,8%. Nam giới hút thuốc lá
cao nhất ở nhóm người nghèo và giảm dần khi tăng mức sống [29]
Theo WHO (2007), Canada tỷ lệ người lớn hút thuốc lá 16,2% trong đó nam giới

20,3% và nữ 12,8%; tại Mỹ nam 23,9% và nữ 18,1%, tỷ lệ hút thuốc lá nhiều nhất ở
nhóm có trình độ học vấn thấp. Và theo WHO (2008) tính chung trên toàn thế giới có
22% người lớn hút thuốc lá, trong đó tỷ lệ ở nam giới là 36% và nữ là 8%, có khoảng 1/3
số người lớn ở Trung và Tây Âu hiện đang hút thuốc lá [30]
Tỷ lệ hút thuốc lá ở các nước Đông nam Á và các nước thuộc Nam và Bắc Âu
cũng chiếm tỷ lệ cao. Tuy nhiên, gần 2/3 số người hút thuốc lá tập trung ở 10 quốc gia:
Banglades, Brazil, Trung Quốc, Đức, Ấn Độ, Indonesia, Nhật Bản, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ và
Mỹ(31)
1.3.3 THA và uống rượu
Các thực nghiệm cho thấy rằng với khối lượng lớn, rượu có tác dụng co mạch trực
tiếp. Giảm tiêu thụ rượu xuống dưới 30ml trong ngày, làm giảm HA ở bệnh nhân có điều
trị [4]. Mức độ an toàn trong sử dụng rượu bia được đề ra theo những nghiên cứu về các
nguy cơ do rượu bia gây ra cho sức khỏe. Ở các nước trên thế giới việc tính toán mức độ
uống rượu bia dựa vào số đơn vị rượu sử dụng hàng ngày. Tùy theo quốc gia, một đơn vị
rượu thường có 8-14 gram rượu nguyên chất, hay áp dụng nhất là 1 đơn vị rượu chứa 10
gram rượu nguyên chất [31]
Theo WHO (2004 ), ước tính trên toàn thế giới hiện có khoảng 2 tỷ người đang
uống rượu bia, 76,3 triệu người có những rối loạn liên quan đến rượu bia, có mối liên
quan giữa uống rượu và 60 loại bệnh tật khác nhau và hằng năm 1,8 triệu người chết do
rượu bia. Lạm dụng rượu bia gây nên 4% gánh nặng bệnh tật toàn cầu, chỉ sau sử dụng
thuốc lá (4,1%) và THA (4,5%) [31]
Uống rượu bia nhiều là uống quá 3 đơn vị rượu một ngày đối với nam và quá 2
đơn vị một ngày đối với nữ hay số lượng mỗi lần uổng là 6 đơn vị trở lên và ít nhất tuần


20

nào cũng uống một lần, kiểu uống rượu này có thể ảnh hưởng cấp tính và mạn tính đối
với người uống [26].
Về mặt lý thuyết, lý tưởng nhất vẫn là không uống nhiều bia, rượu, nếu đã uống

thì theo WHO nên giữ ở mức không quá 3 đơn vị rượu/ngày đối với nam và không quá 2
đơn vị rượu/ngày đối với nữ. Đối với người Việt Nam, theo Lê Sĩ Liêm, mức độ an toàn
đối với nam là không quá 2 đơn vị rượu/ngày (20 gram rượu nguyên chất), đối với nữ là
không quá 1 đơn vị rượu/ngày (10 gram rượu nguyên chất) .
Nghiên cứu của Phạm Gia Khải về THA tại Hà Nội năm 2001 cho thấy rượu có
liên quan chặt chẽ với THA ở cả 2 giới [28]. Theo nghiên cứu Phạm Hùng Lực, Lê Thế
Thự 1999-2000 [13] và một số nghiên cứu cho có liên quan giữa THA và thói quen uống
rượu [26].
Tỷ lệ uống rượu ở mức nguy cơ cao (> 4 đơn vị rượu/ngày) trong quần thể người
dân các tỉnh Thái Bình, Hà Nội, Nghệ An, Thái Nguyên (2002) ở nam giới là 5,6%, ở nữ
giới là 0,07%. Tỷ lệ uống rượu chung trong cộng đồng các tỉnh nêu trên là 32,8%, ở nam
giới là 73,5%, ở nữ giới là 7,2%. Tỷ lệ uống dường như giảm dần theo tuổi ở nam giới và
tăng dần ở nữ giới nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê, uống rượu nhiều chiếm tỷ
lệ cao nhất ở giới tuổi từ 35- 44 (7,8%). Tỷ lệ nam giới uống rượu theo các mức lần là:
uống nhiều (5,6%), uống vừa phải (35,6%), uống ít (32,3%) và không (26,5%) [26].
Theo kết quả điều tra y tế quốc gia năm 2002, tỷ lệ nam giới từ 15 tuổi trở lên uống rượu
bia từ 1 lần trở lên trong một tuần là 46% và chỉ 2% đối với nữ; 53% hộ gia đình có ít
nhất một người uống bia rượu trong tuần qua; nam giới uống rượu là những người làm
công tác lãnh đạo, quản lý là 69%, nhân viên văn phòng là 67%, người dân tộc thiểu số
uống rượu nhiều hơn người Kinh [26].
Vào năm 2002, 55% người lớn ở Mỹ hiện đang uống bia, rượu, 45% hoàn toàn
không uống rượu, so với những thập kỷ trước, tỷ lệ người lớn uống rượu ngày càng
giảm. Theo nghiên cứu INTERSALT thực hiện ở 50 trung tâm trên thế giới, với 4.844
nam và 4.837 nữ tuổi từ 20-59, kết luận rằng uống có tác dụng cấp tính và mạn tính đến
tình trạng THA và có mối liên giữa THA với những người uống 3-4 đơn vị rượu có mỗi


21

ngày và tình trạng THA do uống rượu không ảnh hưởng bởi các yếu tố như hút thuốc lá,

cũng như Na+, K+ trong chế độ ăn và BMI [37].
1.3.4 THA và ăn mặn
Thành phần chính của muối là NaCl, 1 gram muối (NaCl) tương đương với 17,l
mmol Na+ (393,4 mg natri). Natri trong chế độ ăn có từ 2 nguồn, đó là nguồn có sẵn
trong thực phẩm và nguồn cho thêm vào thức ăn trong quá trình chế biến (phần này phụ
thuộc vào từng người). Theo một số tác giả, một chế độ ăn không cho thêm muối cũng đã
cung cấp 1,6 gram Na +, tương đương 4.1gram muối ăn. Natri là ion ngoại bào có chức
năng cân bằng lượng dịch của cơ thể, sinh lý người bình thường mỗi ngày cần 8-10
mmol Na+/ngày (6184 - 230 mg natri) và hầu hết việc thải trừ Na + qua nước tiểu. Có
nhiều phương pháp được sử dụng để ước tính lượng muối tiêu thụ hằng ngày như khảo
sát chế độ ăn, điều tra khẩu phần và định lượng Na + niệu. Trong đó việc định lượng Na+
niệu trong 24 giờ được xem là tiêu chuẩn vàng để đo lường lượng Na + đưa vào cơ thể vì
nước tiểu có biểu thị chính xác 85- 90% lượng natri đưa vào cơ thể, cách đo lường này
có điểm thuận lợi là không bị sai lệch bời phỏng vấn hoặc thu thập số liệu qua điều tra,
nhưng tốn kém và tương đối khó thực hiện [15].Theo nhóm nghiên cứu về muối
(InterSalt Cooperative Research Group) (1988) thu thập nước tiểu trong 24 giờ ở 10.079
người thuộc 52 quần thể ở 32 nước khác nhau. Kết quả cho thấy hơn 50% nam có mức
sử dụng Na+ từ 150-199 mmol/ngày và hơn 50% nữ có mức tiêu thụ Na + từ 100- 149
mmol/ngày tức là số muối sử dụng hàng ngày ở nam gấp 20 lần nhu cầu thực tế; nữ gấp
khoảng 15 lần nhu cầu thực tế của cơ thể [15]. Một nghiên cứu khác ( Stamler và cộng
sự, 2003) ở Trung Quốc, Nhật Bản, Anh và Mỹ cho thấy lượng muối tiêu thụ thông qua
lượng nước tiểu 24 giờ ở Trung Quốc cao hơn hẳn các nước khác [35].
Một số nghiên cứu DTH và nghiên cứu văn hoá theo chiều ngang, cho thấy có sự
khẳng định mạnh mẽ là lượng muối ăn hàng ngày quá cao là một nguyên nhân gây THA
trong quần thể. Theo nghiên cứu INTERSALT cũng cho thấy có sự liên quan tuyến tính
và có ý nghĩa giữa bài tiết muối natri và HATT và nghiên cứu đã kết luận rằng thói quen
ăn mặn là nguy cơ của THA.


22


Các thử nghiệm cho thấy rằng ăn nhiều muối (> 14gram/ngày) sẽ gây THA trong
khi ăn ít muối (dưới lgram/ngày) gây giảm HA động mạch, ảnh hưởng ở việc giảm ở mức
độ trung bình lượng muối trong chế độ ăn từ 5gram đến 2,5 gram/ngày vẫn còn đang bàn
luận. Theo WHO nên ăn dưới 6 gram/ ngày. Hạn chế muối trong khẩu phần ăn hàng ngày
là một trong những biện pháp để phòng ngừa THA và là cách điều trị mà không phải dùng
thuốc. Các nhà dịch tễ học tính toán rằng nếu dân số toàn thế giới ăn trung bình 6 gram
muối/ngày thì sẽ làm giảm HATT 5mmHg. Do đó sẽ giảm 24% đột quỵ, giảm 18% nguy
cơ bệnh mạch vành và hàng năm giảm 2,5 triệu người chết do các bệnh mạch vành và đột
quỵ. Cho đến nay hơn 50 thử nghiệm lâm sàng trên thế giới đã kết luận rằng giảm lượng
muối đưa vào cơ thể có tác dụng làm giảm huyết áp
Các tác giả cũng đã nghiên cứu các yếu tố đe dọa gây THA và ăn mặn là một
trong những yếu tố gây bệnh quan trọng [15].
Nghiên cứu tại Mỹ cho thấy người dân Mỹ ngày càng có xu hướng sử dụng nhiều
muối trong chế độ ăn so với cách đây 20-30 năm, vào 1970 một người trung bình tiêu thụ
6 gram muối/ngày, năm 2002 tiêu thụ 8,5 gram và 2005 tiêu thụ 10,5 gram. Một khảo sát
dựa vào phiếu điều tra tại Pháp (2000) ở 1.985 đối tượng từ 15 tuổi trở lên cho biết lượng
muối mỗi người tiêu thụ hàng ngày là 9 gram.
Người dân Bắc Nhật Bản dùng 25-30 g muối/ngày và 40% dân số ở đây bị THA.
Trong khi đó dân miền Nam chỉ ăn 10 g muối, tỷ lệ mắc bệnh là 20%. Người Eskimô và
vài bộ lạc châu Phi rất ít bị THA do thói quen ăn nhạt [30].
Những nghiên cứu trong nước cho thấy rằng những vùng ven biển ăn “mặn có tỷ
lệ THA cao rõ hơn ở vùng đồng bằng và miền núi. Nghiên cứu của Đỗ Trinh và cộng sự
(1989-1992) về dịch tễ học của THA ở Việt Nam; so sánh 1.128 người ăn mặn THA cao
rõ rệt hơn nhóm những người bình thường. Vì vậy tác động của chế độ ăn mặn gây ra
THA ở nước ta có thể là nguyên nhân có ý nghĩa [20]. Nhiều nghiên cứu trong nước khác
cũng chứng minh mối tương quan giữa những người có thói quen ăn mặn và THA [16]
Theo điều tra của Viện Dinh Dưỡng lượng muối ăn trung bình mỗi ngày ở người
Nghệ An là 14g, ở Thừa Thiên Huế 13gram. Tỷ lệ THA ở hai địa phương này là 18%. Ở
Hà Nội, người dân ăn mỗi ngày 9 gram muối, tỷ lệ mắc bệnh là 11% [21].



23

Có nhiều nghiên cứu chứng minh sự tương quan giữa ăn mặn và THA; theo
nghiên cứu INTERSALT cũng như nhiều nghiên cứu khác cho thấy lượng muối tiêu thụ
trung bình hàng ngày gấp 5-20 lần nhu cầu thực của cơ thể. Do vậy giảm lượng muối
trong chế độ ăn hàng ngày có vai trò quan trọng trong việc phòng chống bệnh tật mà
không cần dùng thuốc. Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đã đưa ra những khuyến cáo về
lượng muối tiêu thụ hàng ngày. Các nước Brasil, Singapo, Australia, NewZealand
khuyến cáo nên ăn <5gram; Canada < 6 gram; Nhật Bản <8 zram. Cơ quan tiêu chuẩn
thực phẩm Anh (The UK Food Standards Agency) đưa ra kế hoạch giảm lượng muối tiêu
thụ trong dân chúng xuống còn 6 ỉxam/ngày vào năm 2010. Luật y tế cộng đồng Pháp
(2004) đã phê duyệt mục tiêu giảm lượng muối tiêu thụ xuống còn 8 gram/ngày. Theo
nghiên cứu của Phạm Gia Khải và cộng sự (2001- 2002) cho thấy việc phỏng vấn thói
quen ăn mặn và định lượng Na+ niệu trong 24 giờ thấy không có sự tương quan. Vì vậy
việc hỏi thói quen ăn mặn qua phỏng vấn có thể có nhiều sai lệch [24].
1.3.5. THA và ăn nhiều chất béo:
Chế độ ăn nhiều mỡ động vật là nguy cơ trực tiếp của các bệnh tim. Nhiều nghiên
cứu quan sát và các thử nghiệm lâm sàng đánh giá tác động của chất béo bão hòa đến
HA cho thấy sự tương quan này là không rõ [21] Tuy nhiên, nhiều tài liệu khoa học khác
khuyến cáo không nên ăn mỡ động vật và hàm lượng chất béo bão hoà sử dụng hàng
ngày nên dưới 10% năng lượng nhu cầu của cơ thể. Chế độ ăn phụ thuộc nhiều vào điều
kiện kinh tế, thu nhập thói quen ăn uống, chưa có nhiều thông tin về tỷ lệ người có thói
quen ăn nhiều mỡ động vật ở những nghiên cứu trước đây tại Việt Nam.
1.3.6. THA và vận động thể lực
Theo WHO, hoạt động thể lực bao gồm 4 thành phần: tập thể dục; thể thao; công
việc chân tay; đi lại bằng phương tiện không có động cơ và một số việc nhà như gánh
nước, kiếm củi, cuốc đất, ... đòi hỏi hoạt động thể lực cao. Đối với các nước đang phát
triển, tập thể dục thể thao để duy trì sức khỏe chưa phải quan trọng trong khi đa phần dân

số là người lao động chân tay, nhưng đối với những người có nghề văn phòng, dịch vụ,
người trên tuổi lao động thì tập thể dục thể thao trở thành quan trọng để duy trì sức khoẻ
và phòng các bệnh không lây nhiễm. Đối với trẻ em và thanh niên, việc bước vào tuổi


24

trưởng thành với các thói quen tốt như tập thể dục đóng góp nhiều vào việc sống lâu và
sống khoẻ. Chưa có số liệu chính xác là có bao nhiêu người tập thể dục thể thao thường
xuyên trên thế giới. Những nghiên cứu cho thấy người Mỹ có xu hướng ít hoạt động thể
lực, 25% người Mỹ trưởng thành (2002) không tham gia bất cứ hoạt động thể lực nào
trong khi rảnh rỗi [31].Theo WHO (2000) Indonesia, Thái Lan thuộc nhóm quốc gia có
khoảng 15% người hoàn toàn không hoạt động thể lực, không hoạt động thể lực ở đây
bao gồm những người không tập thể dục thể thao, thuộc những người làm bàn giấy, đi lại
bằng phương tiện có động cơ. Tỷ lệ này ở Malaysia, Philippine và Việt Nam là 16%. Tỷ
lệ không hoạt động thể lực ở nữ giới nhiều hơn ở nam [23]. Cũng theo (WHO)(2006)
hơn 60% dân số thế giới tĩnh tại ít hoạt động (sedentary) hay hoạt động không đủ để
nâng cao sức khoẻ [32].
Có nhiều định nghĩa khác nhau về mức hoạt động thể lực khi điều tra trong cộng
đồng, ví dụ như vận dụng theo cách tính quy đổi từ đi bộ:
- Người hoạt động mạnh: Ngoài các hoạt động bình thường trong ngày bao gồm các
hoạt động thể lực tương đương với đi bộ hơn 5 km/ngày với tốc độ 5-7 km/giờ. Ở một
người nặng khoảng 70kg, năng lượng tiêu thụ khi hoạt động mạnh là từ 440-590kcal/giờ
(những hoạt động thể lực mạnh đi bộ nhanh 5-7km/giờ, tập Aerobic, bơi, chạy bộ, đi xe
đạp nhanh giờ; cuốc đất, chặt đốn củi Mức tiêu thụ năng lượng của những mạnh gấp 1,52 lần mức hoạt động thể lực trung bình.
- Người hoạt động vừa phải: Ngoài các hoạt động bình thường này, bao gồm các
hoạt động thể lực tương đương với đi bộ 3- bày với tốc độ 5-7 km/giờ mức tiêu thụ năng
lượng đối với những hoạt động thể lực trung bình khoảng 80-370 kcal/giờ (những hoạt
động thể lực trung bình như đi bộ 5km/giờ; đi xe đạp <15km/giờ; làm vườn nhẹ, vũ, chơi
golf...).

- Hoạt động thể lực ít: bằng các hoạt động trong sinh hoạt binh hàng ngày, tự phục
vụ sinh hoat cá nhân, không làm công việc nhà và di chuyển bằng xe có động cơ [33].

1.4. THA và các yếu tố ảnh hưởng không tác động được:
1.4.1. Yếu tố cơ địa:
+ Tuổi:


×