Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng ở việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 100 trang )

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KHẤU TRỪ, HOÀN THUẾ GIÁ

6

TRỊ GIA TĂNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG

1.1.

Khái niệm, đặc điểm thuế giá trị gia tăng, khấu trừ và

6

hoàn thuế giá trị gia tăng
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thuế giá trị gia tăng

6

1.1.2. Khái niệm, đặc điểm về khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng

12


1.2.

Các nguyên tắc hoàn thuế giá trị gia tăng

18

1.3.

Vai trò, ý nghĩa của hoàn thuế giá trị gia tăng

20

1.4.

Nội dung của pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng

23

Chương 2:

27

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ

GIA TĂNG Ở VIỆT NAM

2.1.

Đối tượng và các trường hợp hoàn thuế giá trị gia tăng


27

2.1.1. Đối tượng được hoàn thuế giá trị gia tăng

27

2.1.2. Các trường hợp hoàn thuế giá trị gia tăng

26

2.2.

34

Điều kiện khấu trữ, hoàn thuế giá trị gia tăng

2.2.1. Hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế

34

2.2.2. Thanh toán qua ngân hàng

35


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien

mien phi
phi

2.3.

Quy trình, thời hạn giải quyết hoàn thuế giá trị gia tăng

40

2.3.1. Quy trình hoàn thuế giá trị gia tăng

40

2.3.2. Thời hạn giải quyết hoàn thuế giá trị gia tăng

45

2.4.

45

Hồ sơ, hóa đơn hoàn thuế giá trị gia tăng

2.4.1. Hồ sơ hoàn thuế giá trị gia tăng

45

2.4.2. Hóa đơn, chứng từ hoàn thuế giá trị gia tăng

54


2.5.

Giải quyết tranh chấp về hoàn thuế giá trị gia tăng

61

Chương 3:

71

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOÀN

THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở VIỆT NAM

3.1

Quan điểm hoàn thiện pháp luật về hoàn thuế giá trị gia

71

tăng ở Việt Nam
3.2

Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoàn thuế giá trị gia

74

tăng ở Việt Nam
3.2.1. Thu hẹp đối tượng hoàn thuế giá trị gia tăng


74

3.2.2. Về hóa đơn hoàn thuế giá trị gia tăng

77

3.2.3. Thanh toán qua ngân hàng

83

3.2.4. Về quy trình hoàn thuế giá trị gia tăng

85

3.2.5. Phương thức giải quyết tranh chấp về hoàn thuế giá trị gia tăng

88

KẾT LUẬN

90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

92


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


CCT

: Chi cục thuế

GTGT

: Giá trị gia tăng

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT) lần đầu tiên được Quốc hội khóa IX
thông qua ngày 10/5/1997 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/1999. Việc
quy định thuế GTGT thay cho thuế doanh thu là một bước cải cách quan trọng
trong hệ thống chính sách thuế của Việt Nam. Tính đến nay, Luật đã trải qua
nhiều lần sửa đổi, bổ sung. Gần đây nhất, tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XII,
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 03/6/2008 đã thông qua Luật

thuế GTGT, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009. Kể từ khi ban hành cho
đến nay, thuế GTGT luôn thu hút sự quan tâm đặc biệt của xã hội, của các
doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức, cá nhân.
Thuế GTGT là một sắc thuế đánh trên phần giá trị tăng thêm của hàng
hóa, dịch vụ. Điểm nổi bật của thuế GTGT là khắc phục được nhược điểm thu
trùng lắp, chồng chéo qua nhiều khâu của thuế doanh thu. Khấu trừ là một đặc
trưng cơ bản của thuế GTGT, qua cơ chế này các doanh nghiệp cũng thường
lợi dụng để thực hiện những hành vi gian lận để chiếm đoạt tiền của Nhà
nước thông qua việc khấu trừ và hoàn thuế.
Tại Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ có
quy định một giải pháp trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT là: "tạm hoàn 90% số
thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng hóa xuất khẩu trong trường hợp
doanh nghiệp chưa có chứng từ thanh toán qua ngân hàng và hoàn tiếp 10%
khi có chứng từ thanh toán" [12].
Những chủ trương này của Nhà nước về hoàn thuế GTGT nhằm tác
động và bảo đảm tính công bằng, bình đẳng cho các chủ thể nộp thuế; kích
thích hoạt động xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ; kích thích hoạt động sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế đất nước nói chung. Hiệu

1


quả tích cực từ thuế GTGT cho thấy: thu ngân sách nhà nước tăng nhiều so
với thuế doanh thu; hoạt động sản xuất, kinh doanh nội địa đã ngày càng phát
triển mạnh mẽ, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ khi xuất khẩu.
Hoàn thuế GTGT là một chế định hết sức tiến bộ của Luật thuế
GTGT. Tuy nhiên thời gian qua, lợi dụng những chủ trương, chính sách
khuyến khích của Nhà nước, hàng loạt các hành vi vi phạm như: gian lận
trong lập hồ sơ hoàn thuế, mua bán hóa đơn, chứng từ, xuất khẩu khống hàng
hóa… nhằm chiếm đoạt tiền hoàn thuế GTGT diễn ra ngày càng tinh vi, phức

tạp, không ngừng gia tăng về tính chất và mức độ vi phạm của các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế và tổ chức, cá nhân đối với các quy định về hoàn
thuế GTGT của Nhà nước. Những vi phạm này, đã hạn chế ưu điểm tích cực
từ chính sách hoàn thuế GTGT, gây thiệt hại không nhỏ đến việc thu ngân
sách nhà nước từ thuế. Đồng thời, làm giảm niềm tin của các tổ chức, cá
nhân, doanh nghiệp làm ăn chân chính đối với chính sách thuế của nước ta.
Thực tiễn này đòi hỏi các nhà luật học cần phải tiếp tục nghiên cứu,
hoàn thiện hơn nữa pháp luật về hoàn thuế GTGT để chính sách này công
bằng, bình đẳng hơn cho xã hội, cho các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế,
tạo môi trường thuận lợi để phát triển đất nước.
Chính những lý do kể trên, đã giúp học viên mạnh dạn chọn đề tài:
"Pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam - Thực trạng và giải
pháp" làm luận văn thạc sĩ.
Với đề tài này, học viên mong muốn được tiếp tục nghiên cứu pháp
luật về hoàn thuế GTGT, qua đó phân tích, đánh giá thực trạng nhằm tìm ra
những hạn chế, bất cập và đưa ra các giải pháp về hoàn thuế GTGT ở Việt
Nam, góp phần làm rõ chính sách thuế GTGT của Chính phủ.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, đã có nhiều đề tài tập trung tìm hiểu và nghiên cứu các vấn
đề xung quanh các quy định pháp luật về hoàn thuế GTGT. Với tư cách là cơ

2


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi

phi

quan quản lý nhà nước về thuế, Bộ Tài chính - Tổng Cục thuế cũng đã tiến
hành những nghiên cứu các quy định của các nước về hoàn thuế GTGT trước
khi áp dụng chính sách hoàn thuế GTGT ở nước ta, cụ thể nghiên cứu về:
Thực tiễn tại Pháp khi áp dụng Chỉ thị 2008/9/EC về các phương thức
hoàn thuế GTGT cho các công ty thành lập tại một nước thành viên. Các quy
định chính đã được quy định ở Đạo Luật tài chính 2010 của Pháp (Mục 102),
quy định về nguyên tắc nộp đơn và thủ tục hoàn thuế GTGT.
Báo cáo khảo sát về hoàn thuế GTGT của Đức khi quy định về thủ tục
hoàn thuế GTGT tại Đức áp dụng cho các doanh nhân Đức trong hoạt động
sản xuất, kinh doanh.
Thực tiễn áp dụng quy chế hoàn lại tiền thuế GTGT cho hàng hóa và
dịch vụ đủ tiêu chuẩn hoàn thuế GTGT đối với các doanh nghiệp, tổ chức,
hay hiệp hội trong hoạt động kinh doanh tại Đài Loan…
Đồng thời, nhiều hội thảo của Cục Thuế các tỉnh, thành phố ở Việt
Nam đã được tổ chức nhằm tháo gỡ và giải quyết các vướng mắc trong thực
tiễn áp dụng hoàn thuế GTGT ở từng địa phương.
Trong giới luật học, nhiều tác giả lựa chọn pháp luật về hoàn thuế
GTGT là đề tài nghiên cứu ở góc độ lý luận, cũng như nhiều bài viết mang
tính nghiên cứu trao đổi của các chuyên gia pháp lý đăng trên các tạp chí
chuyên ngành, cụ thể: Luận văn thạc sỹ luật học năm 2006 của Bùi Công
Quang về đề tài "Thực trạng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế giá
trị gia tăng ở Việt Nam"; Bài viết của Nguyễn Văn Tuyến năm 2008 tại Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp điện tử về "Một số ý kiến trao đổi, bình luận về dự
án luật thuế thu nhập doanh nghiệp và dự án luật thuế giá trị gia tăng"; Bài
viết của Lê Thị Thu Thủy năm 2008 tại Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử
về "Luật thuế giá trị gia tăng nên sửa đổi theo hướng nào" v.v…
Luận văn "Pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam - Thực
trạng và giải pháp" sẽ là một trong những đề tài tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu


3


chuyên sâu về thực trạng vấn đề hoàn thuế GTGT ở Việt Nam và pháp luật về
vấn đề này.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về hoàn thuế GTGT
ở Việt Nam, kết hợp đối chiếu với các quy định pháp luật về hoàn thuế GTGT
ở một số nước trên thế giới. Luận văn sẽ đánh giá thực trạng và chỉ ra những
hạn chế, bất cập hiện hành trong pháp luật về hoàn thuế GTGT, trên cơ sở đó
đưa ra các kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện quy định về hoàn thuế
GTGT ở Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu
Mặc dù các quy phạm của Luật thuế GTGT nói chung và hoàn thuế
GTGT nói riêng gắn chặt với các phạm trù kinh tế, nhưng với góc độ của một
luận văn thạc sĩ luật học, học viên chỉ đi sâu nghiên cứu các quy định pháp
luật, các quan điểm, chính sách pháp luật có liên quan đến hoàn thuế GTGT ở
Việt Nam.
Các khái niệm xuất hiện trong luận văn tốt nghiệp luật học này được
dừng ở mức độ sử dụng kết quả nghiên cứu của các học giả và các nhà kinh tế
học, để phục vụ tốt hơn cho việc tiếp cận các quy định pháp luật hiện hành về
hoàn thuế GTGT.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phân tích, so sánh,
tổng hợp, đánh giá, khảo sát, thống kê… để làm rõ các nội dung nghiên cứu
trong đề tài.
5. Những đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu các vấn đề liên quan đến

pháp luật hoàn thuế GTGT ở Việt Nam. Luận văn phân tích và làm sáng tỏ

4


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

thực trạng pháp luật về hoàn thuế GTGT, trên cơ sở đó nêu ra những điểm
hạn chế, bất cập hiện nay trong thực tiễn áp dụng pháp luật về hoàn thuế
GTGT và đưa ra các kiến nghị, giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về
vấn đề này ở Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng và
pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng
ở Việt Nam.

5


Chƣơng 1

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KHẤU TRỪ,
HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ PHÁP LUẬT
VỀ HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG, KHẤU TRỪ
VÀ HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thuế giá trị gia tăng
* Khái niệm thuế giá trị gia tăng
Thuật ngữ "Thuế giá trị gia tăng" tiếng Pháp là "Tax sur la Valuer
Ajourtée" (viết tắt là TVA), tiếng Anh là :Value Added Tax: (viết tắt là GTGT).
Thuế GTGT lần đầu tiên được đề xuất áp dụng vào năm 1918 bởi một
nhà kinh tế người Đức Carld Rilordrich Sienvens. Tuy nhiên, nước đầu tiên trên
thế giới áp dụng thuế GTGT là nước Pháp, luật thuế GTGT của nước này được
ban hành ngày 10/4/1954 và Nghị định hướng dẫn thi hành ngày 30/4/1955.
Việc áp dụng thuế GTGT ở Pháp là kết quả của quá trình cải tổ hệ thống thuế
mà trọng tâm là việc tăng cường và hoàn thiện các loại thuế gián thu.
Ngày 11/4/1967, Hội đồng các Bộ trưởng sáu nước thành viên ban đầu
của Cộng đồng kinh tế Châu Âu đã có chỉ thị về việc hài hòa cân đối hệ thống
thuế doanh thu của các nước thành viên và khuyến nghị các nước thành viên
thống nhất thực hiện thuế GTGT trước ngày 01/01/1970.
Năm 1968, nước Đức chính thức áp dụng thuế GTGT để thay thế thuế
doanh thu cũ nhưng vẫn giữ nguyên tên gọi là thuế doanh thu. Năm 1969, Hà
Lan đưa luật thuế GTGT vào áp dụng.
Thái Lan áp dụng thuế GTGT kể từ ngày 01/01/1992. Thuế kinh
doanh trước đây áp dụng ở Thái Lan bị coi là phức tạp và phiền hà, chủ yếu

6



Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

tác động trong lĩnh vực sản xuất. Trong một số trường hợp, còn làm tăng giá
thành hàng hóa lên đến xấp xỉ 35% đã làm hạn chế sức tiêu thụ và xuất khẩu
của hàng hóa. Sau khi áp dụng thuế GTGT thì hàng hóa Thái Lan đã có
những lợi thế cạnh tranh rất lớn so với hàng hóa các nước khác trong khu vực.
Nhìn chung, các quốc gia thuộc khối Liên minh châu Âu, châu Phi,
châu Mỹ La tinh và một số quốc gia châu Á đã áp dụng thuế GTGT. Tính đến
nay, đã có khoảng hơn 130 quốc gia áp dụng thuế GTGT, các quốc gia khác
cũng đang trong thời kỳ nghiên cứu loại thuế này.
Đặc biệt, Mỹ là một nước có nền kinh tế phát triển nhưng lại không áp
dụng thuế GTGT. Theo cấu trúc pháp luật của Mỹ, ngoài hệ thống pháp luật
thuế chung cho toàn Liên bang thì mỗi Bang lại có hệ thống pháp luật thuế
riêng của mình. Nếu đặt ra thuế GTGT trên toàn Liên bang thì phải cộng thêm
thuế GTGT toàn Liên bang vào phần thuế thu ở từng bang, đây là vấn đề rất
phức tạp và khó thực hiện. Thuế doanh thu ở Mỹ chỉ đánh trên khâu bán lẻ,
do đó về nguyên tắc không có việc đánh thuế trùng lặp. Mỹ hiện đã áp dụng
công nghệ tin học tiên tiến vào phục vụ công tác quản lý thuế. Mặt khác,
người dân Mỹ lại rất tự giác thực hiện chế độ hóa đơn, chứng từ trong mua
bán nên cơ quan thuế dễ dàng đối chiếu chính xác, thuận tiện giữa doanh thu
và chi phí của các đối tượng nộp thuế. Vì vậy, không có sự thu thuế trùng lặp
tại nước Mỹ. Trong quá trình quản lý thuế, mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về
thuế GTGT một cách quy mô, nghiêm túc nhưng đến nay, Chính phủ Mỹ vẫn
quyết định không áp dụng thuế GTGT tại nước Mỹ.

Trước khi thuế GTGT xuất hiện thì thuế doanh thu được các quốc gia
trên thế giới áp dụng nhằm điều tiết tiêu dùng xã hội. Căn cứ để tính thuế
doanh thu là doanh thu chịu thuế. Tuy nhiên, trong doanh thu chịu thuế đã bao
gồm cả thuế doanh thu ở khâu sản xuất, kinh doanh trước đó nên thuế doanh
thu ở các khâu trước đã trở thành chi phí sản xuất, kinh doanh ở khâu sau.
Quy định này, dẫn đến tình trạng thuế đánh trùng trên thuế, làm tăng giá vốn

7


hàng hóa, dịch vụ, hàng hóa nội địa đã khiến người tiêu dùng phải chịu với
mức giá cao đồng thời giảm tính cạnh tranh của hàng hóa, không kích thích
được hàng hóa xuất khẩu. Nhược điểm trùng lặp thuế không còn phù hợp đối
với nền kinh tế hiện đại. Thuế GTGT ra đời là sự thay thế hợp lý, mang tính
tất yếu khách quan.
Ở Việt Nam, Luật thuế GTGT lần đầu tiên được Quốc hội khóa IX
thông qua ngày 10/5/1997 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/1999. Tính đến
nay, Luật đã trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung. Gần đây nhất, tại kỳ họp thứ 3
Quốc hội khóa XII, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 03/6/2008
đã thông qua Luật thuế GTGT, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009.
Tại Điều 2, Luật thuế GTGT của Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 3, số
13/2008/QH12 ngày 03/6/2008 quy định: "Thuế giá trị gia tăng là thuế tính
trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản
xuất, lưu thông đến tiêu dùng" [29].
Như vậy, thuế GTGT được coi là một loại thuế tiêu dùng và là thuế
gián thu nhằm đánh vào hành vi tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ nhưng được thu
ở khâu bán hàng. Nói một cách khác, thuế GTGT là sắc thuế áp dụng đối với
giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ ở tất cả các khâu từ sản xuất, lưu
thông đến tiêu dùng. Đặc biệt, thuế GTGT đánh vào khâu cuối cùng (khâu
tiêu dùng) sẽ bằng tổng giá trị các lần đánh thuế của các khâu trước đó.

Dưới góc độ pháp lý, thuế GTGT là nghĩa vụ tài chính theo đó người
chịu thuế phải nộp một phần thu nhập của mình cho nhà nước, thông qua
hành vi tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ. Trong thực tế, phần đông các chủ thể có
nghĩa vụ nộp thuế GTGT không tự nguyện nộp thuế nếu như nhà nước không
ràng buộc họ bằng các nghĩa vụ pháp lý bắt buộc. Vì vậy, những nội dung cơ
bản về thuế GTGT đã được quy định trong Luật thuế GTGT năm 2008,
gồm 4 chương, 12 điều.

8


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

* Đặc điểm thuế GTGT
Đặc điểm của thuế GTGT là một loại thuế gián thu đánh vào giá trị
tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ trên bình diện rộng. Tính gián thu của thuế
GTGT được thể hiện qua đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế là hai chủ
thể hoàn toàn khác nhau. Mặt khác, sắc thuế này cũng mang bản chất liên
hoàn và có tính trung lập kinh tế cao, mang những đặc tính cơ bản, đặc trưng
của một sắc thuế khoa học, tiên tiến như: tính lũy thoái, điều tiết hành vi tiêu
dùng hàng hóa, dịch vụ. Tuy nhiên, đặc điểm chính, chủ yếu của thuế GTGT
là: Thuế GTGT là sắc thuế gián thu đánh trên bình diện rộng, thuế GTGT gắn
liền với chế độ sổ sách kế toán và hóa đơn chứng từ.
- Thuế GTGT là sắc thuế gián thu đánh trên bình diện rộng

Thuế GTGT được coi là một sắc thuế gián thu tiêu biểu. Thuế GTGT
không trực tiếp đánh vào thu nhập và tài sản của người nộp thuế mà đánh một
cách gián tiếp thông qua giá cả hàng hóa, dịch vụ. Tính gián thu thể hiện dưới
góc độ pháp lý là quan hệ tay ba giữa nhà nước - người sản xuất, kinh doanh
(nộp thuế) - người tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ (chịu thuế).
Về nguyên tắc, người tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ là người chịu thuế
nên việc đánh thuế GTGT vào khâu tiêu dùng là đủ. Hiểu một cách đơn giản
nhất thì quan hệ nghĩa vụ thuế GTGT là quan hệ giữa người có quyền (Nhà
nước) với người có nghĩa vụ (người tiêu dùng). Thế nhưng, trong quan hệ
thuế GTGT, ngoài hai chủ thể này còn xuất hiện một loại chủ thể đặc biệt là
(đối tượng nộp thuế). Tuy về lý thuyết không có nghĩa vụ nộp thuế cho nhà
nước, nhưng đối tượng nộp thuế lại giữ vị trí hết sức quan trọng, nhiều khi có
tính quyết định trong quan hệ thuế GTGT. Đối tượng nộp thuế thường thay
mặt nhà nước thu hộ thuế GTGT của người tiêu dùng. Trong thực tế, chúng ta
nhận thấy tần suất xuất hiện của loại chủ thể - đối tượng nộp thuế - thường
xuyên hơn và xuất hiện nhiều hơn loại chủ thể - Người tiêu dùng.

9


Theo nguyên lý của thuế gián thu, pháp luật thuế GTGT cần phải xác
định rõ người chịu thuế để đảm bảo tính điều tiết tiêu dùng của thuế GTGT.
Nếu phải chờ đến khâu tiêu dùng cuối cùng mới thu thuế sẽ làm chậm quá
trình tập trung nguồn lực xã hội cho ngân sách nhà nước, ảnh hưởng đến chi
tiêu của nhà nước, hơn nữa, việc phân biệt hành vi chuyển giao tài sản hoặc
cung cấp dịch vụ là phải tính thuế GTGT. Cách thức quy định này được áp
dụng phổ biến ở nhiều nước nhằm san sẻ một phần trách nhiệm thu thuế cho
cơ sở kinh doanh.
Trường hợp xác định là hành vi tiêu dùng trung gian thì số thuế sẽ
được tự động chuyển vào giá bán hàng cho người mua ở giai đoạn sau. Việc

đánh thuế vào hành vi sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế
không những giúp nhà nước huy động kịp thời nguồn thu cho ngân sách mà
còn nâng cao trách nhiệm của người nộp thuế trong việc thực hiện nghiêm
chỉnh chế độ sổ sách kế toán, hóa đơn, chứng từ.
Chủ thể thứ ba - đối tượng nộp thuế - thay mặt nhà nước trực tiếp tính
thuế và thu thuế GTGT khi bán hàng. Người mua hàng thanh toán tiền hàng
và thuế GTGT theo hóa đơn GTGT do người bán hàng lập. Sau đó, người nộp
thuế có nghĩa vụ nộp lại số thuế đã thu được từ người chịu thuế cho nhà nước.
Để nâng cao tính hiệu quả trong quản lý hoạt động thu nộp thuế, hạn chế hành
vi gian lận thuế GTGT. Nhà nước coi người nộp thuế là đối tượng quản lý
thuế và quy định các điều kiện đối với người nộp thuế như: đăng ký kinh
doanh, đăng ký mã số thuế, đảm bảo các cơ sở vật chất, nhân sự…
Theo quy định của pháp luật thuế GTGT ở nước ta hiện nay, đối
tượng nộp thuế rất rộng, bao gồm: tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT và tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa chịu
thuế GTGT. Với những đối tượng buôn bán nhỏ lẻ thì việc áp dụng thuế
GTGT gặp nhiều khó khăn, bởi thực tế họ không đáp ứng được đòi hỏi khắt
khe về sổ sách, hóa đơn, chứng từ. Hơn nữa, với đối tượng này, phương pháp

10


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi


tính thuế được áp dụng là phương pháp tính trực tiếp trên GTGT đã dẫn đến
tình trạng bất bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế GTGT.
Người chịu thuế GTGT là người tiêu dùng cuối cùng hàng hóa, dịch
vụ thuộc diện chịu thuế GTGT. Hành vi tiêu dùng cuối cùng đã đưa hàng hóa,
dịch vụ thoát khỏi quá trình lưu thông trên thị trường. Người tiêu dùng là một
khái niệm rất rộng, họ có thể là cá nhân, tổ chức, hay cơ quan nhà nước.
Người nộp thuế cũng có thể trở thành người tiêu dùng nếu họ có hành vi tiêu
dùng hàng hóa, dịch vụ chịu thuế. Luật thuế GTGT nước ta hiện nay không có
quy định nào giới hạn người tiêu dùng. Chính vì vậy, thuế GTGT thuộc loại
thuế tiêu dùng đánh trên bình diện rộng.
- Thuế GTGT gắn liền với chế độ sổ sách kế toán và hóa đơn, chứng từ
Thuế GTGT là sắc thuế có đòi hỏi nghiệp vụ kế toán rất khắt khe
trong hệ thống các sắc thuế hiện hành. Xuất phát từ bản chất của thuế GTGT
là đánh vào GTGT của hàng hóa, dịch vụ. Muốn xác định GTGT không có
cách gì khác chủ thể nộp thuế GTGT phải tuân thủ nghiêm ngặt chế độ sổ
sách kế toán, hóa đơn, chứng từ.
Thuế GTGT năm 2008, có một hệ thống hóa đơn, biểu mẫu chứng từ
đồ sộ. Các hóa đơn, chứng từ ghi nhận thuế GTGT được quy định rất chặt chẽ
cả về hình thức lẫn cách thức sử dụng. Nếu cơ sở kinh doanh không có trình
độ kế toán nhất định, sẽ không thể thực hiện tốt chế độ kê khai trong quá trình
quản lý, kê khai, nộp thuế GTGT.
Với mỗi loại hình kinh doanh lại có loại hóa đơn sử dụng riêng, cụ
thể: Đối với các cơ sở kinh doanh thì nộp thuế theo phương pháp tính trực
tiếp trên GTGT thì sử dụng loại hóa đơn thông thường. Đối với mỗi hoạt
động kinh doanh thương mại khác nhau, pháp luật thuế GTGT sẽ yêu cầu một
loại hình hóa đơn cụ thể như: Đối với mua bán hàng nông, lâm, thủy sản qua
sơ chế sẽ sử dụng hóa đơn thu mua hàng nông, lâm, thủy sản...

11



Thuế GTGT được ghi nhận trên hóa đơn, chứng từ, căn cứ vào hóa
đơn, chứng từ của các nhà sản xuất, kinh doanh có trách nhiệm lập sổ, sách kế
toán theo quy định pháp luật. Người nộp thuế được khấu trừ số thuế đầu vào
đã nộp, do đó, tổng số thuế ở các công đoạn của quá trình sản xuất, lưu thông
sản phẩm luôn bằng giá bán cuối cùng nhân với thuế suất.
Hóa đơn, chứng từ lại giữ vai trò hết sức quan trọng trong quá trình thu,
nộp thuế GTGT. Nếu thuế GTGT tách rời khỏi hóa đơn, chứng từ thì sẽ không
thể triển khai thực hiện được trên thực tế. Trong một đất nước mà các cơ sở kinh
doanh không thực hiện tốt chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ thì thuế GTGT ở
nước đó không thể phát huy được hết những tác dụng tích cực vốn có.
Những ưu điểm của thuế GTGT như khuyến khích đầu tư, xuất khẩu
hàng hóa, trung lập kinh tế... chỉ được bảo đảm khi ý thức tự giác chấp hành
pháp luật thuế của người dân được nâng cao, cơ chế tự kiểm soát của thương
trường tiên tiến, thuận lợi và việc sử dụng hóa đơn, chứng từ khi bán hàng
hóa, dịch vụ đã trở thành thói quen của người tiêu dùng.
Việc hoàn thiện các quy định pháp luật về hóa đơn, chứng từ và chế
độ sử dụng hóa đơn, chứng từ là một nội dung quan trọng của pháp luật thuế
GTGT nhằm xây dựng ý thức tự giác sử dụng hóa đơn, chứng từ trong đại bộ
phận dân chúng. Trước thời điểm Luật thuế GTGT chính thức có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/01/2009, thì Chính phủ đã có những bước nghiên cứu, thử
nghiệm, cũng như chuẩn bị về nhân sự, cơ sở vật chất, mặt bằng nghiệp vụ kế
toán. Vì vậy, xét trên các phương diện này cho thấy, thuế GTGT đã góp phần
thúc đẩy các cơ sở sản xuất, kinh doanh chấp hành nghiêm chỉnh quy định lập
sổ, sách kế toán, quản lý hóa đơn, chứng từ.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm về khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng
* Khái niệm về khấu trừ và hoàn thuế GTGT:
Tại Khoản 1, điểm a, Điều 10 luật thuế GTGT quy định: "Số thuế giá
trị gia tăng phải nộp theo phương pháp khấu trừ thuế bằng số thuế giá trị gia


12


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

tăng đầu ra trừ số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ" [29]. Theo quy định tại
Khoản 1, Điều 7 Nghị định số 123/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 08/12/2008
thì: "Số thuế giá trị gia tăng phải nộp tính theo phương pháp khấu trừ bằng
số thuế giá trị gia tăng đầu ra (-) số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ" [11].
Khấu trừ thuế là căn cứ quan trọng trong việc hoàn thuế GTGT hiện nay.
Tại chương III, Điều 10, Nghị định số 123/2008/NĐ-CP của Chính
phủ ngày 08/12/2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
luật thuế GTGT của Việt Nam quy định về hoàn thuế GTGT như sau: "Việc
hoàn thuế giá trị gia tăng thực hiện theo quy định tại Điều 13 Luật Thuế giá
trị gia tăng..." [11].
Tại Điều 52, Luật thuế giá trị gia tăng của nước Cộng hòa Serbia được
đăng trong "Công báo" số 84/2004 ngày 24/7/2004 và số 86/2004 ngày
30/7/2004 quy định: "Nếu số thuế đầu vào cao hơn số tiền nợ thuế, người nộp
thuế giá trị gia tăng được hoàn trả phần thuế chênh lệch…" và "hoàn trả thuế
giá trị gia tăng trong vòng 15 ngày đối với người nộp thuế chủ yếu thực hiện
cung cấp hàng hóa ở nước ngoài" 51.
Tại Điều 24, Luật Thuế GTGT của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào ngày 16/01/2007 quy định về hoàn thuế GTGT như sau: "… đối với các
nhà khai thác kinh doanh có thu nhập doanh nghiệp xuất phát từ hoạt động

sản xuất trong nước hoặc hoạt động xuất khẩu, nếu gia tăng giá trị thuế đầu
vào thì được khấu trừ không hoàn toàn trong tháng, chỉ có tỷ lệ xuất khẩu sẽ
được hoàn thuế giá trị gia tăng …" 47 và "hoàn thuế giá trị gia tăng được
thực hiện khi có văn bản của cấp có thẩm quyền về thuế…" 47.
Như vậy, hoàn thuế GTGT được hiểu là việc cơ quan quản lý thuế có
thẩm quyền hoàn trả lại cho đối tượng số tiền thuế GTGT đã nộp thừa hoặc
chưa được khấu trừ hết. Việc hoàn thuế GTGT được thực hiện theo yêu cầu
của các chủ thể khi họ đáp ứng đủ các điều kiện hoàn thuế GTGT theo quy
định của pháp luật.

13


Ở nước ta, Luật thuế GTGT và các văn bản hướng dẫn về thuế hiện
hành không đưa ra khái niệm, định nghĩa cụ thể về hoàn thuế GTGT. Tuy
nhiên, có thể xem xét khái niệm hoàn thuế GTGT dưới các góc độ khác
nhau, cụ thể:
Xét dưới góc độ kinh tế - tài chính, hoàn thuế GTGT là việc nhà nước
hoàn trả lại cho doanh nghiệp một khoản tiền thuế nhất định đúng bằng với số
thuế doanh nghiệp đã nộp khi doanh nghiệp thỏa mãn các điều kiện theo quy
định của pháp luật.
Xét dưới góc độ nghiệp vụ thuế thì hoàn thuế GTGT chỉ đơn thuần là
một biện pháp kỹ thuật trong công tác hành thu thuế.
Xét dưới góc độ pháp lý thì hoàn thuế là quyền của đối tượng nộp thuế
được nhà nước trả lại một khoản tiền thuế nhất định khi có đơn yêu cầu của
doanh nghiệp và doanh nghiệp chứng minh thỏa mãn các điều kiện pháp luật
quy định. Hơn nữa hoàn thuế GTGT còn là một chế định pháp luật mà nội
dung của nó là tập hợp các quy phạm pháp luật quy định về các trường hợp
được hoàn thuế, điều kiện hoàn thuế, đối tượng được hoàn thuế, thẩm quyền
ra quyết định hoàn thuế và trình tự, thủ tục hoàn thuế…

Đây là những quan điểm về hoàn thuế GTGT nhìn từ những góc độ
khác nhau trong quá trình nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, thực tiễn pháp lý
cho thấy hoàn thuế GTGT là việc nhà nước hoàn trả lại một khoản tiền nhất
định cho đối tượng nộp thuế khi họ thỏa mãn các điều kiện pháp luật quy định.
Như vậy, hoàn thuế là việc hoàn trả lại số tiền thuế nộp thừa cho tổ
chức, cá nhân nộp thuế khi:
+ Tổ chức, cá nhân nộp thuế có số tiền thuế đã nộp lớn hơn số tiền
thuế phải nộp.
+ Tổ chức, cá nhân nộp thuế có số tiền thuế được hoàn theo quy định
của pháp luật về thuế GTGT.

14


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

Mặt khác, quá trình sản xuất, lưu thông, phân phối sản phẩm là chu
trình kinh tế có sự tham gia của nhiều chủ thể. Cơ sở sản xuất, kinh doanh chỉ
là người nộp hộ thuế GTGT nên việc hoàn thuế GTGT là một nghiệp vụ rất
quan trọng của thuế GTGT. Phạm vi đối tượng nộp thuế GTGT rộng, việc
hoàn thuế GTGT cũng diễn ra trên phạm vi rất rộng, bao hàm nhiều quan hệ
phức tạp và có sự liên hoàn giữa các đối tượng nộp thuế.
Vì thế, hoàn thuế GTGT được hiểu là trường hợp đặc biệt của khấu trừ
thuế nên hoàn thuế chỉ đặt ra đối với đối tượng nộp thuế theo phương thức

khấu trừ thuế. Các cơ sở kinh doanh trong ba tháng liên tục trở lên (không
phân biệt niên độ kế toán) có số thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết sẽ được
hoàn lại. Số thuế được hoàn là số thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết của
thời gian xin hoàn thuế. Cơ sở kinh doanh trong tháng có hàng hóa, dịch vụ
xuất khẩu, nếu có số thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu nếu
có số thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ bán trong nước thì cũng
được tính vào số thuế được hoàn trong tháng.
Về nguyên tắc, nếu trong thời kỳ nộp thuế mà thuế đầu vào được khấu
trừ không hết thì sẽ phát sinh quyền hoàn thuế. Như vậy, qua phân tích ở trên,
có thể hiểu: Hoàn thuế là hệ quả của hành vi khấu trừ thuế đầu vào, nếu số
thuế đầu vào được khấu trừ không hết thì nhà nước có nghĩa vụ hoàn thuế
cho doanh nghiệp, tức trả lại số thuế nộp thừa cho doanh nghiệp trong kỳ đó.
Nếu Nhà nước không hoànp dụng trong các trường hợp:

76


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

1. Cơ sở kinh doanh nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu
trừ thuế được hoàn thuế giá trị gia tăng nếu trong ba tháng liên tục trở lên có
số thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ hết.
2. Cơ sở kinh doanh đã đăng ký nộp thuế giá trị gia tăng theo phương
pháp khấu trừ mới thành lập hoặc có dự án đầu tư mới, đang trong giai đoạn

đầu tư có số thuế giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ mua vào sử dụng cho
đầu tư mà chưa được khấu trừ hết và có số thuế còn lại từ hai trăm triệu đồng
trở lên thì được hoàn thuế giá trị gia tăng.
3. Cơ sở kinh doanh trong tháng có hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu nếu
có số thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ từ hai trăm triệu đồng
trở lên thì được hoàn thuế giá trị gia tăng theo tháng.
Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật thuế GTGT phải thống nhất với
các quy định tại Điều 13 Luật này.
3.2.2. Về hóa đơn hoàn thuế giá trị gia tăng
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước đã có chủ trương khuyến
khích phát triển kinh tế nhiều thành phần với nhiều cơ chế, chính sách, tạo
điều kiện môi trường thuận lợi, thông thoáng cho doanh nghiệp thành lập,
hoạt động. Các cơ quan chức năng của các tỉnh, thành phố đã thực hiện cải
cách hành chính trong việc cấp phép đăng ký kinh doanh, mã số thuế, con dấu
nhằm giảm sự phiền hà cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên, lợi dụng chính sách thông thoáng này một số người đã
thành lập doanh nghiệp không có mục đích sản xuất kinh doanh mà chỉ để
mua và sử dụng hóa đơn GTGT bất hợp pháp. Theo đó, các doanh nghiệp này
tiếp tay cho các tổ chức, cá nhân khác sử dụng những hóa đơn mua bán bất
hợp pháp để hợp thức hóa chi phí đầu vào, khấu trừ thuế, chiếm đoạt tiền
hoàn thuế và kinh phí của Nhà nước.
Hóa đơn, chứng từ là vấn đề cốt lõi đặc biệt quan trọng trong hồ sơ hồ
sơ hoàn thuế GTGT, là công cụ chủ yếu để kiểm soát hoạt động giao dịch

77


kinh doanh trên thị trường. Ngoài tác dụng là một chứng từ kế toán, hóa đơn
lại giữ một vai trò rất quan trọng chi phối mọi hoạt động của doanh nghiệp,
nó luân chuyển cùng với hàng hóa, dịch vụ... Do vậy, các cá nhân, doanh

nghiệp muốn chứng minh hợp pháp hàng hóa nhập lậu, muốn tăng khống chi
phí đầu vào, tăng khống số thuế GTGT đầu vào (được khấu trừ) để gian lận
tiền thuế hoặc rút tiền từ ngân sách nhà nước, phải tìm mua hóa đơn GTGT
trên thị trường để hợp pháp hóa hàng hóa lậu.
Những nguyên nhân chính dẫn đến các hành vi lợi dụng hóa đơn,
chứng từ và bảng kê để vi phạm trong hoàn thuế GTGT, cụ thể:
Do các quy định của luật doanh nghiệp hiện hành về thủ tục thành lập
doanh nghiệp quá thông thoáng, đơn giản, không có sự kiểm tra kịp thời sau
đăng ký kinh doanh, chưa theo dõi được liên tục tình hình hoạt động của doanh
nghiệp sau đăng ký. Vì vậy, hàng ngàn doanh nghiệp không kinh doanh hoặc
đã bỏ kinh doanh nhưng không được phát hiện kịp thời, trong khi cơ quan
thuế vẫn bán hóa đơn trên cơ sở hồ sơ đăng ký kinh doanh đã được cấp.
Về thuế suất thuế GTGT: Hiện đang tồn tại 3 mức thuế suất (0%, 5%,
10%), mức thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu và một số hàng
hóa thiết yếu đối với đời sống của nhân dân. Mức thuế suất đối với một số
hàng hóa, dịch vụ vừa phân biệt theo tính chất hàng hóa, vừa phân biệt theo
công dụng nên phức tạp trong việc xác định mức thuế suất.
Thực tế có trường hợp, hai doanh nghiệp cùng mua nhựa hạt để sản
xuất, thuế suất thuế GTGT đầu vào là 10%. Doanh nghiệp A sản xuất đồ chơi
trẻ em, thuế suất thuế GTGT đầu ra là 5%. Doanh nghiệp B sản xuất các sản
phẩm tiêu dùng khác, thuế suất thuế GTGT đầu ra là 10%. Như vậy, hai
doanh nghiệp cùng sản xuất sản phẩm nhựa, nhưng doanh nghiệp A có lợi thế
cao hơn do khả năng được hoàn thuế lớn hơn. Trong đó, mức thuế suất 0% áp
dụng đối với hàng hóa xuất khẩu và một số hàng hóa thiết yếu đối với đời
sống của nhân dân.

78


Ket-noi.com

Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

Tình trạng xuất khẩu hàng hóa qua biên giới đất liền và một số trường
hợp xuất hàng cho công ty của người Việt Nam ở nước ngoài phổ biến thực
hiện thanh toán bằng tiền mặt, không phù hợp với qui định thanh toán hàng
hóa xuất khẩu, gây nhiều sơ hở lợi dụng trong kê khai hàng hóa xuất khẩu để
lấy tiền hoàn thuế của ngân sách nhà nước.
Sự phối hợp giữa các ngành, các cơ quan quản lý chưa đồng bộ, chưa
tốt như việc cấp giấy phép kinh doanh của cơ quan Bộ, Sở Kế hoạch và Đầu
tư, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố các cấp không gắn liền với việc kê khai
đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp thuế của các đơn vị với cơ quan thuế. Từ
đó, nhiều doanh nghiệp tuy có quyết định thành lập nhưng địa điểm và hoạt
động ở đâu cơ quan thuế cũng như cơ quan ban hành quyết định thành lập
doanh nghiệp cũng không tìm ra.
Xử lý các hành vi vi phạm của các cơ quan chức năng còn chậm và
chưa nghiêm là một nguyên nhân làm cho việc chiếm dụng tiền hoàn thuế
ngày càng nghiêm trọng. Cụ thể, một số doanh nghiệp được hoàn thuế GTGT
bị cơ quan thuế và công an phát hiện có sự gian lận, nhưng cho đến nay vẫn
chưa được xử lý dứt điểm với nhiều lý do như thiếu kinh phí, con người để
điều tra, xác minh hoặc tội danh chưa rõ. Đối với những trường hợp đã bị xử
lý thì mức phạt chưa nghiêm, chưa có tác dụng răn đe, giáo dục.
Về mặt quản lý nhà nước, nếu kiểm soát được hóa đơn có nghĩa là kiểm
soát được tiền và hàng trong khâu lưu thông. Hóa đơn GTGT được phát hành
rộng rãi, số lượng lớn, được sử dụng chung cho các loại hình doanh nghiệp, kể
cả các cơ quan nhà nước, hành chính sự nghiệp nên cơ quan thuế không thể

kiểm soát hết được, lợi dụng những sơ hở đó mà một số cá nhân đứng ra trục lợi.
Vì vậy, để ngăn chặn hành vi mua bán hóa đơn bất hợp pháp, phải
từng bước trả lại chức năng vốn có của hóa đơn, làm cho hóa đơn trở về với
bản chất của nó là chứng từ kế toán, và chức năng kiểm soát của hóa đơn sẽ
giao cho một cơ quan tài chính tiền tệ khác, đó là hệ thống ngân hàng và các

79


tổ chức tín dụng. Làm cho hóa đơn chứng từ trở thành công cụ thứ yếu chỉ để
ghi nhận hoạt động giao dịch kinh doanh và phục vụ cho việc hạch toán kế
toán của doanh nghiệp. Nghĩa là hóa đơn chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải là
điều kiện đủ để thanh quyết toán.
Trước mắt, đối với các doanh nghiệp hạch toán theo phương pháp
khấu trừ thì ngoài yếu tố bắt buộc phải có hóa đơn GTGT, muốn được khấu
trừ thuế hay hoàn thuế GTGT đều phải thực hiện thanh toán qua ngân hàng.
Có như vậy, thì hóa đơn GTGT sẽ trở về với bản chất thực của nó là chứng từ
kế toán và việc gian lận qua hóa đơn sẽ được hạn chế và đẩy lùi.
Khi đó, doanh nghiệp sẽ tự lựa chọn và đăng ký hình thức sử dụng hóa
đơn ngay từ khi đăng ký cấp mã số thuế, đồng thời doanh nghiệp cũng thực
hiện đăng ký hình thức sử dụng hóa đơn mà chủ yếu là hóa đơn tự in. Việc tự
in hóa đơn theo quy định nhằm xã hội hóa hoạt động phát hành hóa đơn, san
sẻ gánh nặng chi phí in ấn hóa đơn cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh. Nhà
nước quản lý các đối tượng sử dụng hóa đơn tự in thông qua chế độ đăng ký
sử dụng hóa đơn tự in. Khi sử dụng hóa đơn tự in, doanh nghiệp vừa tự quảng
bá thương hiệu của mình trên thị trường và tự chịu trách nhiệm về việc sử
dụng hóa đơn của doanh nghiệp mình, đồng thời cũng giảm tải khối lượng
công việc của các cơ quan thuế.
Vì vậy, cần tiếp tục xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện, chặt
chẽ và khả thi về việc phát hành, sử dụng, lưu thông hóa đơn vừa đáp ứng yêu

cầu quản lý, đồng thời tạo quyền tự chủ cho các doanh nghiệp trong việc sử
dụng hóa đơn, cụ thể như sau:
- Các cơ sở kinh doanh được hình thành dưới hình thức là doanh
nghiệp sẽ sử dụng hóa đơn tự in hoặc tự đặt in hóa đơn phục vụ cho hoạt động
kinh doanh.
- Cục thuế địa phương chỉ bán hóa đơn cho một số đối tượng là tổ
chức không phải là doanh nghiệp nhưng có hoạt động kinh doanh, hộ gia đình

80


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

và cá nhân kinh doanh có cơ sở tại địa phương hoặc các tổ chức không phải là
doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân không kinh doanh nhưng có phát sinh
hoạt động bán hàng hóa, dịch vụ cần có hóa đơn để giao cho khách hàng.
- Nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010, có hiệu lực thi hành
kể từ ngày 01/01/2011 đã dành hẳn Chương V quy định xử phạt vi phạm hành
chính về hóa đơn, cụ thể:
Khoản 1, Điều 33 quy định: "Phạt tiền từ 200.000 đồng đến 1.000.000
đồng đối với hành vi không ghi đủ các nội dung in sẵn khi lập hóa đơn, hoặc
ghi không đúng theo quy định tại Điều 15 Nghị định này" [13];
Khoản 1, Điều 29 quy định: "Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 5.000.000
đồng đối với hành vi đặt in hóa đơn mà không ký hợp đồng in bằng văn bản" [13];

Khoản 1, Điều 28 quy định: "Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 5.000.000
đồng đối với hành vi tự in hóa đơn, khởi tạo hóa đơn điện tử không đủ các nội
dung quy định tại khoản 3, Điều 4 Nghị định này" [13];
Khoản 6, Điều 2 quy định:
Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với
hành vi đặt in hóa đơn giả, đồng thời bị chỉ định nhà in khi đặt in
hóa đơn trong thời hạn 36 (ba mươi sáu) tháng, kể từ khi phát hiện
hành vi đặt in hóa đơn giả. Ngoài việc bị phạt tiền, tổ chức, cá
nhân vi phạm quy định tại Điều này phải hủy các hóa đơn được in
hoặc khởi tạo không đúng quy định [13].
Việc quy định xử phạt vi phạm hành chính về các vi phạm trên về hóa
đơn là cần thiết. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy các lỗi vi phạm tại Khoản 1,
Điều 33; Khoản 1, Điều 29; Khoản 1, Điều 28; Khoản 6, Điều 29 vẫn là phổ
biến, quy định mức xử phạt như trên là chưa đủ mức răn đe. Vì vậy, cần phải
quy định các mức xử phạt mạnh tay hơn đối với các vi phạm hành chính về
hóa đơn, đảm bảo rõ ràng dễ hiểu, dễ thực hiện, tạo điều kiện giảm bớt các

81


vướng mắc, tranh chấp trong quá trình thực thi. Các hình thức xử phạt này
phải đảm bảo tính nghiêm minh và có tác dụng răn đe để làm gương đối với
các hành vi vi phạm khác, cụ thể:
+ Các hành vi vi phạm hành chính về hóa đơn áp dụng đối với hành vi
không ghi đủ hoặc ghi không đúng các nội dung in sẵn khi lập hóa đơn sẽ bị
xử phạt với mức thấp nhất là 5 triệu đồng và mức cao nhất là 10 triệu đồng.
+ Các hành vi như đặt in hóa đơn mà không ký hợp đồng in bằng văn
bản; vi phạm chế độ báo cáo việc in hóa đơn theo quy định của Bộ Tài chính;
hành vi khai không đúng điều kiện để được mua hóa đơn do cơ quan thuế
phát hành hay hành vi lập hóa đơn nhưng không giao cho người mua... sẽ bị

phạt từ 10 - 20 triệu đồng.
+ Hành vi tự in hóa đơn hoặc khởi tạo hóa đơn điện tử khi không đủ
các điều kiện quy định sẽ bị phạt tiền từ 15 - 50 triệu đồng.
+ Đặc biệt, nếu tự in hóa đơn giả của doanh nghiệp sẽ bị phạt gấp hai
lần số tiền ghi trên hóa đơn, đồng thời bị phạt đình chỉ quyền tự in hóa đơn
trong thời hạn 36 tháng, kể từ khi hành vi bị phát hiện.
Mức phạt cao nhất này cũng được áp dụng đối với các hành vi: Đặt in
hóa đơn giả, in hóa đơn giả, lập hóa đơn khống, sử dụng hóa đơn lập khống.
Đồng thời, đề nghị Quốc hội bổ sung vào Bộ luật hình sự tội phạm về:
- Hành vi in ấn hóa đơn giả (hóa đơn không hợp pháp), giúp cho
doanh nghiệp khác lập hồ sơ kê khai gian lận để làm tăng thuế GTGT được
khấu trừ, được hoàn thuế là hành vi giúp sức cho việc lừa đảo chiếm đoạt tài
sản phải bị xử lý phù hợp với hành vi.
- Hành vi lập hồ sơ kê khai gian lận để làm tăng thuế GTGT được khấu
trừ hoặc tăng thuế GTGT được hoàn là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của
Nhà nước phải bị xử lý như hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Nhà nước.

82


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

- Qui định doanh nghiệp phải ứng dụng công nghệ tin học trong công
tác quản lý kinh doanh, hạch toán kế toán, qui định nguyên tắc khai thác dữ

liệu của các doanh nghiệp đối với các cơ quan quản lý Nhà nước.
3.2.3. Thanh toán qua ngân hàng
Tại điểm 1.3 mục III Thông tư số 129/2008/TT-BTC ngày 26/12/2008
đã quy định điều kiện để được hoàn thuế GTGT "có chứng từ thanh toán qua
ngân hàng đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào, trừ trường hợp tổng giá trị
hàng hóa, dịch vụ mua vào từng lần theo hóa đơn dưới hai mươi triệu đồng
theo giá đã có thuế giá trị gia tăng" [2].
Phương thức thanh toán qua ngân hàng là chủ trương lớn của Đảng và
Nhà nước. Hiện Chính phủ đang triển khai đề án "thanh toán không dùng tiền
mặt". Việc lựa chọn hình thức thanh toán là quyền của các doanh nghiệp
nhưng để được khấu trừ, hoàn thuế GTGT từ ngân sách nhà nước thì nhất
thiết doanh nghiệp phải thực hiện thanh toán qua ngân hàng.
Trong nền kinh tế hiện đại, dịch vụ thanh toán qua ngân hàng càng trở
nên có ý nghĩa quan trọng, là thước đo sức khỏe của nền kinh tế. Đặc biệt,
nhờ quá trình phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, công nghệ
điện tử và tin học vào hoạt động thanh toán đã tạo ra nhiều sản phẩm tiện ích
như: chuyển tiền điện tử, thanh toán điện tử, thanh toán thẻ, thanh toán liên
ngân hàng điện tử… mang lại hiệu quả rất lớn đối với ngân hàng, khách hàng
và nền kinh tế. Sự phát triển của dịch vụ thanh toán qua ngân hàng một mặt
ngăn chặn việc mua bán, sử dụng hóa đơn bất hợp pháp, gian lận trong khấu
trừ hoàn thuế GTGT, chống thất thu ngân sách nhà nước; mặt khác tạo điều
kiện thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa, tiền tệ, hoạt động sản xuất kinh
doanh, qua đó thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế.
Tuy nhiên, việc áp dụng quy định thanh toán qua ngân hàng ở mỗi nơi
được hiểu khác nhau. Sở dĩ có tình trạng này là do Luật thuế GTGT năm 2008
có hiệu lực từ ngày 01/01/2009 nhưng phải đến ngày 20/3/2009, Tổng cục Thuế

83



×