Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

KIẾN TRÚC cơ sở văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.5 KB, 10 trang )

BỘ MÔN CỞ SỞ VĂN HÓA
ĐÌNH BÌNH THỦY

I MỞ ĐẦU
1.1 LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đồng bằng sông Cửu Long được khai mở từ cuối thế kỷ XVII, đầu
thế kỷ XVIII. Cần Thơ lúc bấy giờ vẫn còn là vùng đất hoang sơ, “Sớm thì
chim kêu, chiều thì vượn hú,..”:
“Tới đây xứ sở lạ lùng
Con chim kêu cũng sợ, con cá vùng cũng ghê"
Ngày ấy, cả vùng đất rộng lớn này mới hình thành một số làng. Làng
Tân An ở rạch Cần Thơ. Làng Thới An ở Ô Môn. Làng Bình Thủy ở rạch
Bình Thủy,...
Làng mới được lập nên, những cơ sở phục vụ nhu cầu cộng đồng như
chợ, cầu, đường,... và các thiết chế văn hóa gắn liền với cuộc sống sinh
hoạt và đời sống tâm linh, tín ngưỡng của người dân như đình, chùa, miếu,
võ là một trong những nhu cầu thiết yếu, rất được chú trọng.
Đình Bình Thủy, Nhân dân quen gọi là “Long Tuyền cổ miếu” là một
trong những công trình kiến trúc cổ độc đáo, mang đậm dấu ấn văn minh
sông nước miệt vườn và đời sống tâm linh của cư dân miền sông nước,
được các quan chức và Nhân dân trong vùng đóng góp công sức, tiền của
xây dựng lần đầu tiên vào năm Giáp Thìn (1844)
Ngôi đình cổ này gắn liền với sự hình thành của vùng đất Trấn Giang
- Tây Đô xưa, thành phố Cần Thơ ngày nay.
1


Đình Bình Thủy đã được Bộ Văn hóa – Thông tin nay là bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia.
Mới đây, vào đầu năm 2018, Lễ hội Kỳ yên đình Bình Thủy Bộ được
công nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.


Trong khuôn khổ tiểu luận, chúng tôi mongmuốn được tìm hiểu,
nghiên cứu những giá trị kiến trúc nghệ thuật của công trình. Để từ đó hiểu
biết thêm nét sinh hoạt văn hóa tâm linh đặc sắc, góp phần khẳng định
những giá trị lịch sử, văn hóa truyền thống lâu đời của vùng đất Trấn Giang
– Tây đô xưa, thành phố Cần thơ ngày nay và đồng bằng sông Cửu Long
nói chung.
1.2 SƠ LƯỢC VỊ TRÍ
Đình Bình Thủy được xây dựng sát dốc cầu Bình Thủy, thuộc phường
Bình Thủy, quận Bình Thủy, cách trung tâm Thành phố Cần Thơ khoảng 5
km về hướng Tây Bắc.
Đình được bao quanh bởi hàng rào tứ giác: Mặt Bắc và Tây tiếp giáp
khu dân cư, cách bờ sông Hậu khoảng 200 m. Mặt Đông là bờ con rạch
Bình Thủy. Còn mặt Nam tiếp giáp tuyến đường Lê Hồng Phong.
1.3 SƠ LƯỢC VỀ NGÔI ĐÌNH
Đình Bình Thủy, còn được gọi là Long Tuyền Cổ Miếu là một trong
những ngôi đình cổ có kiến trúc, mỹ quan đặc sắc, được xây dựng sớm nhất
ở Cần Thơ.
Đây là công trình rất có giá trị về kiến trúc nghệ thuật cổ truyền của
người Việt giai đoạn khẩn hoang miền Tây Nam bộ.

II NỘI DUNG:
2


2. 1 LỊCH SỬ XÂY DỰNG ĐÌNH
2. 1.1Nguồn gốc tên gọi
Đình được dựng vào năm Giáp Thìn (1844) tại làng Long Tuyền xưa
nên được gọi là Long Tuyền cổ miếu. Ban đầu thờ Thành hoàng của làng.
Sau thờ nhiều vị tiền hiền, hậu hiền và các vị anh hùng có công khẩn
hoang, bảo vệ, giữ gìn đất nước như Trần Hưng Đạo, Đinh Công Tráng,

Nguyễn Trung Trực, Bùi Hữu Nghĩa, Võ Huy Tập...
Năm 1852, Tuần phủ Huỳnh Mẫn Đạt đi tuần thú trên một hải thuyền.
Gặp phải một trận cuồng phong, nhưng nhờ ẩn nấp vào cù lao, nay là cồn
Linh, ở vàm rạch Bình Thủy gần đình nên vô sự.
Thoát nạn, quan Tuần phủ cho tổ chức tiệc mừng để vui cùng nhân
dân địa phương. Tham quan thấy nơi đây cảnh vật hữu tình, tươi đẹp, hoa
màu xanh tốt, nước chảy êm đềm, dân chúng an cư lạc nghiệp nên đặt tên
làng là Bình Thủy. Từ đó, ngôi đình được đổi tên là đình Bình Thủy. Về
triều, Quan Tuần phủ tấu trình lên vua Tự Đức, xin ban sắc phong “Bổn
cảnh Thành Hoàng” cho làng, được vua thuận tình phê chuẩn vào ngày 29
tháng 11 năm Nhâm Tý (1852).
2. 1.2 Lịch sử xây dựng
- Lần đầu tiên (năm 1844)
Năm Giáp Thìn (1844), bão và lũ lụt hoành hành dữ dội ở làng Long
Tuyền, làm nhà cửa ruộng vườn tiêu tan, nhân dân đói rét, ly tán.
Sau trận thiên tai, nhân dân trở về làng làm ăn và lập ngôi đình bằng
tre gỗ, lợp lá tại vòm rạch Bình Thủy, để cầu nguyện thần linh phù hộ cho
mưa thuận, gió hoà, để giúp bà con yên ổn làm ăn. Từ đó, cư dân từ các nơi
tụ hội về ngày càng đông vui, sung túc.
- Lần thứ hai (năm 1853)
3


Nhận được sắc phong của nhà vua, người dân địa phương rất vui
mừng. 1853 cùng đóng góp cất lại đình.
Lần này lợp ngói. Phía trước đình xây thêm một nhà võ ca (thường
dùng để làm Nhà hát bộ, trong đó có một sân khấu nhỏ, thấp, bằng gỗ để
cho các đoàn hát đến biểu diễn cho bà con thưởng ngoạn).
- Lần thứ ba (năm 1909)
Lần này, Đình Bình Thủy được xây lại mới hoàn toàn.

Nguyên vào năm 1904, quan tri phủ Nguyễn Đức Nhuận thấy đình sắp sập,
đề nghị cất lại đình ở ngã tư trên sở đất của làng rộng 2,9 ha. Ông La Xuân
Thanh, nghiệp chủ giúp đỡ tiền và chỉ huy xây dựng. Chẳng may quan tri
phủ qua đời, công việc bị đình trệ.
Năm 1909 ông cả Nguyễn Doãn Cung cùng ông thông gia điền chủ
đồng tán thành ý kiến xây dựng lại ngôi đình tại chỗ cũ (vàm Bình Thủy)
với số tiền chung là 5.823 đồng Đông Dương.
Công trình được xây dựng theo thiết kế của ông Huỳnh Trung Trinh.
Bắt đầu từ ngày 12 tháng 7 năm 1909, đến 1910 hoàn thành.
- Lần thứ tư (trùng tu, mở rộng năm 2001)
Năm 2001, đình Bình Thuye được Nhà nước và Nhân dân đóng góp
kinh phí để trùng tu phàn lớn các hạng mục. Khuôn viên đình được mở
rộng. tổng diện tích khoảng 4,000 m2. Xây dựng mới cổng tam quan, bến
đình và san đình để người dan và du khách thuận lợi khi đến đây bằng
đường thủy và có nơi để tổ chức các trò chơi dân gian, sinh hoạt văn hóa,
văn nghệ, thể thao.
2.2 KIẾN TRÚC NGÔI ĐÌNH
2.2.1 Tổng quan
4


Đình Bình Thủy thuộc loại di tích kiến trúc tôn giáo và công trình
nghệ thuật độc đáo, được xây dựng trên khoảnh đất rộng hơn 4000 m² theo
hình chữ Nhất (-), cách bờ nam sông Hậu khoảng 200 mét.
Kiến trúc đình Bình Thủy khác rất nhiều so với kiến trúc đình ở miền
Bắc.
Đình được cất trên một nền cao ráo và có chiều sâu, nhà trước và nhà
sau đều là hình vuông nên chiều nào cũng có 6 hàng cột. Các chân cột to,
tròn và đều hơi choãi ra làm cho đình càng thêm vững chắc.
2.2.2 Mặt bằng tổng thể và kiến trúc đình

Đình Bình thủy là một công trình có giá trị về kiến trúc nghệ thuật.
Tuy được xây dựng lại vào đầu thế kỷ 20 nhưng kiến trúc của đình còn giữ
được nhiều yếu tố kiến trúc truyền thống của dân tộc.
tọa lạc trên bờ Nam sông Hậu thuộc địa bàn phường Bình Thủy.
Nền cao ráo và có chiều sâu, nhà trước và nhà sau đều có 6 hàng cột.
Trong đó bố cục với 5 gian điện thờ và 2 dãy hành lang nội bộ hai bên.
Từ ngoài vào, bắt đàu là cổng tam quan. . Lối dẫn vào đình qua hai
cổng, giữa có bức phù điêu. Mặt ngoài chạm nổi hình rồng. Mặt trong
chạm nổi kỳ lân. Khuôn viên đình khá rộng, cây cảnh xanh tốt.
2. 2.3 Nội thất và ngoại thất
Về trang trí ngoại thất: mái đình lợp ngói. Trên nóc đình, ta thấy nhà
trước hai mái chồng lên nhau, nhà chánh điện sau 3 mái chồng lên nhau
theo kiểu kiến trúc "thượng lầu hạ hiên".
Dọc trên bờ nóc đình gắn tượng đôi rồng uốn lượn tranh láy quả châu.
Quanh gác mái, gắn tượng các vị thần tiên, kỳ lân cá hóa rồng và các vật
linh,.. rất sinh động . Nhìn sang bên trái nóc đình có mảng trang trí bằng xi
măng giữa là quyển thư (tựa như cuốn thư đình được bày trí ở các đình
5


miền Bắc). Bên cạnh là giỏ lam đào và bình hoa. Bìa mái ngói dưới cùng
ốp lá xoài màu xanh đen và ống ngói cũng được bịt lại bằng sành tráng men
xanh.
Mặt trước nhà là các cột xi măng trang trí các hình hoa lá đắp nổi thật
tinh tế.
Nội thất của đình cao ráo, thoáng mát, có 6 hàng cột tròn to, chân hi
choãi ra, giúp cho tổng thể kiến trúc thêm vững chắc.
Các bộ vì kèo được kết cấu chặt chẽ, phân chia mái đình thành 5
phần. liên tiếp theo lối “thượng lầu, hạ hiên”, tương ứng với 5 gian điện
thờ bên dưới. và hai dãy hành lang nỗi bộ hai bên.

Trên các thanh xà ngang dưới mái đình, một loạt bao lam, hoành phi,
liễn đối dàn trải từ tiền đến hậu đình. . Nhiều hoa văn được chạm khắc rất
tinh xảo, sắc nhũ vàng lấp lánh nổi bật trên nền đen hoặc đỏ thẫm của sơn
son.,… Thật khó mà diễn tả hết công phu và tài nghệ tuyệt vời của các
nghệ nhân xưa. Họ đã kế thừa vốn nghệ thuật độc đáo của tổ tiên, đã đã dốc
hết tâm sức, tạo nên một công trình hoàn mỹ , được xem là một trong
những kho tàng của nền kiến trúc nghệ thuật của dân tộc.
Trong đình, các bàn thờ được bố trí như sau: Tại tòa tiền đường có
bàn thờ Nghi Hạ, Nghi Trung đặt ở gian giữa.
Nơi nhà vuông nhỏ đặt bàn thờ Nghi Thượng dùng làm lễ chính của
các ngày lễ hội.
Tiền điện là gian thờ các vị anh hùng, có công làm rạng rỡ quê hương
đất nước như: Trần Hưng Đạo, Phan Bội Châu, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn
trung Trực, Đinh Công Chánh,..
Ngoài ra còn có bàn thờ ngũ vị Nương Nương và các bàn nghi. Bên phải
tiền điện và nơi tiếp khách và hội họp của các chức sắc trong đình.
6


Chính điện là nơi thờ Bổn Cảnh Thành Hoàng. Ẩn hiện trong vầng
ánh sáng linh linh là chân dung vị thần nhân đức. Vị thần đứng sau là Đinh
Công Chánh, có nhiều công sức đóng góp cho địa phương nên được nhân
dân phong làm hậu thần.
Đôi cột hai bên chính điện được chạm trổ những cành mẫu đơn
duyên dáng, mềm mại uốn quanh. Hai cột sau là đôi rồng uốn lượng ôm lấy
thân cột.
Dọc hai bên chính điện, trái bàn thờ Hương chức Tiên Giác, bàn thờ
Hậu tiền. Bên phải đối diện là bàn thờ chức sắc Tiên Giác và bàn thờ Tiền
Hiền.
Gian hậu điện có bàn thờ Hậu thần ở giữa. Hai bên là hai bàn thờ

Hữu Bang và Tả Bang.
Bên ngoài đình có hai miếu lớn thờ thần Nông và thần Hổ, gần cổng
có hai miếu thờ thần Rừng và thần Khai kênh dẫn nước.
Tất cả các đường nét, các mảng đề tài trang trí được kết hợp tinh tế,
hài hòa, tạo nên một bản sắc riêng của ngôi đình làng ở một vùng đất mới
khai phá năm xưa.
2.3 Giá trị Kiến trúc và Văn hóa của đình Bình Thủy
2.2. 4 Các lễ hội chính
- Lễ Thượng điền
Lễ Thượng điền - Cúng Bổn Cảnh Thành Hoàng (hay còn gọi là
Thành hoàng làng là thổ thần canh giữ đất).
Lễ Thượng điền ở đình Bình Thủy được xem là lễ hội lớn nhất đồng bằng
song Cửu Long, diễn ra trong ba ngày từ ngày 12 đến ngày 14-4 âm lịch
hàng năm.
7


Đây là lễ hội cầu an, cúng tế, rước thần. Trước lia, việc đưa rước sắc
thần diễn ra trên sông bằng thuyenf rồng và bè thủy lục. Nay được thay thế
bằng long xa và các phương tiện giao thông hiện đại.
- Lễ Hạ điền
Lễ Hạ Điền chỉ tổ chức trong một ngày vào 14 tháng Chạp. nghi lễ diễn ra
như ngày đầu của lễ Thượng điền: Tế lễ, thay khăn sắc thần, cùng thần.
Các ngày lễ Thượng điền, Hạ điền thu hút hàng ngàn người dân và du
khách từ các nơi trong và ngoài thành phố cùng tụ hội về dự lễ tế, cầu bình
an, mong cho mưa thuận gió hòa, công việc ăn hanh thông, thuận lợi, mùa
màng tươi tốt. Hát bội, trình diễn các tuồng tích diễn ra hằng đêm. Nhiều
trò chơi dân gian cùng các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao được tổ
chức, tạo nên không khí rất náo nhiệt, vui tươi.
2.5 Giá trị Kiến trúc và văn hóa

2. 5.1 Giá trị kiến trúc
Đình Bình Thủy là một công trình có giá trị về kiến trúc nghệ thuật.
Tuy được xây dựng vào đầu thế kỷ 20 nhưng đình còn giữ được nhiều yếu
tố kiến trúc truyền thống của dân tộc.
Ngôi đình có những mảng chạm, những họa tiết trang trí gần gũi với
nghệ thuật dân tộc.
Nghệ thuật chạm khắc gỗ ở nơi đây hết sức tinh tế và sinh động.
Tiềm ẩn dưới mái đình này không chỉ là lịch sử truyền thống cội nguồn của
một làng cổ Nam Bộ mà còn là nơi gìn giữ những giá trị tinh hoa của văn
hóa, văn minh sông nước miệt vườn Cần Thơ nói riêng và Miền Tây Nam
Bộ nói chung.
2.5.2 Những giá trị đặc sắc về văn hóa
8


Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, đình Bình Thủy vẫn còn giữ
được nhiều yếu tố kiến trúc truyền thống của dân tộc với những mảng
chạm, những họa tiết trang trí gần gũi với đời sống con người Nam bộ. Đến
nay còn giữ được những mảng chạm, những họa tiết trang trí gần gũi với
nghệ thuật dân tộc, trở thành di sản văn hóa có ý nghĩa đặc biệt trong đời
sống văn hóa, tinh thần của người dân vùng sông nước mirtj vườn Cần thơ
và Nam bộ nói chung.
Với những giá trị văn hóa đặc sắc còn được bảo lưu, ngày 5 tháng 9
năm 1989, đình Bình Thủy đã được Bộ Văn hóa – Thông tin ban hành
Quyết định số 1570VHQĐ công nhận đình Bình Thủy là Di tích Lịch sử Văn hóa (cấp Quốc gia).
Đầu năm 2018, Lễ hội đình Bình Thủy được Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch công nhận là văn hóa phi vật thể quốc gia cần được bảo tồn.
Nhiều lễ hội, sinh hoạt văn hóa văn nghệ thường xuyên được tổ chức tại
đây như đêm thơ, các trò chơi dân gian, thi xếp trái cây, làm bánh dân gian,


Trên địa bàn thảnh phố Cần Thơ hiện có 33 di tích được xếp hạng cấp
quốc gia và thành phố. Nhiều hoạt động bảo tồn, phát huy di tích được chú
trọng thực hiện như: tìm hiểu di tích, tổ chức tham quan, chăm sóc di tích,
tổ chức kết nối, đưa du khách đến,….

III Kết luận
Hơn 100 đã năm với biết bao thăng trầm, nhưng đình Bình Thủy luôn
được các thế hệ người cần Thơ trân trọng giữ gìn bảo tồn.
Từ lâu đình Bình Thủy được xem là ngôi nhà chung của cộng đồng,
còn lưu giữ được nhiều giá trị văn hóa tín ngưỡng dân gian, thể hiện bản
sắc văn hóa của vùng quê sông nước miệt vườn Cần Thơ; đã trở thành một
9


phần hồn cốt trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân Nam bộ và
Cần Thơ nói riêng.
Đình đã được công nhận là di tích Kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia.
Lễ hội đình Bình Thủy được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa
vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
Đây cũng là một trong những điểm đến được yêu thích nhất tại đồng
bằng sông Cửu Long.
Mới đây, Thành ủy Cần Thơ đã ban hành chỉ thị về tăng cường công tác
quản lý, bảo tồn và phát huy các di tích. Đề từ đó có những giải pháp đồng
bộ bảo tồn, phát huy di tích gắn với phát triển du lịch, tạo không gian sinh
hoạt văn hóa, góp phần tạo sức thu hút cho đô thị Cần Thơ.
Hy vọng, tiểu luận sẽ góp phần làm rõ thêm giá trị kiến trúc nghệ,
cùng các giá trị lịch sử, văn hóa của đình Bình Thủy. Thể hiện tấm lòng của
thế hệ hôm nay đối với các bậc tiền hiền, hậu hiền, tạo mạch nguồn nối liền
quá khứ với hiện tại, tương lai; cũng là để tiếp nối truyền thống, góp phần
xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu hơn, đẹp hơn , đậm đà bản

sắc dân tộc./.

10



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×