Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN phương pháp gây hứng thú cho học sinh trong giờ học âm nhạc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.43 KB, 17 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Là giáo viên môn Âm nhạc chúng ta đều biết rằng “Âm nhạc là loại hình
nghệ thuật phản ánh hiện thực khách quan bằng những hình tượng của âm thanh,
nhịp điệu”. Với học sinh THCS môn Âm nhạc là một trong những phương tiện
hiệu quả nhất để thực hiện nhiệm vụ giáo dục đạo đức, thẩm mĩ cho học sinh
nhằm góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh theo mục tiêu đào tạo, tạo cơ sở
hình thành nhân cách con người mới toàn diện. Âm nhạc trong nhà trường THCS
nhằm mục đích giáo dục văn hoá âm nhạc cho học sinh, tạo điều kiện cho khả
năng cảm thụ, hiểu và thể hiện nghệ thuật Âm nhạc ở các em ngày càng phát triển.
Đồng thời, khơi dậy ở các em những khả năng sáng tạo trong hoạt động âm nhạc,
củng cố thêm về tình cảm đạo đức, về niềm tin thị hiếu nghệ thuật và nhu cầu Âm
nhạc, bồi dưỡng khả năng nhận thức, phát triển tư duy, óc sáng tạo góp phần cùng
các môn học khác, phát triển năng lực trí tuệ cho học sinh bằng những phương
tiện của nghệ thuật âm thanh, bồi dưỡng những năng khiếu nghệ thuật, đẩy mạnh
phong trào văn nghệ quần chúng, làm cho không gian dạy và học của nhà trường
thêm vui tươi lành mạnh.
Học sinh THCS đang trong thời kì phát triển nhanh về thể chất, tâm sinh lí,
giai đoạn này các em có nhiều ước mơ, suy nghĩ về cuộc sống. Trong quá trình
học Âm nhạc, đây là giai đoạn rất thích hợp để phát huy tính sáng tạo của học
sinh.
Dạy Âm nhạc để phát huy tính sáng tạo có nhiều mức độ, từ dễ đến khó, từ
sáng tạo ở mức độ thấp đến cao. Môn Âm nhạc ở THCS gồm 4 nội dung là: Học
hát, tập đọc nhạc, nhạc lí và âm nhạc thường thức. Vậy, phải dạy như thế nào để
thu hút được sự đam mê của học sinh, thu hút học sinh vào tiết học Âm nhạc, phát
huy được tính sáng tạo về nghệ thuật của học sinh?
Xuất phát từ những vấn đề đó, bản thân là giáo viên giảng dạy môn Âm
nhạc trong trường THCS“A”, tôi chọn và phát triển đề tài “Phương pháp gây
hứng thú cho học sinh trong giờ học Âm nhạc”. Mặc dù tên đề tài và nội dung
nghiên cứu này đã được nhiều giáo viên dày công xây dựng, nhưng với bản thân,
thì đây là một đề tài có sự kế thừa, tham khảo, phát triển theo ý tưởng của mình để


tạo thành một tài liệu áp dụng tốt cho dạy và học môn âm nhạc trong trường
THCS.

1


1.2. Điểm mới của đề tài
Đề tài được thực hiện bằng các phương pháp nghiên cứu lí thuyết, quan sát,
đàm thoại, thực nghiệm, nghiên cứu sản phẩm hoạt động, phân tích và tổng kết
kinh nghiệm. Phạm vi áp dụng ở học sinh lớp 6,7,8,9 trường THCS “A”.
Đề tài tập trung xây dựng về mục tiêu, cách hướng dẫn cụ thể cho học sinh
trong từng tiết học Âm nhạc với từng kiểu bài khác nhau như dạy kiến thức nhạc
lý, dạy hát, dạy tập đọc nhạc và dạy Âm nhạc thường thức phải dạy như thế nào,
sử dụng các đồ dùng dạy học gì và cách tổ chức lớp học đối với mỗi kiểu bài
nhằm tạo được hứng thú cho học sinh trong hoạt động dạy học, do đó cần có
những giải pháp tích cực, phù hợp làm cho các em yêu thích nghệ thuật, biết cảm
thụ và nhận biết âm nhạc một cách sâu sắc, hình thành ở học simh một tâm hồn
trong sáng, một thị hiếu âm nhạc lành mạnh, cách tư duy sắc sảo, lòng khát khao
sáng tạo, giàu tình cảm nhanh nhẹn hoạt bát và sống vui tươi. Tạo cho mỗi tiết
học, học sinh học theo phương châm học vui- vui học. Hứng thú trong học tập
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, nuôi dưỡng ở các em lòng ham muốn chính
đáng trong việc không ngừng vươn tới những đỉnh cao của việc nắm kiến thức,
luôn tìm tòi học tập cái mới tích cực sáng tạo cái đã học vào hoạt động thực tiễn.
Thực hiện tốt theo đề tài, học sinh sẽ mạnh dạn, tự tin hơn, không còn e ngại khi
trình bày bài hát trước lớp và cũng tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên đổi mới,
sáng tạo trong dạy học, thực hiện tốt mục tiêu đào tạo.
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng nội dung cần nghiên cứu:
2.1.1. Thuận lợi:
- Âm nhạc là một môn học độc lập trong chương trình THCS. Dạy và học nghiêm

túc, có kiểm tra, đánh giá thường xuyên, định kì và cuối năm, kết quả là một trong
những tiêu chuẩn để xét lên lớp hay tốt nghiệp bậc học.
- Nhà trường và BGH quan tâm thường xuyên.
- Có máy tính, máy chiếu (cho nhiều môn học), đàn Organ điện tử để phục vụ dạy
học môn âm nhạc.
- Nhà trường có kết nối mạng Internet thuận lợi cho việc tìm kiếm thông tin phục
vụ giảng dạy.
2


- Giáo viên nắm chắc về chuyên môn, tích cực tìm tòi, nghiên cứu những phương
pháp mới để vận dụng trong quá trình giảng dạy.
Học sinh ngoan, đa số các em rất yêu thích môn Âm nhạc. Thích học hát, thích
đọc nhạc, nghe hát, thích được biểu diễn. Một thuận lợi nữa là thời đại công nghệ
thông tin phát triển các em có thể tham khảo thêm kiến thức âm nhạc trên Iternet
hữu ích cho việc học tập bộ môn nói riêng và các môn học khác nói chung.
2.1.2. Khó khăn:
- Cơ sở vật chất cho việc dạy và học âm nhạc của nhà trường chưa đầy đủ, ngoài
đàn organ thì các loại đàn khác, máy nghe nhạc, chưa có hoặc không sử dụng
được.
- Giáo viên phải tự chuẩn bị đồ dùng dạy học. Trong khi đó yêu cầu của bộ môn lại
cần phải có những trang thiết bị hiện đại thường xuyên (Máy phát hình, máy nghe
nhạc,…) để phục vụ cho việc dạy và học.
Đối với học sinh đa phần các em là con em nông thôn, điều kiện chưa được đầy
đủ, việc học thêm một số môn văn hoá như Văn, Toán, Lý, Hóa… còn khó khăn thì
môn Âm nhạc càng khó hơn. Học sinh ít được quan tâm, vì thế hiểu biết về Âm
nhạc đang còn hạn chế, chưa sâu rộng, không kích thích các em học tập. Đa phần
các em bị chi phối, ảnh hưởng về các môn chính, còn môn Âm nhạc được các em
xem là môn học phụ. Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển có nhiều tác
động chưa tốt đến học sinh đặc biệt trong lĩnh vực Âm nhạc, học sinh thích nghe và

thưởng thức những dòng nhạc không phù hợp với lứa tuổi, trong khi các ca khúc
trong sách giáo khoa chưa thực sự thu hút các em về giai điệu tiết tấu, buộc giáo
viên phải hướng cho các em và từng bước đổi mới cách truyền đạt.
2.1.3.Khảo sát chất lượng thực tế:
Lớp Sô HS Hoàn thành tôt (A+)
Hoàn thành (A)
Chưa hoàn thành
1
8
24
8
16
0
2
8
23
10
13
0
3
8
26
10
16
0
1
7
45
19
26

0
2
7
44
20
24
0
2.2. Những biện pháp - giải pháp đã thực hiện.
2.2.1. Trong dạy kiến thức nhạc lí.
Nêu kiến thức cần nắm.
Làm cho học sinh ghi nhớ tên, đặc điểm, tính chất, tác dụng của kiến thức nhạc lí.
3


Giáo viên thuyết trình, giới thiệu hoặc liên hệ những điều học sinh đã biết để giới
thiệu kiến thức mới.
Ví dụ: Khi học về nhịp, giáo viên có thể yêu cầu học sinh nhắc lại hiểu biết của
các em về nhịp, vừa củng cố lại kiến thức đã học, vừa dẫn dắt sang kiến thức mới.
Ví dụ: Giới thiệu về nhịp lấy đà, giáo viên có thể đưa ra hai bản nhạc có cùng số
chỉ nhịp, một bản không có nhịp lấy đà và bản nhạc kia có lấy đà, để học sinh so
sánh và đưa ra khái niệm.
Minh họa kiến thức trên bản nhạc

Giáo viên yêu cầu học sinh tìm những bài hát, bản nhạc trong sách giáo khoa có
sử dụng nhịp lấy đà để các em thấy kiến thức đó gần gũi với thực tế.
Giáo viên minh họa thực tế khi vào hát với nhịp đàn để các em biết cách vào
một bài hát giữa nhịp lấy đà và nhịp đủ, khi học sinh hiểu thì có thể cho một vài
em có năng lực khá trình bày một số ví dụ cho sinh động thêm.
Ví dụ khi học về thứ tự các dấu thăng, dấu giáng ở hoá biểu. Giáo viên giới
thiệu các dấu thăng và các dấu giáng được sắp xếp theo một trình tự xuất hiện.

Có thể ghi và cho học sinh đọc thuộc tên thứ tự các dấu thăng giáng xuất hiện:
Pha – đô – sol – rê – la – mi – si ( F – C – G – D – A – E – B)
Si – mi – la – rê – Sol – đô – fa ( B – E – A – D – G – C – F)
Minh họa trên dòng nhạc:
Pha – đô – sol – rê – la – mi – si ( F – C – G – D – A – E – B)

&=====§==="
Si – mi – la – rê – Sol – đô – fa ( B – E – A – D – G – C – F)

'&======®="
Yêu cầu học sinh tìm các bài hát, bài Tập đọc nhạc trong sách giáo khoa có sử
dụng hoá biểu, sau đó hướng dẫn các em xác định giọng của các bản nhạc đó.
Sự xuất hiện của dấu thăng trên hóa biểu:
Dấu thăng trên hóa biểu xuất hiện theo Quãng 5 đi lên.
4


Pha thăng

Quãng 5

Quãng 5

La thăng

Đô thăng

Quãng 5

Quãng 5


Mi thăng

Son thăng

Quãng 5

Quãng 5

Rê thăng

Si thăng

- Dấu giáng trên hóa biểu xuất hiện theo Quãng 5 đi xuống.

Quãng
5 thăng giáng, Quãng
Quãng
5
Đối với những
bản nhạc
không có hóa
biểu
căn cứ5vào nốt kết thúc
Si giáng
Mi giáng
La giáng
Rê giáng
bản nhạc, nếu kết là nốt Đô thì bài có giọng Cdur, kết nốt La thì bài có giọng Am.
Quãng 5


Quãng 5

Sonbảngiáng
Đô giáng
Đối với những
nhạc có hóa biểu

Quãng 5

Pha
giáng
, nếu kết
ở nốt
Xon thì bài có

giọng Gdur, nếu kết ở nốt Mi thì bài có giọng Em.
Đối với những bản nhạc có hóa biểu

, nếu kết ở nốt Fa thì bài có

giọng Fdur, nếu kết ở nốt Rê thì bài có giọng Dm.
Cho các em chia nhóm để tìm các khúc bản nhạc có các hóa biểu đầu dòng nhạc
tạo không khí vui vẻ thu hút các em vào công việc.
Lưu ý: chúng ta không dùng biện pháp áp đặt học sinh dễ gây nên cảm giác gò
bó bắt buộc.
Minh họa kiến thức bằng âm thanh
Đây là một hoạt động quan trọng trong việc dạy nhạc lí, giúp học sinh không chỉ
học lí thuyết suông mà được nghe âm thanh để hiểu rõ hơn về khái niệm, vai trò,
tác dụng của kiến thức nhạc lí. Điều rất quan trọng là cần cho học sinh nghe gì để

các em hiểu được bản chất của kiến thức. Giáo viên có thể đàn, hát hoặc dùng
băng đĩa, băng hình để cho học sinh nghe, nhận xét sự khác nhau giữa bản nhạc có
sử dụng và không sử dụng kiến thức nhạc lí đó.
Ví dụ
5


- Dạy về nhịp, có thể thực hiện các bước sau:
+ Học sinh nghe một tiết điệu (giáo viên không dùng phần đệm tay trái) nhịp
như Foxtrot hoặc Country trên đàn phím điện tử, học sinh nghe và cảm nhận về
phách mạnh và phách nhẹ của loại nhịp này. Tốt hơn nếu các em vừa nghe vừa tập
vỗ tay thể hiện phách mạnh, phách nhẹ của loại nhịp này.
+ Trên nền tiết điệu đó, giáo viên đàn giai điệu có dùng phần đệm một bài hát
(ví dụ bài Tập đọc nhạc số 8 - Âm nhạc 8 - Thầy cô cho em mùa xuân) viết ở nhịp
mà học sinh đã học để các em thấy nhịp này được ứng dụng vào thực tế
như thế nào.
- Dạy về cung và nửa cung, có thể thực hiện các bước sau:
+ Học sinh nghe gam Đô trưởng, trong đó có 2 quãng nửa cung và 5 quãng một
cung. Giáo viên có thể minh họa bằng thước để học sinh thấy rõ cung và nửa
cung.

+ Học sinh nghe gam Đô trưởng Cromatic, gồm toàn các quãng nửa cung.

- Dạy về giọng cùng tên, giáo viên có thể giới thiệu và minh họa bằng bài
hát Một mùa xuân nho nhỏ (Trần Hoàn) cho học sinh nghe và cảm nhận về đặc
điểm, ứng dụng của giọng cùng tên. Bài hát có 2 đoạn, đoạn 1 viết ở giọng La thứ,
đoạn 2 chuyển sang giọng cùng tên là giọng La trưởng. Cũng có thể dùng những
bài hát khác để minh họa về việc chuyển sang giọng cùng tên là bài Trở về Su-rien-tô (nhạc Italia), Bóng cây kơ-nia (nhạc Phan Huỳnh Điểu) hoặc Tuổi đời mênh
mông (Trịnh Công Sơn), giáo viên đánh trên đàn nốt nhạc đầu tiên của 2 bài để
học sinh nghe và biết đều bắt đầu bằng âm chủ cùng tên.

- Dạy về hợp âm, có thể thực hiện các bước sau:
+ Học sinh nghe hợp âm Đô trưởng với 3 âm lần lượt vang lên.

+ Học sinh nghe hợp âm Đô trưởng với 3 âm vang lên đồng thời.
6


+ Thực hiện tương tự với một vài hợp âm trưởng, hợp âm thứ, hợp âm bảy.
- Dạy về dịch giọng, có thể làm theo cách sau:
+ Giáo viên giới thiệu bài hát
+ Giáo viên đàn cho học sinh hát ở giọng Mi thứ, tốc độ trung bình.
+ Giáo viên giới thiệu ở giọng Rê thứ.
+ Giáo viên đàn cho học sinh hát ở giọng Mi thứ, tốc độ hơi nhanh.
+ Có thể thực hiện tiếp tục với các giọng Pha thứ, Son thứ, La thứ.
Với cách dạy trên, học sinh vừa được quan sát, vừa được hát đoạn trích Bài ca
hoà bình với giọng cao dần và tốc độ tăng dần sẽ giúp các em hiểu rõ bản chất của
dịch giọng và sẽ rất hào hứng khi tham gia bài học này.
Cuối cùng giáo viên cho một học sinh nam trình bày ở một giọng phù hợp (học
sinh tự chon độ cao), tiếp đó cho một học sinh nữ cũng trình bày tượng tự để các
em thấy rằng sự cần thiết phải dịch giọng trong khi trình bày bài hát nói riêng, tác
phẩm âm nhạc nói chung.
Củng cố
Học sinh thực hiện 1-2 bài tập nhạc lí đơn giản hoặc yêu cầu các em nhắc lại
kiến thức vừa học.
Tùy thời gian dạy học và năng lực của học sinh, giáo viên có thể đưa ra một số
bài tập nhằm củng cố kiến thức. Ví dụ về một số dạng bài:
- Viết một hình tiết tấu gồm 4 nhịp, trong đó sử dụng một nốt trắng, bốn nốt đen
và bốn nốt móc đơn. Ví dụ kết quả học sinh làm được là:

- Viết lên khuông nhạc 4 nhịp, sử dụng với cao độ bất kì, trường độ có một nốt

trắng, bốn nốt đen và bốn nốt móc đơn. Giả sử giáo viên gợi ý học sinh vẫn dùng
tiết tấu trên, kết quả các em làm được có thể là:

- Có bạn viết đoạn nhạc ở nhịp, hãy cho biết những ô nhịp nào bạn đã viết sai về
trường độ?

7


- Ghi khoảng cách cung và nửa cung giữa các nốt cho đúng.

- Xác định những quãng sau là quãng mấy?

Có thể cho các nhóm tự thi với nhau để thay đổi không khí và thu hút các em
vào bài học.
2.2.2. Trong dạy hát
Khuyến khích kĩ năng nghe và đánh giá của học sinh.
Để học sinh không bị thụ động trong cách lựa chọn tiết tấu cho bài hát, GV
khuyến khích kỹ năng nghe và đánh giá của học sinh bằng cách như sau: GV thay
đổi tiết tấu, tempo hay dịch giọng bản nhạc để học sinh nhận biết và thực hành.
GV hỏi: Em có nhận xét gì nếu thay đổi tốc độ cũng như tiết tấu cho bài hát
như chúng ta vừa trình bày?
Học sinh trả lời sau đó giáo viên củng cố nếu hát ở tốc độ chậm cũng như
tiết tấu nhẹ nhàng mềm mại sẽ không phù hợp với sắc thái của bài hát vì bài hát có
tính chất vui tươi, rộn ràng, trong sáng.
GV giải thích: Cơ bản một bài hát có thể sử dụng nhiều tiết tấu và tempo
khác nhau tuy nhiên dựa vào tính chất của bài để lựa chọn tiết tấu và tempo phù
hợp như thế mới truyền tải được sắc thái cũng như ý tưởng của tác giả.
Với cách trình bày như vậy chắc chắn từng ngày học sinh sẽ có những cảm
nhận mới trong mỗi lần hát và nghe hát.

Học sinh phát biểu cảm nhận về bài hát dưới nhiều hình thức khác nhau.
Trong học tập, so với bắt chước thì tìm tòi sáng tạo là hình thức cao nhất thể
hiện tính tích cực học tập của học sinh, hãy bắt đầu khuyến khích các em mạnh
dạn nói lên những cảm nhận của mình về môn học, về bài hát. Học sinh có thể
không ủng hộ ý kiến của GV, của bạn bè, có thể trình bày những ý kiến, tư tưởng
của mình. Đó là cơ sở để có kĩ năng sáng tạo lớn hơn. GV cần tạo điều kiện để
học sinh tự nhận xét, tự đánh giá, tự cảm nhận để có thể điều chỉnh cách học theo
hướng tích cực.
8


*Ví dụ: học hát bài Lí kéo chài

Cách 1:
- Sau khi cho HS nghe hát mẫu và đọc lời ca, GV đặt câu hỏi:
Em hãy nêu cảm nhận của mình về bài hát Lí kéo chài - dân ca Nam Bộ
HS sẽ trả lời qua phần gợi mở của GV.
VD: Nội dung bài hát nói lên điều gì? Giai điệu bài hát như thế nào? Qua bài hát
này bản thân em học tập được gì? Em sẽ phải làm gì để xứng với những điều mà
nội dung bài hát muốn chuyển tải tới…?
Có thể HS trả lời chưa được trôi chảy hoặc ý tứ chưa được sâu sắc, song
qua nhận xét và khắc hoạ của giáo viên thì học sinh từ chỗ hiểu nội dung bài hát
còn mơ hồ sẽ hiểu sâu sắc hơn và đặc biệt là sẽ có trách nhiệm hơn trong việc học
tập cũng như rèn luyện.
Cách 2:
- Học xong bài hát, GV chia lớp thành 2 nhóm. Lần lượt từng nhóm viết lời giới
thiệu cho bài hát. GV nhận xét, chấm điểm.
Hướng dẫn học sinh biểu diễn bài hát.
Thông thường mỗi bài hát giáo viên đều hướng dẫn học sinh hát kết hợp
vận động giúp cho các em tự nhiên khi hát. Tuy nhiên, ở một số bài GV có thể dạy

học sinh một vài động tác tay hoặc múa đơn giản, phù hợp để các em có thêm
những lựa chọn khi biểu diễn bài hát.
9


*Ví dụ 1: Với bài hát Lí kéo chài GV hướng dẫn một vài động tác thể hiện các
hoạt động lao động của người dân miền biển mạnh mẽ, uyển chuyển, sông động…
Như vậy những điều đó sẽ không chỉ giúp cho cách trình bày bài hát thêm sinh
động mà các em còn được tìm hiểu về những điệu múa rất cuốn hút và đặc sắc.
Thông qua những tiết học như vậy học sinh sẽ có những áp dụng sáng tạo
trong những lần hội diễn văn nghệ trong nhà trường, các hoạt động ngoại khoá,
biết cách dàn dựng và sử dụng những động tác múa phụ hợp với thể loại bài hát…
Khi học GV đưa ra yêu cầu học sinh tự chọn nhóm 4 - 5 học sinh và biểu
diễn bài hát có động tác phụ hoạ. GV không nên áp đặt các em vào từng nhóm, để
các em tự chọn sẽ làm học sinh phấn khởi, vui thích khi được làm việc trong nhóm
phù hợp về sở thích, về âm vực, chất giọng…
- Học sinh sẽ tự chọn nhóm có giọng hát thích hợp về âm vực để trình bày bài hát:
- Học sinh tự chọn cách trình bày bài: Các em có thể trình bày bài một hoặc hai
lần, có mở đầu có kết thúc, mỗi câu hát sẽ do em nào đảm nhiệm hay cả nhóm
cùng hát. Bài hát gồm mấy đoạn, tính chất như thế nào? (GV có thể gợi ý trước)
Ngoài ra, học sinh có thể chọn để sử dụng các cách hát như lĩnh xướng, hoà giọng,
đối đáp…làm thế nào để phù hợp với nội dung cũng như cấu trúc bài hát. Như vậy
hình thức trình bày bài hát của mỗi nhóm sẽ rất đa dạng, phong phú, giàu tính sáng
tạo.
- Học sinh tự chọn động tác phụ hoạ cho bài hát: học sinh có thể nghĩ ra động tác
phù hợp với nội dung bài hát và tập trình bày cho đều, đẹp (hát kết hợp vận động
hoặc múa, hát kết hợp một vài động tác diễn xuất).
- Tuy nhiên để sự sáng tạo đạt hiệu quả cao, GV cần tạo điều kiện về thời gian cho
học sinh chuẩn bị. Thông thường GV thông báo trước một tuần để học sinh chọn
nhóm và tập cách trình bày, biểu diễn bài hát.

Chơi trò chơi.
- Sau khi học sinh hát đúng giai điệu của bài hát, GV hướng dẫn học sinh chơi trò chơi:
- Trò chơi "Nghe nhạc đoán lời ca”
Ví dụ sau khi học xong bài hát giáo viên sử dụng đàn đánh giai điệu một tiết
nhạc bất kì cho học sinh nghe và hát lời ca câu nhạc đó.
Ví dụ 1, câu hát:

10


Ví dụ 2, câu hát:

Trò chơi này giúp HS nhanh thuộc lời ca, phát triển tai nghe.
Việc kết hợp tổ chức một trò chơi trong giờ học hát vừa giúp học sinh nắm
kiến thức chắc hơn, sâu hơn, nhanh hơn, vừa tạo ra không khí sôi nổi cho HS, tạo
hứng thú cho HS học môn Âm nhạc cũng như học các môn học khác.
2.2.3. Trong dạy Tập đọc nhạc.
Hoạt động1:
- Treo bảng phụ chép sẵn bài TĐN lên bảng hoặc trình chiếu bản nhạc trên màn
hình
Bước 1: Giới thiệu bài TĐN gồm tên bài, tác giả, được trích trong đoạn nhạc nào.
Bước 2 : Tìm hiểu bài TĐN (nhận xét) xem trong bản nhạc có sử dung những kí
hiệu gì ? tác dụng ra sao, thực hiện thế nào khi TĐN.
Bước 3 : Chia bài TĐN thành từng câu , yêu cầu học sinh đọc tên nốt nhạc , cao
độ , trường độ , vạch nhịp . thực hiện thường xuyên bước này khi học sinh nhớ kĩ
tên nốt nhạc , các em sẽ không ghi tên nốt vào sách ,vở.
Bước 4 :
Luyện tập tiết tấu : thể hiện âm hình tiết tấu chủ yếu của bài thông thường chỉ cần
gõ âm hình câu thứ nhất và chổ cần lưu ý trong bài.
Bước 5 Luyện tập cao độ : đọc gam đô trưởng , âm ổn định (âm trụ )cần dựa vào

nhạc cụ để lấy độ chuẩn xác và điều chỉnh cao độ của gam cho phù hợp với giọng
của học sinh .
Bước 6 : Tập đọc từng câu là bước quan trọng nhất khi học TĐN lúc bắt đầu tập ta
nên dùng nhạc cụ đàn giai điệu , học sinh vừa nghe vừa cảm nhận giai điệu và đọc
cao độ ,trường độ từng câu . Sau đó với câu dễ hơn để học sinh tự đọc cần phát
huy khả năng đọc lập của các em , nếu học sinh không đọc được ta lại đàn giai
điệu hổ trợ cho các em.
Bước 7 :Hát lời ca : ở đây có nhiều cách ghép lời.
+ Đọc câu nào ghép lời câu đó.
+ Đọc 2 câu mới ghép lời.
+ Đọc cả bài rồi mới ghép lời.
Chọn cách nào còn phụ thuộc vào baqì TĐN dễ hay khó ,câu dài hay ngắn .
11


Bước 8 : Trình bày bài hát hoàn chỉnh gồm TĐN và hát lời ca . Tuy nội dung
chính là TĐN nhưng 2 hoạt động này hổ trợ cho nhau rất hiệu quả ,có thể đọc
nhạc đúng mà hát lời sai hoặc ngược lại.
Bước 9 : Củng cố những kiến thức đã học ( nếu có thời gian)
+ Có thể gọi học sinh lên kiểm tra ,tuyên dương khen thưởng cho điểm khích lệ
các em.
+ Nhận xét và sửa sai : Giáo viên cần thực hiện mẫu để học sinh đọc lại cho đúng.
2.2.4. Trong dạy Âm nhạc thường thức.
Giáo viên phải có sự chuẩn bị thật đầy đủ, chi tiết.
- Phải nắm vững các nội dung kiến thức cần truyền đạt cho học sinh với những
thông tin ngắn gọn, cô đọng.
- Phải có những câu hỏi gợi mở để học sinh cùng tham gia vào bài học
- Phải chuẩn bị minh hoạ các bài hát, bản nhạc do giáo viên tự trình bày hoặc
dựng băng, đĩa cho học sinh nghe.
- Chuẩn bị tranh ảnh liên quan đến nội dung bài học.

Các nội dung âm nhạc thường thức được viết trong sách giáo khoa hết sức ngắn
gọn do đó giáo viên cần sưu tầm thêm tư liệu để tham khảo, vừa để bổ sung kiến
thức cho bản thân, vừa có thể cung cấp thêm cho học sinh ở mức độ cần và đủ.
Phân môn âm nhạc thường thức có 4 dạng bài là:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Giới thiệu nhạc cụ.
- Giới thiệu các hình thức biểu diễn.
- Một số vấn đề của đời sống âm nhạc.
Những dạng bài trên có đặc điểm và tính chất khác nhau, do đó mỗi dạng
bài nên theo một quy trình dạy học riêng. Dù thực hiện theo quy trình nào cũng
phải coi trọng phần minh hoạ bằng âm thanh và hỏi - đáp để thầy với trò và giữa
học sinh với nhau cùng tham gia hoạt động.
Đối với dạng bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm
Giáo viên cho học sinh làm quen với các nhạc sĩ, với những thông tin cơ
bản nhất nh: tên thật, bút danh, năm sinh, quê quán và đôi nét về sự nghiệp sáng
tác âm nhạc của các nhạc sĩ. Một số tác phẩm nổi tiếng và các thành tích mà các
nhạc sĩ đã đạt được. Tiếp theo là giới thiệu một số bài hát điển hình với lời bình
ngắn gọn, súc tích và một bản nhạc kèm theo.
Ví dụ: Muốn giới thiệu về nhạc sĩ Hoàng Vân ta cần chú ý 4 nét chính sau đây:
- Tóm tắt thân thế, sự nghiệp: Nhạc sĩ Hoàng Vân tên thật là Lê Huy Ngọ, còn có
bút danh là Y - Na, sinh năm 1930 tại Hà Nội.
- Những sáng tác thành công: Tôi là người thợ mỏ, Tình ca Tây Nguyên, Con
chim vành khuyên, Ca ngợi Tổ quốc…
12


- Danh hiệu nhạc sĩ đã đạt được: Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật
- Tác phẩm nổi tiếng cần giới thiệu: Bài hát “Hò kéo pháo”
+ Lời bình: Bài hát “Hò kéo pháo” của nhạc sĩ Hoàng Vân âm vang mãi cùng
chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954. Bài hát nói lên nỗi vất vả, gian nan

của bộ đội ta ngày đêm phải đưa những cỗ pháo nặng hàng tấn vượt qua dốc núi,
chiếm lĩnh trận địa.
+ Bài hát: Giáo viên treo bảng phụ có đầy đủ nốt nhạc và lời ca. Giáo viên có thể
trình diễn bài hát hoặc có thể cho học sinh nghe đĩa hoặc xem hình ảnh
Khi cho học sinh nghe nhạc cần phải cho nghe hai lần, sau khi giáo viên thuyết
trình, giới thiệu và nghe lần thứ 2, học sinh nêu lên cảm nhận và trao đổi về tác
phẩm được nghe.
Ví dụ: Giới thiệu về nhạc sĩ Lưu Hữu Phước và bài hát “Lên đàng”
- Giáo viên gợi ý để học sinh có thể trả lời được những câu hỏi nh:
- Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước sinh ngày, tháng, năm nào? ở đâu?
Với câu hỏi này học sinh có thể tóm tắt được thân thế, sự nghiệp của nhạc sĩ:
Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước sinh ngày 12/9/1921 tại huyện Ô Môn, tỉnh Cần Thơ.
Cuộc đời và sự nghiệp âm nhạc của ông gắn liền với bước đi của lịch sử cách
mạng Việt Nam.
- Kể tên một số sáng tác thành công của ông?
+ Reo vang bình minh
+ Tiếng gọi thanh niên
+ Thiếu nhi thế giới liên hoan
+ Giải phóng miền Nam…
- Tác phẩm nổi tiếng cần giới thiệu có tên gọi là gì?
+ Bài hát “Lên đàng”
- Bài hát ra đời vào năm nào?
+ Bài hát được phổ biến rộng rãi trong thanh niên, học sinh và có tác
dụng mạnh mẽ nhằm kêu gọi lớp lớp tuổi trẻ tham gia cách mạng cứu nước.
- Giáo viên đàn và cho học sinh cùng trình bày bài hát “Lên đàng”. Bởi đây là một
bài hát khá quen và được phổ biến rộng rãi vì thế học sinh có thể hát được. Điều
này vừa có lợi cho kiến thức, vừa tạo nên không khí học tập sôi nổi cho học sinh.
Đối với dạng bài: Giới thiệu nhạc cụ
Trong phần học này chúng ta cần chú ý đến 5 nét chính sau đây:
- Xuất xứ ra đời

- Cấu tạo, hình dáng, kích thước
- Chất liệu làm ra nhạc cụ
- Âm thanh, cách sử dụng
- Đặc trưng riêng của nhạc cụ
Ví dụ: Giới thiệu đàn T’rưng
- Xuất xứ: Cây đàn này có xuất xứ ở Tây Nguyên
- Hình dáng, kích thước: Đàn nhìn giống một hình tháp dài khoảng 80 cm
13


- Cấu tạo, chất liệu: Đàn được làm bằng các ống nứa to, nhỏ, dài ngắn khác nhau.
Một đầu ống bịt kín bằng cách để nguyên các đầu mắt, đầu kia vót nhọn.
- Cách sử dụng và âm thanh: Dựng dùi gõ vào các ống sẽ tạo thành âm thanh cao,
thấp khác nhau, tuỳ độ to, nhỏ, dài, ngắn của ống. Âm sắc của đàn T’rưng hơi đục,
tiếng không vang to nhưng khá đặc biệt. Ta có cảm giác nh tiếng suối chảy róc
rách, tiếng thác đổ…
- Ứng dụng: Dùng trong các dàn nhạc dân tộc, trình diễn hòa tấu hoặc độc tấu.
Ví dụ: Giới thiệu đàn vi - ô - long
- Giáo viên cho học sinh quan sát cây đàn vi - ô - lông và đặt một số câu hỏi nh:
Đàn vi - ô - lông còn có tên gọi là gì? Đàn có mấy dây?
- Đàn vi - ô - lông còn gọi là vĩ cầm, đàn có 4 dây.
Đàn vi - ô - lông sử dụng nh thế nào?
- Đàn vi - ô - lông dựng cung kéo trên dây đàn
- Giáo viên cho học sinh nghe âm thanh của đàn vi - ô - lông trên đàn Organ hoặc
cho học sinh nghe một số bản nhạc độc tấu vi - ô - lông.
* Đối với dạng bài giới thiệu nhạc cụ, giáo viên giới thiệu về hình dáng, cấu tạo,
chất liệu, công dụng của nhạc cụ. Giáo viên cho học sinh nghe âm thanh của nhạc
cụ trên đàn Organ hoặc âm thanh thật của nhạc cụ. Việc làm này giúp học sinh có
cảm nhận về âm thanh của nhạc cụ một cách rõ ràng hơn, qua đó giúp học sinh dễ
dàng nhận biết nhạc cụ thông qua cảm nhận bằng âm thanh.

Phương hướng và đồ dùng phục vụ cho dạy học Âm nhạc thường thức
Để dạy học các nội dung Âm nhạc thường thức cần có những phương tiện
và đồ dùng dạy học nh:
- Tranh ảnh
- Băng, đĩa nhạc
- Nhạc cụ
- Các tư liệu tham khảo
Trong đổi mới phương pháp dạy học ngoài việc tích cực hoá các hoạt động
dạy - học của thầy và trò (đặc biệt là trò) thì phương tiện và đồ dùng dạy học cũng
phải được quan tâm thích đáng. Dạy âm nhạc nhất thiết giáo viên phải sử dụng
nhạc cụ. Hiện nay trường THCS đều được trang bị nhạc cụ. Băng đĩa nhạc phục
vụ cho dạy học cũng đã được sản xuất, tuy chưa đầy đủ nh mong muốn. Dạy âm
nhạc thường thức không thể chỉ bằng lời giảng của giáo viên. Muốn đạt hiệu quả
cao, giáo viên phải cố gắng minh hoạ bằng âm thanh, hình ảnh (nhất là âm thanh).
Ngoài các phương tiện, thiết bị được Bộ Giáo dục và Đào tạo trang bị cho các
trường, giáo viên cần có ý thức tự sưu tầm, tự tìm tòi nghiên cứu để có được
những tư liệu, phương tiện để có thể sử dụng khi dạy Âm nhạc thường thức. Điều
đó phụ thuộc vào lòng yêu nghề, ý thức trách nhiệm, nhiệt tình và sự sáng tạo của
mỗi giáo viên.
Về đồ dùng dạy học:
- Phát huy hiệu quả đồ dùng đã có
14


- Chuẩn bị, làm thử tại phòng đồ dùng hoặc phòng chuyên dùng: đàn, máy chiếu,
âm ly, video…
- Chuẩn bị thêm đồ dùng mà phòng đồ dùng nhà trường chưa có.
Khi sử dụng âm nhạc thường thức, giáo viên có thể khuyến khích sự sáng tạo của
học sinh thông qua những bài tập nh:
+ Sáng tạo khi làm tài liệu học tập: Việc làm này thể hiện sự sáng tạo và lòng say

mê học tập của học sinh
Tự làm nhạc cụ gõ đơn giản, ví dụ thanh phách, hay những dụng cụ tạo ra âm
thanh (chai nhựa đựng viên bi, hòn sỏi, hạt đậu…)
Làm Album âm nhạc theo nhóm 4 – 5 học sinh: học sinh tìm hiểu và giới thiệu
về sự nghiệp và cuộc đời các nhạc sĩ Việt Nam hoặc nhạc sĩ nổi tiếng thế giới
thông qua bài viết, tranh ảnh, bản nhạc và những câu chuyện về họ. Để Album âm
nhạc có nhiều dữ liệu, giáo viên nên cho học sinh chuẩn bị trong thời gian tương
đối dài (khoảng 2 – 3 tuần)
Những Album âm nhạc có giá trị, giáo viên nên chọn để trưng bày trong phòng
học âm nhạc hoặc khai thác sử dụng trên lớp. Học sinh thấy việc mình làm có ích,
điều đó sẽ khuyến khích tinh thầm tìm hiểu và ý thức học tập của các em.
Trong nghệ thuật, sự sáng tạo của mỗi cá nhân đóng vai trị cực kỳ quan trọng;
sáng tạo có nhiều mức độ, có thể là phát triển từ những ý tưởng đã có, có thể là
thay đổi hệ thống nguyên tắc. Sự sáng tạo của các nghệ sĩ hình thành những
trường phái, phong cách nghệ thuật khác và xây dựng nên những chất lượng nghệ
thuật mới.
Ví dụ: Tiết 13 trong chương trình SGK Âm nhạc lớp 8
- Ôn tập bài hát: Hò ba lí
- Ôn tập đọc nhạc: TĐN số 4
- Âm nhạc thường thức: Một số nhạc cụ dân tộc.
+ Đồ dùng hiện có của các phòng thiết bị phục vụ cho tiết học này là: Máy chiếu,
đàn Organ, âm ly, video, bản nhạc bài hát: Hò ba lí, bảng phụ chép nhạc
+ Đồ dùng tự làm: làm dụng cụ gõ (thanh phách, song loan…) Vẽ tranh minh hoạ
về một số nhạc cụ: cồng, chiêng, đàn T’rưng, đàn đá và sưu tầm tranh, ảnh, âm
nhạc minh hoạ. Chép bản nhạc bài TĐN số 4.
Ví dụ: Tiết 14 chương trình SGK Âm nhạc lớp 6
- Ôn tập bài hát: Đi cấy
- Ôn tập đọc nhạc: TĐN số 5
- Âm nhạc thường thức: Sơ lược về một số nhạc cụ dân tộc phổ biến
+ Đồ dùng hiện có của phòng thiết bị phục vụ cho tiết học này là: máy chiếu, đàn

oãc - gan, âm ly, video, bảng phụ chép nhạc.
+ Đồ dùng tự làm: Chép bản nhạc bài hát: Đi cấy
Chép bản nhạc bài TĐN số 5
Sưu tầm tranh ảnh, vẽ minh hoạ một số nhạc cụ dân tộc: đàn tranh, đàn
nguyệt
15


Mượn nhạc cụ thật để minh hoạ: đàn nhị, đàn bầu, trống, sáo. Trong tiết học
này giáo viên có thể vận dụng tính sáng tạo của học sinh bằng cách chia theo
nhóm tư 5 – 7 học sinh tự làm một trong số những nhạc cụ dân tộc (cho học sinh
chuẩn bị trước 2 tuần). Nhạc cụ nào đẹp giáo viên sẽ trưng bày tại phòng đồ dùng
học tập của nhà trường.
Nhận định: Nếu trực quan tốt thì việc dạy sẽ đơn giản nhưng rất phong phú và
hiệu quả.
Về tổ chức lớp học:
Nếu đồ dùng chuẩn bị đã chu đáo thì việc tổ chức lớp học lại cần có sự
nghiên cứu, sắp xếp phù hợp mới thực sự phát huy hiệu quả.
Ví dụ: Khi xem băng hình thì cần tổ chức chung cả lớp, lớp học phải trật tự.
Khi tổ chức cho học sinh nghiên cứu mẫu nhạc cụ thì cần chia lớp thành các
nhóm, mỗi nhóm có thể nghiên cứu một mẫu nhạc cụ, thảo luận tập thể, sau đó
mỗi nhóm cử đại diện lên trình bày, các nhóm khác bổ sung…Khi đó lại cần đến
không khí sôi nổi, chủ động, mạnh dạn và sáng tạo của mỗi học sinh ở các nhóm.
- Khi nghiên cứu, giới thiệu về một nhạc sĩ hay bình một tác phẩm âm nhạc
thì lại có thể tổ chức một hình thức thi giữa các nhóm hoặc trong cả lớp.
Ví dụ:
“Lời bình hay nhất” về một ca khúc
“Lời giới thiệu hay nhất” về một nhạc sĩ
- Tổ chức hình thức thi vui để tìm hiểu về hình thức hát bè: hát đối một người, hát
bè chính một câu nào đó, người kia đối bằng bè quãng 3

- Thi vui để nhận dạng các bản nhạc không lời…
Càng nhiều hình thức tổ chức lớp học vui vẻ, sinh động càng tạo cho học
sinh sự tự nhiên trong nghiên cứu, học tập và nhất là dễ dàng phát huy năng khiếu
của các em.
3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của đề tài
Môn học Âm nhạc ở trường THCS mỗi tuần chỉ có một tiết, thật ít ỏi nhưng
các em được làm quen với: Học hát, TĐN, nhạc lí, âm nhạc thường thức là một tác
động lớn vào thế giới tinh thần của các em. Với những phương pháp dạy trên,
trong những tiết dạy đối với môn âm nhạc ở trường, tôi thấy kết quả chất lượng
được nâng lên rõ rệt, các em đã hiểu và nắm cơ bản về kiến thức nhạc lí, biết trình
bày hoàn chỉnh một bài hát (hát kết hợp vận động nhẹ, biểu diễn) biết cảm nhận về
nội dung bài hát, biết đọc nhạc các bài đơn giản, biết thưởng thức âm nhạc. Bởi
được hướng dẫn tận tình gợi mở và gần gũi luyện tập của GV, kết hợp giữa nhạc
cụ, bảng phụ, đài, băng nhạc và làm mẫu chính xác của GV đã động viên cổ vũ
các em kịp thời bằng những con điểm tốt. Nhắc nhở các em sau khi học bài mới
thì các em phải có sự ôn luyện ở nhà để ghi nhớ và khắc sâu kiến thức, do đó
16


trong giờ học rất sôi nổi và thoải mái, các em thi đua nhau trả lời câu hỏi của GV
đưa ra, tự giác xung phong lên trình bày bài trước lớp, đem lại cho các em lòng tự
tin, sự hứng thú say mê trong học tập, tình cảm cô trò luôn gần gũi gắn bó. Việc
học tốt trong giờ học chính khoá đã giúp HS hoạt động tốt trong các hoạt động
ngoại khoá.
Kết quả đạt được sau khi áp dụng đề tài:
Lớp Sô HS Hoàn thành tôt (A+) Hoàn thành (A)
Chưa hoàn thành
1


24

16

08

0

2

23

16

07

0

3

26

18

8

0

1


45

25

20

0

2

44

27

17

0

8

8
8
7
7

Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi về “Phương pháp gây hứng thú
cho học sinh trong giờ học Âm nhạc”. tôi mạnh dạn đưa ra để các đồng nghiệp
tham khảo, những phương pháp cơ bản về cách dạy và học âm nhạc đặc biệt là
phương pháp dạy thực hành áp dụng cho học sinh và đa phần các học sinh trong
tập thể rất thích hoạt động sáng tạo. Các em hứng thú học âm nhạc hơn, thực hành

tự tin hơn và có tiến bộ rõ rệt. Tôi rất mong được sự góp ý trao đổi kinh nghiệm
của các bạn đồng nghiệp cũng như của những người yêu thích môn âm nhạc, để
tìm ra được những phương pháp tối ưu nhằm giúp học sinh có hứng thú và ham
mê học âm nhạc, từ đó giáo dục tính thẩm mĩ cho các em, giúp các em hiểu được
cái hay, cái đẹp trong cuộc sống.
3.2. Kiến nghị đề xuất
Trong dạy học Âm nhạc hiện nay đối với nhiều trường còn thiếu phòng học bộ
môn, máy nghe… điều này ảnh hưởng lớn đến chất lượng của bộ môn Âm nhạc và
ảnh hưởng đến việc học các môn khác. Vì vậy, tôi kính mong nhà trường và các
cấp, ngành có liên quan tạo mọi điều kiện cho việc học môn Âm nhạc tốt hơn
nhằm hoàn thành mục tiêu phát triển con người toàn diện về đức, trí, thể, mĩ.
Quảng Nình, ngày 14 tháng 10 năm 2018
Người viết

17



×