Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

SKKN góp phần nâng cao chất lượng giờ dạy ngữ văn trong nhà trường THCS bằng phương pháp đọc biểu cảm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.33 KB, 22 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài:

GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIỜ DẠY
NGỮ VĂN TRONG NHÀ TRƯỜNG THCS BẰNG
PHƯƠNG PHÁP ĐỌC BIỂU CẢM

Quảng Bình, tháng 10 năm 2018


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài:

GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIỜ DẠY
NGỮ VĂN TRONG NHÀ TRƯỜNG THCS BẰNG
PHƯƠNG PHÁP ĐỌC BIỂU CẢM

Họ và tên: Lê Thị Ngọc Bé
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Hải Ninh

Quảng Bình, tháng 10 năm 2018


1. PHẦN MỞ ĐẦU


1.1. Lí do chọn đề tài
Văn học là một môn học mang tính đặc thù trong nhà trường cơ sở. Từ
xưa đến nay, dạy học tác phẩm văn chương không chỉ đơn thuần là cung cấp những
tri thức, thông tin cho học sinh, mà còn phải khơi dậy ở học sinh những cảm xúc,
rung cảm thẩm mỹ. Phương pháp dạy văn đòi hỏi phải có sự kết hợp nhịp nhàng giữa
cảm xúc thẩm mỹ và tư duy khái quát. Một trong những mục đích của việc dạy văn là
khơi dậy và phát triển năng lực tâm lý cảm thụ văn học nhằm từng bước hình thành
nhân cách cho học sinh một cách tự nhiên, có hiệu quả vững chắc.
Đổi mới phương pháp dạy văn ở bậc cơ sở là một trong những yêu cầu
cấp thiết trong nhà trường; đồng thời, đó cũng là vấn đề trăn trở của những giáo viên
đang trực tiếp đứng trên bục giảng. Làm thế nào để giờ dạy văn vừa đảm bảo những
thao tác mang tính phù hợp nhu cầu thời đại công nghiệp lại vừa không mất đi những
vẻ đẹp hấp dẫn riêng? Tại sao chương trình sách giáo khoa đó thay đổi, phương pháp
dạy học cũng đó có những chuyển biến quan trọng mà môn Văn vẫn không có sức
hấp dẫn với phần lớn học sinh? Bản thân tôi cũng rất băn khoăn trước tâm sự của một
đồng nghiệp: “Với môn văn hiện nay, học mà đi hết ý nghĩa của những “cảm thụ”,
“chia sẻ”, “xúc động”, “trân trọng”, “yêu thương” trong từng bài giảng, dù là của
môn học chức năng “mở cánh cửa tâm hồn”.Trong thời gian gần đây, khi bàn đến
vấn đề đổi mới phương pháp dạy tác phẩm văn chương trong nhà trường phổ thông;
các nhà nghiên cứu đã đưa ra vấn đề dạy đọc biểu cảm trong dạy tác phẩm văn
chương như một trong những biện pháp hỗ trợ phù hợp, thiết thực - vừa đáp ứng
được yêu cầu đổi mới dạy học theo khuynh hướng hiện đại, lấy người học làm trung
tâm, chủ thể tiếp nhận vấn đề - vừa giữ được nét riêng trong giảng dạy tác phẩm văn
chương. Ở đây, người viết sử dụng cách gọi biện pháp “đọc biểu cảm” thay vì hoạt
động “đọc diễn cảm” vẫn thường được quen dùng trong lí thuyết dạy học văn. Bởi
vậy, theo quan điểm cá nhân, “đọc diễn cảm” là “trình bày lại như thật”, là tái hiện
1


bằng thủ thuật trình diễn thiên về nghệ thuật trình bày, thể hiện; cũng “đọc biểu cảm”

là biểu hiện trực tiếp tình cảm, cảm xúc đối với tác phẩm, một cách bày tỏ những
rung cảm chân thành của trái tim với tư cách là một khâu trong hoạt động tiếp nhận
tác phẩm văn học.
Văn chương trong nhà trường là các tác phẩm nghệ thuật, mà nghệ thuật - kể
cả nghệ thuật ngôn từ - đem đến cho người thưởng thức, người học tập các xúc cảm;
không phải là xúc cảm thông thường, mà là các xúc cảm thẩm mỹ, tức là xúc cảm về
cái đẹp, có tác dụng thanh lọc, nâng cao tâm hồn con người. Vì vậy, việc dạy học tác
phẩm văn chương phải đạt được tính truyền cảm. Truyền cảm trong dạy học văn được
thực hiện trước hết ở việc tạo ra điều kiện cho trực cảm thẩm mỹ cho học sinh- tức là
phải tạo niềm say mê, hứng thú nhập thân vào giờ văn qua các loại hoạt động cảm
thụ; trong đó, hoạt động đọc biểu cảm được coi là một biện pháp quan trọng.
Vì những lý do trên, tôi lựa chọn tìm hiểu đề tài: “Góp phần nâng cao chất
lượng giờ dạy Ngữ văn bằng biện pháp đọc biểu cảm” với mong muốn góp phần
vào việc hình thành cho học sinh niềm hứng thú, say mê trong mỗi giờ đọc văn nói
riêng và giờ học Ngữ văn nói chung; để mỗi giờ học văn thực sự là một giờ khám phá
cảm xúc.
1.2. Phạm vi áp dụng
- Phạm vi: vận dụng biện pháp đọc biểu cảm đối với một số tác phẩm văn học
trong chương trình Ngữ văn lớp 7.
-Đối tượng: Học sinh trường THCS Hải Ninh, lớp: 7/3.

2


2. NỘI DUNG
2.1. Thực trạng của vấn đề
Đọc biểu cảm là một hoạt động quan trọng trong quá trình dạy và học văn.Tuy
vậy, do nhiều nguyên nhân khách quan và cả chủ quan, đọc biểu cảm trong giờ văn
hiện nay vẫn chưa được xem xét - vận dụng một cách hợp lý. Trong thực tế một giờ
dạy tác phẩm văn chương hiện nay, biện pháp đọc biểu cảm vẫn được sử dụng khá

phổ biến. Tuy nhiên, nó chỉ tồn tại một cách tuỳ hứng. Với những giáo viên đọc hay,
đọc giỏi thì thích đọc và đọc nhiều. Người đọc yếu thì ngại đọc, chỉ đọc một ít, sau đó
“giao khoán” cho học sinh. Một số giáo viên khi đến với tác phẩm dài, sợ thiếu giờ
nên đôi lúc còn bỏ qua cả khâu đọc. Có người thì lại chỉ dừng ở chỗ hướng dẫn sơ
lược rồi yêu cầu học sinh đọc biểu cảm. Chính vì vậy, việc đọc biểu cảm trong giờ
giảng văn ở nhà trường phổ thông hiện nay vẫn chưa được chú ý đúng mức.
Bên cạnh đó, xét về nguyên nhân chủ quan, một số giáo viên còn chưa thấy
hết ý nghĩa của hoạt động đọc biểu cảm trong giờ văn, nên chỉ cho học sinh đọc chiếu
lệ trước khi đi vào phân tích tác phẩm. Thậm chí, có người còn quan niệm rằng:
không cần đọc biểu cảm thì học sinh vẫn có thể khám phá hết giá trị của tác phẩm
như thường, vậy thì cần gì phải cứ có hoạt động đọc biểu cảm tác phẩm cho mất thời
gian? Có người lại quan niệm: chỉ những ai đọc hay mới nên sử dụng biện pháp đọc
biểu cảm; nếu không đọc hay thì cứ bỏ qua khâu này, vừa đỡ mất thời gian, vừa đỡ
tốn sức.
Thực ra, việc đọc biểu cảm trong giờ Ngữ văn được các bậc tiểu học khá chú
trọng. Nhưng đến bậc trung học cơ sở, đọc biểu cảm ít được quan tâm hơn. Một phần
là bởi các tác phẩm văn học đưa vào chương trình hầu hết đều dài và khó; tâm lí ngại
tốn thời gian, “cháy giáo án” của người dạy, ngại đọc dài của học sinh cũng ảnh
hưởng ít nhiều; phần vỡ nhận thức đối với việc đọc biểu cảm của giáo viên chưa đúng
mức đó dẫn đến những hiện tượng đáng tiếc trên.
3


Bổ sung:
Từ trước đến nay, trong các tài liệu giảng dạy và học tập môn Ngữ văn ở bậc
THCS không có phần hướng dẫn đọc cho giáo viên và học sinh. Trong khi đó, đọc
văn bản là một yêu cầu bắt buộc của tiết dạy học văn bản văn học. Việc khai thác,
giải đáp văn bản trước đây gọi là "giảng văn", "phân tích tác phẩm" thời nay được gọi
là "đọc-hiểu". Điều đó chứng tỏ, tìm hiểu văn bản văn chương phải luôn gắn với hoạt
động "đọc". Tuy nhiên, trong sách giáo khoa và các tài liệu hướng dẫn giảng dạy ở

bậc THCS lâu nay, chưa có một nội dung hướng dẫn mang tính hệ thống về đọc văn
bản. Phần Hướng dẫn học bài ở sách giáo khoa cho học sinh không có hướng dẫn
đọc. Vì vậy, việc đọc văn bản thường phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của người dạy
và cả người học. Hướng dẫn đọc biểu cảm văn bản văn học cho học sinh chủ yếu dựa
vào kinh nghiệm cá nhân, cảm tính của mỗi giáo viên trong giờ lên lớp. Điều này dẫn
đến nhiều điều bất cập trong dạy học văn. Qua quá trình quan sát, rút kinh nghiệm từ
công việc giảng dạy của bản thân và đồng nghiệp, tôi nhận thấy có một số vấn đề sau:
- Dạy đọc biểu cảm trong giờ văn ở nhà trường THCS hiện nay chưa được vận
dụng hợp lí.
- Quan niệm về đọc biểu cảm của nhiều giáo viên chưa đúng.
- Sự bất cập trong phân bố thời lượng cho các tiết dạy. Ở bậc trung học cơ sở,
đọc biểu cảm khó thực hiện trong các giờ dạy. Trong phân phối chương trình, các tác
phẩm văn học đưa vào đọc hiểu hầu hết đều dài và khó, thời gian dành cho mỗi tác
phẩm cũng không nhiều.
Trong quá trình giảng dạy ở các lớp 7/3,7/4 đầu năm học 2018-2019 , bản thân
tôi nhận thấy các em hầu hết là những học sinh có khả năng tiếp thu tốt, nhanh nhạy
trong học tập; có những học sinh yêu thích bộ môn văn học, say mê khám phá tác
phẩm; mong đến giờ học văn để được đọc bài, được “sống” với tác phẩm, được thể
hiện những sáng tạo của mình về tác phẩm. Đây cũng chính là những động lực tích
cực để giúp người giáo viên nhiệt tình trong việc nghiên cứu, tìm tòi các phương
4


pháp dạy học phù hợp, hấp dẫn để thu hút học sinh; và cũng là điều kiện quan trọng
để giáo viên có những thành công trong giờ dạy tác phẩm văn chương- một bộ môn
mà hiệu quả đạt được phụ thuộc phần lớn vào hứng thú, nhiệt tình của người giáo
viên đứng lớp. Tuy nhiên, đối với môn Ngữ văn, một thực tế đáng buồn là nhiều học
sinh hiện nay không mấy mặn mà. Vì nhiều lí do khác nhau, học sinh chưa thực sự
hứng thú với việc học văn, chưa tìm thấy niềm vui và lợi ích của việc đọc tác phẩm,
trong đó có đọc biểu cảm.

2.2 . Các giải pháp
2.2.1 Kinh nghiệm về hình thức tổ chức đọc biểu cảm
a. Đọc biểu cảm là khâu quan trọng trong tổ chức hoạt động dạy học tác
phẩm văn chương.
Đọc biểu cảm trong giờ dạy học tác phẩm văn chương là thao tác không thể
thiếu trong hoạt động dạy và học. Đọc biểu cảm là một phương tiện quan trọng có
quan hệ chặt chẽ với các phương pháp và thủ thuật sư phạm khác. Giáo sư Trần Đình
Sử từng nhấn mạnh: "Môn văn trong nhà trường là môn đọc văn. Dạy văn là dạy cho
học sinh năng lực đọc, kĩ năng đọc để học sinh có thể đọc-hiểu bất cứ văn bản nào
cùng loại". Dạy đọc văn, theo tác giả là "dạy cho học sinh một hoạt động phải làm
việc với từng con chữ, với câu văn, với dấu phẩy, dấu chấm của văn bản để hiểu
đúng, hiểu sâu văn bản đó". Trong một giờ dạy học tác phẩm văn chương; đọc biểu
cảm không chỉ là nhiệm vụ của trò mà còn là nhiệm vụ của thầy. Hoạt động đọc biểu
cảm của giáo viên được tiến hành trong suốt giờ dạy văn và thời lượng đọc trong một
giờ học tuỳ theo từng trường hợp cụ thể của mỗi tác phẩm được học.
- Đọc biểu cảm hoàn chỉnh: Đọc trích đoạn hoặc cả tác phẩm tuỳ theo dung
lượng, độ dài của văn bản, được thực hiện trước khi đi vào phân tích. Đây là lần đọc
quan trọng nhất trong giờ giảng văn. Chính là lúc tác phẩm được vang lên đầu tiên
trong không gian tiếp nhận; cũng là khâu đầu tiên giáo viên gián tiếp truyền đạt
những hiểu biết, xúc cảm, ấn tượng của mình đối với tác phẩm đến với học sinh. Ấn
5


tượng của học sinh khi được nghe thầy giáo của mình đọc tác phẩm bao giờ cũng có
một vị trí đặc biệt. Người thầy dạy văn khéo léo sẽ biết tạo xúc cảm cho học sinh
ngay từ hoạt động đọc biểu cảm này.
- Đọc biểu cảm phân tích: Đọc biểu cảm từng câu văn, câu thơ, đoạn thơ trong
quá trình phân tích tác phẩm. Đây là hoạt động kết hợp các thao tác trong phương
pháp dạy văn của người giáo viên. Quá trình phân tích không chỉ đơn thuần là để giải
nghĩa từ ngữ, bình giá hình ảnh, chi tiết ; mà để tạo hiệu quả cho các hoạt động trên,

giáo viên còn phải biết lồng vào trong những lúc giảng giải; những đoạn văn bản
được đọc biểu cảm đúng lúc. Đọc biểu cảm tác phẩm như vậy sẽ giúp khắc sâu những
hiểu biết của học sinh trong quá trình nghe giảng; đồng thời, tạo cho bài giảng sự
xuyên suốt, mạch lạc và sự hấp dẫn. Bài văn cần “vang lên” trong suốt giờ học như
là tiếng nói báo hiệu sự có mặt thường xuyên của nhà văn trong cuộc giao tiếp với
bạn đọc, duy trì xúc cảm được khắc sâu từ ban đầu. Đọc biểu cảm tác phẩm kết hợp
với bình tác phẩm cũng giống như đệm đàn cho ca hát. Giọng đọc kết hợp với lời
bình như tiếng hát với tiếng đàn đệm, khi lùi, khi tiến trước lời bình, khi độc tôn, khi
câm lặng... sẽ làm tăng thêm hiệu quả cho thuyết giảng.
Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh cách đọc biểu cảm đối với từng tác
phẩm cụ thể. Trong giờ giảng văn, học sinh có thể đọc biểu cảm ngay sau khi được
nghe giáo viên đọc mẫu và hướng dẫn cách đọc. Đồng thời, ngay sau khi đọc, học
sinh còn được thầy cô và các bạn khác nhận xét, đánh giá, sửa chữa cách đọc của
mình đối với từng đoạn, từng phần của tác phẩm. Lời nhận xét của người nghe rất
quan trọng, không nên dùng các câu đánh giá chung chung như: “Đọc tốt”, “Đọc
bỡnh thường”, “Đọc không hay” mà cần có những đánh giá tỉ mỉ, kĩ lưỡng về giọng
đọc, ngữ điệu, cảm xúc, những ưu điểm, khuyết điểm trong trình bày... Hoạt động
này cũng giúp người phát biểu nâng cao khả năng diễn đạt, đánh giá một vấn đề. Đọc
biểu cảm trực tiếp trong giờ học giúp cho học sinh tâm thế chủ động trong tiếp nhận
tác phẩm văn chương. Qua việc đọc biểu cảm của học sinh, giáo viên có thể thấy
6


được mức độ cảm thụ ban đầu của học sinh đối với tác phẩm để từ đó có sự lựa
chọn phương pháp truyền thụ kiến thức phù hợp với đối tượng tiếp nhận.
- Đọc biểu cảm củng cố: Trong giờ học, giáo viên còn có thể hướng dẫn học
sinh đọc biểu cảm trong thời gian củng cố bài học; tức là sau khi đã phân tích tác
phẩm. Đây là lần đọc cuối cùng trong giờ văn. Ở lần đọc này, học sinh cảm nhận tác
phẩm với một tâm thế hoàn toàn khác trước. Đó là lúc tác phẩm cần được vang lên để
học sinh tiếp nhận một cách trọn vẹn và hoàn chỉnh nhất. Đọc biểu cảm củng cố

thường được vận dụng linh hoạt trong giờ dạy - học văn. Khi bài học kết thúc, giáo
viên nên dành thời gian cho học sinh đọc biểu cảm tác phẩm. Đọc lại toàn bộ tác
phẩm nếu là tác phẩm văn học ngắn; đọc một phần tiêu biểu hoặc cho học sinh chọn
và đọc đoạn văn bản mà các em tự nhận xét là hay nhất, có ấn tượng sâu sắc nhất nếu
là tác phẩm dài.
Bổ sung:
- Hoạt động đọc của giáo viên không chỉ là phương tiện dạy học mà cũng là
phương tiện tích cực hóa sự sáng tạo của học sinh. Sự kết hợp hoạt động đọc của
cả thầy và trò sẽ thúc đẩy quá trình tiếp nhận tri thức văn bản văn học. Chỉ có giáo
viên đọc mà không có hoạt động đọc biểu cảm của học sinh hoặc chỉ có học sinh đọc,
cùng giáo viên thì im lặng đều ảnh hưởng không tốt đến vai trò và tác dụng của đọc
biểu cảm. Việc đọc biểu cảm của giáo viên đóng vai trò như một đánh giá sơ bộ về
tác phẩm, là định hướng dẫn dắt học sinh tiếp cận tác phẩm văn học. Học sinh với
quá trình chuẩn bị cho hoạt động đọc biểu cảm sẽ tiếp cận tác phẩm có chiều sâu hơn.
Như vậy, kết hợp hoạt động thầy-trò tạo nên không khí sáng tạo trong lớp, kích thích
sự đồng cảm thụ và sáng tạo của giáo viên và học sinh trong thưởng thức nghệ thuật.
b. Đọc biểu cảm là hoạt động bổ trợ tích cực ngoài giờ học tác phẩm văn
chương.
- Đọc chuẩn bị: học sinh cần đọc biểu cảm trước giờ học văn. Đây là một hoạt
động tự giác để học sinh tự mình tập dượt đọc biểu cảm tác phẩm trước khi thể hiện
7


trước tập thể lớp; cũng là hoạt động giúp học sinh tự tạo lập cho mình phẩm chất
người đọc. Hoạt động này đòi hỏi giáo viên phải có sự định hướng, giúp đỡ học sinh
từ trước. Thường thì đọc chuẩn bị nên diễn ra kể từ lúc học sinh có được văn bản ở
sách giáo khoa; nó cần được diễn ra nhiều lần, trước lúc học sinh soạn bài, trong thời
gian rảnh rỗi ở nhà... Học sinh cần đọc như là một nhu cầu giải trí tinh thần
- Đọc biểu diễn: Đây là hình thức tổ chức đọc biểu cảm trong các hoạt động
ngoại khoá. Hoạt động này đòi hỏi việc tổ chức phải công phu và thực hiện ngoài giờ

học, áp dụng cho hình thức sinh hoạt của các câu lạc bộ yêu thích văn chương của
học sinh mà giáo viên đóng vai trò người tổ chức, hướng dẫn.
2.2.2 Kinh nghiệm về hướng dẫn kĩ năng đọc biểu cảm cho học sinh
a. Về kỹ thuật đọc:
- Cách ngắt hơi khi đọc: Khi đọc, ngắt hơi tự do, tuỳ tiện sẽ tạo sẽ tạo ra sự
vô nghĩa và buồn cười đối với tác phẩm. Cần biết đọc liền mạch, biết dừng lại, tranh
thủ lấy hơi đúng mức; ngắt nghỉ đúng nhịp. Cần phân chia văn bản thành từng đề
mục, đoạn, dòng, mệnh đề... theo cách ngắt hơi. Với câu văn, phải biết chia ra thành
các phần để ngắt hơi theo nội dung, làm chủ câu văn. Từ đó tiến tới biết dùng ngắt
hơi như một công cụ biểu cảm để đạt hiệu quả mong muốn. Kỹ năng này còn giúp
người đọc trong quá trình giao tiếp lời nói hằng ngày: biết nói năng khúc chiết, rành
mạch, lôgic. Có thể chia ngắt hơi khi đọc thành các giai đoạn để tập luyện:
Ngắt hơi theo lôgic văn bản:
+ Cách sử dụng dấu câu: dấu phẩy: ngắt hơi ngắn; dấu chấm hết câu: ngắt hơi
vừa, dấu chấm hết đoạn: ngắt hơi dài...
+ Cách trình bày bố cục: Sau mỗi phần văn bản phải có cách ngắt hơi phù hợp
để phân biệt các thành phần của văn bản.Ví dụ: ngắt hơi ngắn để phân biệt đoạn này
với đoạn kia, ngắt hơi dài để phân biệt phần mở bài với thân bài, kết bài trong văn
bản.....
8


-Căn cứ theo cấu trúc ngữ pháp của câu văn: có thể dùng cách ngắt hơi để phân
biệt thành phần chủ ngữ với thành phần vị ngữ của câu, dùng cách ngắt hơi để phân
biệt nòng cốt câu với các thành phần ngoài nòng cốt...
Ngắt hơi theo cảm xúc, tâm trạng trong tác phẩm: Cách ngắt hơi này phụ
thuộc vào cách cảm thụ của người đọc về tác phẩm và dụng ý nghệ thuật của người
đọc khi thể hiện tác phẩm. Một số trường hợp có thể vận dụng cách ngắt hơi này như:
-Khi thể hiện lời nói lời nói ngắt quãng bộc lộ tâm trạng e ngại, ngập ngừng,
tủi hổ...

-Khi cần gây ấn tượng mạnh, gợi sự chú ý:
-Khi cần thể hiện sự ngân vang của ngôn ngữ để tạo dư âm vang vọng trong
lòng người nghe.
* Lưu ý: Những dấu (...) biểu thị cho chỗ ngắt hơi khi đọc.
- Cách thể hiện giọng đọc:
Giọng đọc là yếu tố quan trọng trong đọc biểu cảm. Giọng đọc biểu cảm phải
uyển chuyển, vang ngân và rõ ràng thì mới có thể đem đến cho người nghe những vẻ
đẹp khác nhau của tác phẩm.
Giọng đọc thường do năng khiếu của mỗi người. Tuy nhiên, nếu biết cách tập
luyện thì dù bản thân không có sẵn năng khiếu, vẫn có thể đọc tốt, đọc hấp dẫn tác
phẩm. Khi đọc biểu cảm, cần giữ cho giọng đọc của mình không quá cao, dễ gây chói
tai; cũng không nên đọc quá thấp - sẽ khó nghe. Độ trầm bổng trong khi đọc cũng
nên vừa phải; không nên quá chú trọng việc lên bổng xuống trầm mà làm mất đi tính
tự nhiên khi đọc.
Trong đọc, yếu tố quan trọng nhất trong giọng đọc là sự truyền cảm. Vì thế,
cần cố gắng thể hiện truyền cảm khi đọc. Có nhiều thầy cô giáo dạy văn có giọng đọc
không trong trẻo; thậm chí còn khàn khàn nhưng đọc văn lại cực kỳ hấp dẫn cuốn hút
là bởi các thầy cô đã truyền vào giọng đọc những xúc cảm chân thành.
9


- Cách biểu lộ ngữ điệu: Ngữ điệu là sự kết hợp các phương tiện âm thanh lời nói có
liên quan đến sự biến đổi của giọng về độ mạnh, độ cao, độ nhanh và sắc thái tình
cảm của giọng. Việc vận dụng ngữ điệu phải phù hợp với nội dung tác phẩm. Ngữ
điệu thường biến đổi linh hoạt trong quá trình đọc tác phẩm. Sau đây là một số trường
hợp cần chú ý về ngữ điệu khi đọc:
- Ở những từ ngữ cuối câu văn, đoạn văn, bài văn miêu tả hoặc văn tự sự cần
thể hiện ngữ điệu chậm dần, thấp dần để báo hiệu sự kết thúc.
-Ở cuối câu hỏi, câu cảm, ngữ điệu phải ngân cao để gây sự chú ý và tác động
cảm xúc.

- Ở những từ ngữ, đoạn văn thể hiện các trạng thái tình cảm như ngạc nhiên,
vui sướng...cần đọc kéo dài và nâng cao ngữ điệu.
- Ở những từ ngữ, đoạn văn biểu lộ sự tiếc nuối, sự mỉa mai, than thở... thường
sử dụng ngữ điệu kéo dài và hạ thấp.
Tuy nhiên, cũng cần hiểu rằng, không phải lúc nào cũng tuân thủ những kĩ
thuật về cách ngắt hơi, biểu hiện ngữ điệu, giọng điệu theo hỡnh thức ngôn ngữ văn
bản mà phải chú ý đến nội dung biểu đạt trong đó.
b. Kinh ngiệm về xử lý tác phẩm khi đọc biểu cảm:
Để có thể đọc biểu cảm tốt, cần trải qua bốn bước cơ bản:
- Bước1: Đọc lướt để tạo ấn tượng chung về những vấn đề xã hội, thẩm mỹ của
cuộc sống được thể hiện trong tác phẩm (bức tranh khách quan cuộc sống, thái độ của
tác giả...)
-Bước2: Đọc tập trung vào các chi tiết đặc sắc của tác phẩm để làm nổi bật
những điểm sáng thẩm mỹ của tác phẩm.
-Bước3: Đọc nhấn mạnh âm hưởng chủ đạo và giọng điệu của nhà văn, nhằm
bộc lộ quan niệm thẩm mỹ và phong cách nghệ thuật của tác giả.
10


-Bước 4: Đọc diễn cảm, tô đậm giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác
phẩm.
c. Các giai đoạn của quá trình chuẩn bị đọc biểu cảm:
-Giai đoạn 1: Làm quen với tác phẩm.
+ Xác định thể loại tác phẩm.
+ Xác định cách ngắt nhịp của tác phẩm.
+ Xác định giọng điệu, tiết tấu của tác phẩm.
+ Tìm hiểu sơ bộ giá trị nội dung, tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
+ Tìm những chỗ đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm.
- Giai đoạn 2: Xác định mục đích của việc đọc tác phẩm: để phân tích, để tạo
ấn tượng, để giới thiệu, để củng cố bài học...

- Giai đoạn 3: Phân tích thể hiện: Tìm những sự kiện, tình tiết, từ ngữ phục vụ
cho quá trình đọc tác phẩm. Lựa chọn trước những từ ngữ, đoạn văn cần thể hiện cảm
xúc khi đọc.
- Giai đoạn 4: Lựa chọn giọng đọc: Quyết định giọng đọc chủ đạo đối với tác
phẩm: trầm hùng; tha thiết; vui tươi; nhí nhảnh; trang nghiêm...
-Giai đoạn 5: Tập luyện thể hiện: thử đọc biểu cảm tác phẩm một mình. Cần có
thêm sự hướng đẫn trước của giáo viên để học sinh tự định hướng và đây cũng là một
khâu trong việc chuẩn bị bài học của học sinh.
2.2.3. Kinh nghiệm về đọc biểu cảm theo đặc trưng thể loại
a. Đối với thơ: Mỗi nhà thơ có một ngôn ngữ thơ riêng, có cảm xúc, tâm
trạng riêng; chính vì vậy, mỗi bài thơ cũng có một cách đọc riêng.
Điểm chung trong đọc thơ trữ tình đó là phải chú ý tới nhịp điệu và nhạc điệu
của bài thơ.
11


- Để thể hiện đúng nhịp điệu bài thơ, cần chú ý tới đặc trưng của thể loại thơ.
Ví dụ: + Thơ lục bát thường ngắt nhịp đôi, nhịp chẵn: (2/2/2; 2/2/2/2.) hoặc (2/4; 4/4)
Cũng có trường hợp lục bát ngắt nhịp lẻ khi diễn tả những tỡnh huống, cảm
xúc khác thường. Trong trường hợp sau là nỗi nghẹn ngào trong giờ phút chia tay.
Áo chàm / đưa / buổi phân li
Cầm tay nhau / biết núi gỡ hụm nay (“Việt Bắc”-Tố Hữu)
+ Thơ thất ngôn ngắt nhịp phối hợp 4/3:
b. Đối với tác phẩm tự sự:
Trong giờ học tác phẩm tự sự, hoạt động đọc biểu cảm thường được tiến hành
sau khi giáo viên đã yêu cầu học sinh tóm tắt tác phẩm. Đọc biểu cảm tác phẩm tự sự
cần lưu ý giọng điệu của tác phẩm: giọng đối thoại, giọng trần thuật, giọng kể, giọng
miêu tả...Người đọc tác phẩm phải đứng ở vai trò là người kể chuyện ở trong tác
phẩm. Cần chiếm lĩnh được vị trí của người kể chuyện và thể hiện được chức năng,
cảm xúc, tâm trạng, thái độ của người kể chuyện. Trong tác phẩm tự sự, người kể

chuyện thay đổi vị trí rất linh hoạt; nhiệm vụ của người đọc biểu cảm tác phẩm là
phải nắm bắt được sự thay đổi đó để lựa chọn giọng đọc phù hợp với từng diễn biến
nội dung của câu chuyện.
Ví dụ:
+ Với tác phẩm “Sống chết măc bay” của Phạm Duy Tốn , người kể chuyện ở
ngôi thứ ba- tác giả: giọng đọc phải vừa khách quan, vừa tạo ấn tượng về bối cảnh
không gian cho tác phẩm. Đoạn từ lúc nhân vật người dân xuất hiện cho đến cảnh tả
bọn quan lại trong đình.
c. Đối với tác phẩm kịch:

12


Đọc biểu cảm tác phẩm kịch, cần phải phân vai nhân vật và đọc theo lời thoại
của nhân vật. Ngôn ngữ người thể hiện phải cố gắng thoát ly ngôn ngữ đọc, biến đọc
thành ngôn ngữ đối thoại.
Ví dụ: Đọc đoạn trích “Bắc Sơn” trong vở kịch của Nguyễn Huy Tưởng. Trong
cuộc đối thoại giữa các nhân vật có sự thay đổi luân phiên của tâm trạng và cảm xúc,
kéo theo đó là sự thay đổi của hành động.
Cần lưu ý, trong văn bản kịch còn có những câu văn miêu tả hành động, bối
cảnh sự việc xen vào giữa các lời đối thoại của nhân vật. Cần phân biệt những câu
văn này bằng cách phân một vai đọc dẫn chuyện với giọng đọc khách quan, rõ ràng,
trung tính, không bộc lộ cảm xúc.
Để tổ chức đọc phân vai với tác phẩm kịch đạt hiệu quả tốt, giáo viên cần định
hướng cho học sinh thông qua những câu hỏi:
- Em lựa chọn nhân vật nào? Vì sao?
- Em hình dung ra sao về ngoại hình, cách cư xử, nói năng của nhân vật?
- Hoàn cảnh nhân vật xuất hiện như thế nào?
- Mối quan hệ của nhân vật với các nhân vật khác như thế nào?
- Nhân vật cố gắng đạt tới điều gì?

d. Đối với tác phẩm ký:
Chương trình văn học trung học cơ sở không học nhiều các tác phẩm ký. Tuy
nhiên, đây là một thể loại rất khó đọc biểu cảm. Ký là thể loại văn xuôi vừa mang
tính chất miêu tả, ghi chép; vừa mang tính trữ tình, bộc lộ cảm xúc, tình cảm. Đọc ký
phải dựa theo mạch cảm xúc tâm trạng của nhà văn.
-Khi vận dụng biện pháp đọc biểu cảm vào dạy học, cần tránh những ngộ nhận
không đáng có như:

13


+ Tuyệt đối hoá biện pháp đọc biểu cảm trong giảng dạy tác phẩm văn chương.
Cho rằng việc học văn chỉ cần đọc biểu cảm tác phẩm là đủ. Ở đây, cần hiểu đọc biểu
cảm như một hoạt động không thể thiếu trong một giờ dạy - học văn, có khả năng
phối hợp, hỗ trợ hiệu quả với các phương pháp dạy học khác.
+ Cực đoan đối với các phương pháp dạy văn khác.
+ Phá vỡ logic có tính quy luật của cảm thụ văn học, biến giờ giảng văn trở
thành giờ biểu diễn đọc biểu cảm.
+ Nhầm lẫn đọc biểu cảm như một phương tiện cảm thụ, tiếp nhận trở thành
mục đích chính của giờ dạy tác phẩm văn chương.
-Yêu cầu đối với người đọc biểu cảm:
+ Cần có khả năng bao quát và hiểu tác phẩm; nắm bắt được những vấn đề cốt
lõi trong giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
+ Có khả năng tưởng tượng để đặt mình vào vị trí nhân vật, thể hiện được
chính tâm trạng, cảm xúc, thái độ.. của nhân vật và tác giả.
+ Có khả năng diễn đạt.
Yêu cầu cụ thể:
-Đối với giáo viên giảng dạy:
+ Nhiệt tình, tâm huyết với bài giảng và phương pháp đã chọn. Kiên trì thực
hiện biện pháp đọc biểu cảm trong dạy tác phẩm văn chương; nhiệt tình hướng dẫn

học sinh.
+ Vận dụng linh hoạt, phối hợp nhịp nhàng việc đọc biểu cảm với các phương
pháp khác trong giờ dạy.
+ Có kế hoạch chuẩn bị cụ thể, rõ ràng cho từng bài giảng khi thực hiện biện
pháp đọc biểu cảm.
-Đối với học sinh:
14


+Phải có sự chuẩn bị đọc tác phẩm trước khi đến lớp.
+Yêu thích bộ môn văn học; xác định mục đích học tập; có ý thức học tập đúng
đắn.
+Kiên trì luyện tập khả năng đọc biểu cảm tác phẩm.
- Đưa vấn đề dạy đọc biểu cảm trong giờ dạy tác phẩm văn chương vào thảo
luận, góp ý trong sinh hoạt của tổ chuyên môn để tìm ra cách vận dụng hữu hiệu đối
với biện pháp này.
-Tổ chức những hoạt động đọc biểu cảm ngoài giờ học như: sinh hoạt câu lạc
bộ, giao lưu văn học, ngoại khoá, thi đọc diễn cảm tác phẩm văn chương...
- Cung cấp thêm những phương tiện hỗ trợ như băng hình ghi các tác phẩm
được phổ nhạc, những bài thơ do các nghệ sĩ đọc, ngâm...
* Kết quả
- Sau một thời gian vận dụng đọc biểu cảm trong giờ học tác phẩm văn
chương, ý thức học văn của học sinh đã được tăng lên rõ rệt. Kết quả thăm dò ý kiến
học sinh cuối học nửa kì I cho thấy các em phần lớn đã nhận thức một cách tích cực
đối với việc đọc tác phẩm. Từ đó, việc tiếp cận đối với tác phẩm cũng chủ động hơn,
xem hoạt động đọc biểu cảm là hoạt động không thể thiếu trong tiếp nhận tác phẩm
văn chương. Đồng thời, tâm thế tiếp nhận tác phẩm của học sinh ngày càng chủ
động hơn. Học sinh thấy được vai trò tích cực của những phương pháp dạy học phát
huy sự sáng tạo.
Qua việc đánh giá chất lượng học sinh nửa đầu kì I tại lớp 7/3, tôi đó tập hợp

được kết quả đánh giá việc thực hiện đọc biểu cảm như sau:
- 18% học sinh đạt loại giỏi.
- 62% học sinh đạt loại khá.
- 20% đạt trung bình.
15


Như vậy, so với kết quả khảo sát đầu năm : (12% đạt khá; 49% đạt trung bình;
39% xếp loại yếu), chất lượng đọc biểu cảm môn văn của học sinh có sự biến chuyển
rõ rệt.

16


3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của việc đọc biểu cảm
Tác phẩm văn chương là một công trình nghệ thuật ngôn từ; mang tiết tấu,
nhịp điệu, vần... đòi hỏi phải được thể hiện trong giọng đọc. Chất nhạc của ngôn từ
vang lên, tác động vào tình cảm, cảm xúc thẩm mỹ của người đọc, người nghe. Việc
đọc biểu cảm giúp chú ý không chỉ đến giá trị âm điệu tổng thể của tác phẩm mà còn
gợi sự chú ý đến mỗi từ ngữ riêng biệt; giúp tìm thấy trong chúng những sắc thái ý
nghĩa và mối liên hệ; cho người đọc khả năng phân tích những giá trị nghệ thuật độc
đáo của tác phẩm. Tiến trình đọc biểu cảm còn nảy sinh ở người đọc nhu cầu tìm hiểu
thấu đáo giá trị tác phẩm. Phải ngẫm nghĩ kỹ điều mình sắp đọc và đọc sao cho đúng
với tinh thần của tác phẩm. Đọc biểu cảm chính là sự phê bình tinh tế nhất đối với tác
phẩm, là phương tiện tốt nhất để người đọc kiểm tra những ấn tượng ban đầu của
mình đối với tác phẩm.
Có thể nói, bằng biện pháp đọc biểu cảm, giáo viên có thể tạo nên những hiệu
quả lớn cho giờ học văn. Đọc biểu cảm có thể tạo cho học sinh những bất ngờ, hứng
thú, giúp các em có cảm nhận mới mẻ về văn bản, kích thích khả năng liên tưởng, trí

tưởng tượng để thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của văn bản văn học. Rèn kĩ năng
đọc biểu cảm là biện pháp hữu hiệu trong rèn luyện cảm thụ văn học cho học sinh.
Tác phẩm văn học có thể được tiếp nhận, tìm hiểu bằng nhiều con đường khác
nhau; và dù bằng con đường nào thì công việc đầu tiên vẫn là phải làm quen với tác
phẩm. Đọc biểu cảm là phương tiện hữu hiệu để đạt được yêu cầu đó. Đọc biểu cảm
là nghệ thuật biến ngôn ngữ viết câm lặng thành ngôn ngữ sống động có hình ảnh, có
âm thanh, có cảm xúc; tác động trực tiếp vào cảm xúc tình cảm của người tiếp nhận.
Việc vận dụng đọc diễn cảm vào trong giờ dạy văn là một trong những yêu cầu của
đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Đọc biểu cảm cũng có thể xem là một trong
những phương pháp tích cực để giáo dục nhân cách, thẩm mỹ cho học sinh. Thông
qua hướng dẫn học sinh đọc biểu cảm, giáo viên có thể truyền cho học sinh niềm yêu
17


thích văn chương nghệ thuật và tâm thế chủ động tiếp nhận tác phẩm văn chương của
một người đọc sáng tạo.
3.2. Kiến nghị, đề xuất
- Với nôi dung này, tôi hi vọng có sự phối hợp giữa giáo viên và học sinh trong
các tiết học, sự quan tâm của giáo viên trong cách uốn nắn, điều chỉnh cho hợp lí
cách đọc của các em.
- Sách tham khảo về các nôi dung hướng dẫn cách đọc còn chưa có, giáo viên
và học sinh chưa có điều kiện tiếp cận cách đọc biểu cảm một cách bài bản, có quy
trình. Theo tôi đề xuất nhà trường tạo điều kiện tìm mua thêm các dạng sách này để
bổ sung cho thư viện, tạo điều kiện cho giáo viện và học sinh có thể đọc để tìm hiểu
thêm.
- Vấn đề áp dụng cách đọc vào thực tế cũng cần đáng quan tâm. Tôi xin đề
xuất việc tạo các sân chơi, các cuộc thi đọc hay, kể chuyện giỏi cho các em học sinh.
Từ niềm đam mê, hứng thú kết hợp với phương pháp đọc trên, các em sẽ có cách điều
chỉnh hướng đọc của mình sao cho có hiệu quả tốt nhất.
Trên đây là những ý kiến đề xuất của cá nhân tôi để phương pháp đọc biểu cảm

được áp dụng có hiệu quả và phổ biến rộng rãi hơn. Qua đề tài này, hi vọng các giáo
viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn và các em học sinh sẽ có nhiều cảm hứng hơn với
tiết dạy và giờ học của mình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn !!!

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Kim Hồi, Nghĩ từ công việc dạy văn. NXB Giáo dục 1997
2. Hoàng Ngọc Hiến, Văn học...gần và xa. NXB Giáo dục, 2006
3. Nguyễn Trọng Hoàn, Rèn luyện tư duy sáng tạo trong dạy học tác phẩm văn
chương. NXB Giáo dục, 2003.
4. Vũ Nho, Nghệ thuật đọc diễn cảm. NXB Thanh niên,1999.

19


XẾP LOẠI CỦA HĐKH NHÀ TRƯỜNG
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
XẾP LOẠI CỦA HĐKH PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUẢNG NINH
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................

.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
........................................................................................................................................

20



×