Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

CƠ sở lí LUẬN về GIÁO dục DINH DƯỠNG CHO TRẺ ở các TRƯỜNG mầm NON

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.16 KB, 45 trang )

CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ GIÁO
DỤC DINH DƯỠNG CHO
TRẺ Ở CÁC TRƯỜNG
MẦM NON


- Lịch sử đề nghiên cứu vấn đề
- Các nghiên cứu về giáo dục dinh dưỡng cho trẻ em
trên thế giới
Ngay từ thời cổ đại con người đã nhận thức rằng, cách ăn
uống rất cần thiết để duy trì sức khỏe. Đại danh y Hyprocrat (460
-377 TCN), Sidengai (người Anh) đánh giá cao vai trò của ăn
uống đối với sức khỏe và bệnh tật. Hacvay đã rất chú ý đến chế
độ ăn nhằm bồi dưỡng và cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho
cơ thể và đã xây dựng lên một số thực đơn về ăn uống nhằm chữa
bệnh [6].
Vào thế kỷ XVII khoa học giải phẫu và sinh lý phát triển
nhanh. Các công trình nghiên cứu của Lavoidie (1743 - 1794) và
những người kế tục đã cho thấy vấn đề ăn ngày càng được các
nhà khoa học chú ý nổi bật là vấn đề tiêu hao năng lượng. Bên
cạnh đó công trình của Bughe và Hoopman đã nghiên cứu vai trò
của muối khoáng trong dinh dưỡng bằng các thí nghiệm trên
chuột bạch. Lunin (1853 - 1937) nghiên cứu vai trò của hợp chất
cần thiết cho sự sống ngoài Protein, gluxit, Lipid, nước, muối
khoáng còn có một số hợp chất khác nữa, tuy ít nhưng rất cần
thiết cho sự sống và sau hơn 30 năm, A. Funck phát hiện ra đó là
các vitamin [9].


Bước vào thế kỷ XX, nhiều Viện nghiên cứu, ban ngành
về nhân học đã được thành lập và có rất nhiều các công trình


nghiên cứu về vấn đề DD và GDDD. Các công trình nghiên cứu
này đã vượt xa các giai đoạn trước đó cả về chất lượng và số
lượng. Trong các nghiên cứu trên rất chú ý sự ảnh hưởng của
các điều kiện xã hội đến sự tăng trưởng và phát triển của cơ thể,
đặc biệt là cơ thể trẻ nhỏ. Tổ chức y tế thế giới đã nghiên cứu
về mối quan hệ giữa DD và sức khỏe cộng đồng năm 1925 [8].
Như vậy, trong nhiều thập kỷ qua đã có nhiều hội nghị quan
trọng bàn về vai trò của dinh dưỡng đối với cơ thể con người và
tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao vấn đề DD. Đặc biệt GDDD
trong các cấp học nhất là giáo dục bậc học Mầm non (MN) luôn
được quan tâm. Như vậy, vấn đề DD và GDDD đã và đang được
các nhà giáo dục nói chung và các nhà nghiên cứu nói riêng quan
tâm đúng đắn và trở thành trung tâm của mọi kế hoạch, chiến
lược phát triển ở từng quốc gia.
- Các nghiên cứu về GDDD cho trẻ em tại Việt Nam
Người Việt Nam từ xưa đã biết quan tâm đến thức ăn và
biết dùng thức ăn để chữa bệnh. Đặc điểm nổi bật mà cho đến
nay vẫn được lưu giữ đó là trong các món ăn dân tộc Việt Nam
là hỗn hợp nhiều loại thức ăn trong cùng một món, Mỗi loại
thức ăn trong các món ăn gồm một số chất DD với các tỷ lệ


khác nhau. Khi hỗn hợp lại thì chất thừa ở thức ăn này có thể
bổ sung cho chất thiếu ở thức ăn khác làm giá trị của món ăn
tăng lên.
Cũng như các dân tộc khác, từ ngàn đời xưa Ông cha ta đã
dày công nghiên cứu về các loại thức ăn và mối liên hệ của chúng
đối với sức khỏe con người. Khi nói đến Y học cổ truyền và dinh
dưỡng thì không thể không nhắc đến Lương y Tuệ Tĩnh (thế kỷ
XIV) và Hải Thượng Lãn Ông (hế kỷ XVIII). Cả hai vị Danh y

này có thể được coi là những nhà dinh dưỡng học đầu tiên của
Việt Nam, các công trình nghiên cứu của các Ông đều nhấn mạnh
tầm quan trọng của ăn uống trong phòng, điều trị bệnh và nâng
cao sức khỏe con người [4].
Thời kỳ Pháp thuộc việc nghiên cứu DD tập trung ở Viện
Pasteur Hà Nội. Trong đó, giáo sư M.Autret đã có nhiều đóng
góp cho ngành dinh dưỡng Việt Nam cụ thể năm 1941 ông đã
cùng với Nguyễn Văn Mậu cho xây dựng “Bảng thành phần
thức ăn Đông dương” gồm 200 loại thức ăn khác nhau.
Cũng trong thời gian này, các công trình nghiên cứu về
DD ngày càng nhiều, đặc biệt các công trình về điều tra khẩu
phần ăn của các lứa tuổi, cách chế biến thức ăn cho trẻ tại các
trường Mầm non…. Bên cạnh đó, việc giáo dục các kiến thức
về dinh dưỡng và vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh về thực phẩm cho


nhân dân ở các địa phương qua các cuộc vận động ăn chín,
uống sôi, sạch sẽ, đảm bảo vệ sinh an toàn cũng được coi trọng.
Mặt khác, nhà nước bắt đầu xây dựng các chính sách vĩ mô về
dinh dưỡng như: năm 1964, Thủ Tướng Chính phủ đã phê
duyệt việc thành lập chương trình nghiên cứu cải tiến cơ cấu
bữa ăn.
Ngoài ra, còn có một số các công trình nghiên cứu của
trung tâm nghiên cứu giáo dục MN, Viện nghiên cứu trước tuổi
học cũng có các công trình nghiên cứu về mức độ phát triển thể
lực, trí tuệ và các yếu tố liên quan như: DD, chăm sóc, giáo
dục… Các kết quả nghiên cứu này đã được triển khai và được
lấy làm cơ sở khoa học để xây dựng chương trình chăm sóc,
giáo dục trẻ MN hiện hành. Hiện nay, chương trình giáo dục
Mầm non có đề cập đến vấn đề GDDD cho trẻ mẫu giáo nhưng

còn rất chung chung, đơn giản và sơ sài, chỉ lướt qua trong
chương trình thông qua các hoạt động khác, như thông qua một
số môn học, chế độ sinh hoạt hàng ngày, chưa đề ra các mục
tiêu, nội dung, phương pháp cụ thể. Vì vậy trong thực tế vấn đề
GDDD thông qua việc tổ chức bữa ăn trưa ở trường Mầm non
và thông qua một số hoạt động khác còn gặp nhiều khó khăn và
kém hiệu quả.


“ Thế kỷ XXI với những thách thức và đòi hỏi của sự phát
triển của đất nước thì chiến lược về dinh dưỡng được coi là
một thành tố quan trọng của chiến lược phát triển bền vững”
[5]. Chiến lược này mang tính toàn diện và đã đề cập đến việc
đưa nội dung giáo dục dinh dưỡng vào trường học, đặc biệt ở
bậc học Mầm non với nhiệm vụ: “Hoàn thiện mục tiêu chương
trình giáo dục dinh dưỡng ở cấp học từ MN đến Đại học. Củng
cố và nâng cao chất lượng hệ thống nhà trẻ (đặc biệt là khu vực
nông thôn) và các nhà ăn tập thể ở trường học”[5]. Để đẩy
mạnh hoạt động DD cho trẻ Mầm non vụ GDMN đã triển khai
nhiều chuyên đề nhằm nâng cao chất lượng GDDD và
VSATTP, đồng thời mở các lớp tập huấn về phòng chống suy
dinh dưỡng trẻ từ 0 - 5 tuổi tại TP. HCM, các hội nghị phòng
chống suy dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe cho trẻ em tại Hà
Nội, lớp tập huấn phát triển mô hình phòng chống suy dinh
dưỡng ở trẻ em bậc học MN các tỉnh miền trung và Tây
nguyên… nhằm đẩy mạnh các hoạt động trong chiến lược dinh
dưỡng quốc gia, góp phần nâng cao chất lượng sức khỏe trẻ em.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu của Bộ y tế và các Vụ,
Viện còn có nhiều các công trình nghiên cứu về mức độ phát triển
thể lực, các yếu tố liên quan đến dinh dưỡng của trẻ, các biện

pháp chăm sóc, giáo dục sức khỏe cho trẻ của các trung tâm giáo


dục và các trường Đại học và Cao đẳng trong cả nước như “Khảo
sát kiến thức, thái độ, thực hành của giáo viên Mầm non về dinh
dưỡng, sức khỏe trẻ em tại Hà Nội của Nguyễn Thị Quyên,
1997”; “Một số biện pháp phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ
em 2 - 3 tuổi ở huyện Chương Mỹ, Hà Tây” của Nguyễn Thị Huệ;
“Một số biện pháp giáo dục dinh dưỡng cho trẻ mẫu giáo 5 - 6
tuổi thông qua hoạt động làm quen với môi trường xung quanh”
của Nguyễn Thị Thu Trang, 2007… Các đề tài này của các tác giả
đã nêu trên đều đề cập đến vấn đề dinh dưỡng với lứa tuổi Mầm
non. Tuy nhiên chưa đề cập sâu về vấn đề GDDD cho trẻ ở lứa
tuổi MN. Tác giả Nguyễn Thị Thu Trang nghiên cứu về vấn đề
GDDD nhưng thông qua một vấn đề đó là hoạt động làm quen
với môi trường xung quanh và cũng chỉ dừng lại ở khóa luận tốt
nghiệp.
Từ những nghiên cứu nêu trên cho thấy, vấn đề dinh
dưỡng đã được quan tâm ở nhiều cấp ngành, đã có nhiều biện
pháp can thiệp dinh dưỡng nói chung và định hướng giáo dục
dinh dưỡng nói riêng. Vấn đề GDDD cũng đã được quan tâm
và mở rộng ở nhiều tầng lớp nhân dân trong xã hội với nhiều
biện pháp khác nhau nhưng phần lớn nội dung hướng tới các
đối tượng trực tiếp chăm sóc nuôi dậy trẻ như giáo viên MN và
các bậc cha mẹ. Gần đây, vấn đề GDDD cho trẻ mẫu giáo mới


thực sự được đặt ra và quan tâm thỏa đáng. Vì vậy, đã có thêm
các công trình nghiên cứu nhằm xây dựng nội dung GDDD cho
trẻ. Trong các chương trình giáo dục trẻ MN trước đây như:

Chương trình 26 tuần, chương trình cải cách mẫu giáo đã đề
cập đến nội dung GDDD nhưng chưa cụ thể, chưa rõ ràng, chưa
hoàn thiện, chưa rõ nét về cả nội dung lẫn chương trình, mục
tiêu, phương pháp và thiếu sự xuyên suốt liên tục giữa nhà trẻ
và mẫu giáo.
Thông qua các nghiên cứu được nêu trên, chúng tôi nhận
thấy chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến bện pháp
giáo dục dinh dưỡng cho trẻ mầm non một cách tổng thể, nhất
là đối với trẻ MN khu vực thành phố Hải Phòng. Vì vậy, chúng
tôi lựa chọn đề tài này làm đề tài nghiên cứu của mình để góp
phần vào cuộc cải cách DD cho trẻ cũng như phòng chống suy
dinh dưỡng ở trẻ hiện nay mà đang được Đảng, Chính phủ và
toàn dân quan tâm.
- Một số khái niệm cơ bản của đề tài
- Khái niệm về dinh dưỡng:
“Dinh dưỡng là nhu cầu sống hàng ngày của con người,
trẻ em cần dinh dưỡng để phát triển thể lực và trí lực, người
lớn cần dinh dưỡng để duy trì sự sống và làm việc, hay nói


cách khác dinh dưỡng quyết định sự tồn tại và phát triển của
cơ thể”. Mà các đặc trựng cơ bản của sự sống là sinh trưởng,
phát triển, sinh sản, cảm ứng, trao đổi chất và năng lượng [11].
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về DD. Trong từ điển
tiếng Việt: “DD là một quá trình các tế bào, cơ quan trong cơ
thể hấp thu và sử dụng các chất cần thiết cho việc cấu tạo và
hoạt động của cơ thể”[10].
Còn theo Lê Doãn Diên, Vũ Thị Thư cho rằng “DD là
chức năng mà các cá thể sử dụng thức ăn để duy trì sự sống,
nghĩa là thực hiện các hoạt động sống như: sinh trưởng, phát

triển, vận động” [6].
Theo Nguyễn Kim Thanh, “DD học là một ngành khoa học
nghiên cứu ảnh hưởng của các chất DD đối với cơ thể con người
và xác định nhu cầu của cơ thể về chất DD nhằm giúp con người
phát triển khỏe mạnh, sinh sản và duy trì nòi giống” [25].
Vậy “DD là một quá trình phức hợp bao gồm việc đưa
vào cơ thể thức ăn cần thiết qua quá trình tiêu hóa và hấp thụ
để bù đắp hao phí năng lượng trong quá trình hoạt động sống
của cơ thể và để tạo ra sự đổi mới các tế bào và mô cũng như
điều tiết các chức năng của cơ thể” [11].


DD chiếm một vị trí rất quan trọng đối với con người đặc
biệt là trẻ em vì cơ thể trẻ em đang ở giai đoạn phát triển mạnh
mẽ vì vậy nhu cầu DD cho cơ thể là rất lớn. Trong khi đó bộ
máy tiêu hóa lại chưa hoàn chỉnh do bất cứ sai lầm nhỏ nào về
DD cung gây ra rối loạn tiêu hóa cho trẻ. Nếu cung cấp DD
không hợp lý sẽ ảnh hưởng lớn tới sức khỏe của trẻ.
- Khái niệm về Giáo dục dinh dưỡng:
“GDDD là một hoạt động giáo dục của con người nhằm
truyền đạt những các kiến thức khoa học về ăn uống, những
kinh nghiệm rút ra từ cuộc sống hằng ngày, được truyền lại từ
thế hệ này sang thế hệ khác” [11]; “Là sự tác động của khoa
học đến nhận thức của con người giúp con người có thể tự giác
chăm lo ăn uống và sức khỏe cho bản thân mình” [9].
Theo Lê Mai Hoa và Lê Trọng Sơn thì: “ GDDD là một
quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến tình cảm, lý
trí của con người nhằm thay đổi nhận thức, thái độ và hành
động để đi đến tự giác chăm lo vấn đề ăn uống và sức khỏe của
cá nhân, tập thể và cộng đồng” [9].

Mỗi khái niệm tiếp cận dưới một góc độ khác nhau nhưng
đều giống nhau ở mục đích cuối cùng là nâng cao chất lượng và
sức khỏe cho con người. Dưới góc độ sư phạm, chúng tôi nhận


thấy khái niệm: “GDDD là một quá trình tác động có mục đích,
có kế hoạch, đến tình cảm, lý trí của con người làm thay đổi
nhận thức, thái độ và hành động về DD để đi đến tự giác chăm
lo vấn đề ăn uống và sức khỏe của cá nhân, tập thể và cộng
đồng” là phù hợp với đề tài nghiên cứu [19].
Như vậy “GDDD là biện pháp can thiệp nhằm thay đổi
những tập quán thói quen và các hành vi liên quan đến DD,
nhằm cải thiện tình trạng DD trong quá trình GDDD phát triển
kinh tế xã hội. Bản thân quá trình GDDD trong nhà trường nói
chung và với trẻ MN nói riêng phải nằm trong một chiến lược
phát triển của toàn xã hội mà nó là một quá trình liên tục,
không ngừng. GDDD đòi hỏi một sự tham gia của toàn xã hội
đặc biệt là các ngành giáo dục, truyền thông, ngành sức khỏe
cộng đồng và DD” [27].
- Khái niệm về Giáo dục dinh dưỡng cho trẻ 3 – 5 tuổi
GDDD là việc làm rất cần thiết và là trách nhiệm của cả
xã hội không phải của riêng một cá nhân nào. “ GDDD đóng
vai trò quan trọng trong việc giáo dục trẻ nhất là trẻ mầm non.
Bởi lứa tuổi này nhu cầu DD rất lớn mà nhận thức, kỹ năng
của trẻ còn hạn chế. Việc GDDD giúp cho trẻ MN nói chung và
trẻ 3 – 5 tuổi nói riêng nhận thức đúng đắn về vấn đề ăn uống
và sức khỏe của bản thân mình. Qua đó giúp trẻ hình thành ý


thức tự giác thực hiện vấn đề ăn uống và chăm lo sức khỏe cho

bản thân”. Vì vậy, chúng tôi xin đưa ra khái niệm GDDD cho
trẻ 3 – 5 tuổi như sau: “GDDD cho trẻ 3 – 5 tuổi là quá trình
tác động có mục đích, có kế hoạch của nhà giáo dục đến trẻ 3 –
5 tuổi nhằm hình thành cho trẻ nhận thức, kỹ năng, thái độ để
trẻ có thể tự giác thực hiện vấn đề ăn uống và chăm lo cho sức
khỏe bản thân mình” [20].
Việc “GDDD cho trẻ ở lứa tuổi này góp phần giúp trẻ có
nhận thức, kỹ năng, thái độ đúng đắn về DD. Là cơ sở để phát
triển ở các giai đoạn tiếp theo, góp phần phát triển toàn diện
nhân cách cho trẻ”.
- Trẻ mầm non và giáo dục dinhdưỡng cho trẻ mầm
non
- Mục tiêu của giáo dục dinh dưỡng cho trẻ mầm non
Mục tiêu giáo dục thể hiện ở 3 mặt: Kiến thức, kỹ năng và
thái độ. Do đó, mục tiêu GDDD ở trẻ MN cũng cần xác định ở 3
mặt: Kiến thức, kỹ năng và thái độ.

Phát triển kiến thức

Phát triển kỹ năng


- Trẻ biết:

- Trẻ có các kỹ năng:

- Nhận biết, phân loại một số thực + Phân loại thực phẩm theo
phẩm thông thường theo 4 nhómnguồn gốc và giá trị dinh dưỡng.
thực phẩm.


+ Làm quen với một số thao tác

+ Giá trị dinh dưỡng của một sốđơn giản trong chế biến một số
thực phẩm thông thường.

món ăn, thức uống.

+ Cách chế biến một số món ăn đơn + Sử dụng một số đồ dùng trong
giản thông qua “bé tập làm nội trợ”. ăn uống.
+ Trẻ biết thực phẩm được chế biến+ Luyện tập thói quen tự phục
bằng nhiều cách khác nhau.

vụ.

+ Ích lợi của thực phẩm đối với sức+ Vệ sinh văn minh trong ăn
khỏe và ăn uống một cách vệ sinh,uống.
khoa học.
+ Một số bệnh có liên quan đến ăn
uống.

MỤC TIÊU GIÁO DỤC
DINH DƯỠNG


Phát triển thái độ
+ Hứng thú với vấn đề ăn uống
+ Chấp nhận và thử các thức ăn mới, không kén chọn các
loại thức ăn.
+ Hăng say, hào hứng với việc chế biến các món ăn
+ Thích thú tìm hiểu về DD.

+ Biết yêu quý và tôn trọng sản phẩm của lao động

- Chương trình giáo dục dinh dưỡng cho trẻ mầm non
- Chương trình cải cách giáo dục mầm non
Chương trình cải cách giáo dục MN được nghiên cứu từ
những năm 80 của thế kỉ XX và được ban hành thực hiện trên
toàn quốc vào năm 1994.
Chương trình được xây dựng dựa trên lý thuyết hoạt động,
coi hoạt động chăm sóc - GDDD cho trẻ là một trong những
hoạt động quan trọng có vai trò quyết định tới việc phát triển
toàn diện thể chất, tinh thần cho trẻ. Nội dung chương trình
được xây dựng theo những phương hướng cơ bản: Bảo vệ sức
khỏe cho trẻ, đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển, hình thành


các chức năng tâm sinh lý, thói quen và nếp sống văn minh
trong ăn uống phù hợp với từng độ tuổi, trau dồi những tình
cảm, tri thức, thói quen, thái độ cần thiết trong cuộc sống.
Nội dung chương trình được xây dựng phù hợp theo từng
độ tuổi, luôn hướng đến mục tiêu giáo dục toàn diện. Nội dung
gồm 2 phần:
Nội dung chăm sóc sức khỏe: Cân đo, theo dõi biểu đồ
tăng trưởng, chế độ dinh dưỡng phù hợp với độ tuổi.
Nội dung giáo dục được cấu trúc theo những hoạt động cơ
bản: Vui chơi, lao động, học tập với những môn học cơ bản
như: “Toán, môi trường xung quanh, âm nhạc, thể dục, tạo
hình, làm quen văn học và chữ cái”.
Chương trình cải cách không đưa ra mục tiêu cụ thể về
giáo dục dinh dưỡng và sức khỏe cho trẻ. Nội dung GDDD nằm
trong lĩnh vực chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, đề cập đến các nội

dung sau:
Dạy trẻ làm quen với một số thực phẩm thông thường và
lợi ích của nó đối với sức khỏe.
Giáo dục ý thức trong ăn uống: Trong bữa ăn chỉ cần trẻ
ăn no, ăn ngon miệng, ăn hết suất, giáo dục một số thói quen,
nề nếp ăn uống, giáo dục trẻ biết ăn đủ chất để có sức khỏe và


cách thực hiện để đạt được điều đó.
Hình thức tổ chức: Nội dung GDDD cho trẻ được tổ
chức thực hiện trong giờ ăn và thông qua các tiết học có liên
quan như: Làm quen với môi trường xung quanh, làm quen tác
phẩm văn học, tạo hình...
Như vậy, chương trình cải cách giáo dục đã có những bước
phát triển mới so với các loại chương trình trước đó, nhưng
chương trình chưa đề ra được mục tiêu, cách thức triển khai một
cách cụ thể về GDDD cho trẻ và cũng chưa đề cập và xây dựng
được hệ thống các phương pháp, phương tiện, biện pháp tổ chức,
các tiêu chí và thang đánh giá hiệu quả GDDD cho trẻ. Vì thế
khi thực hiện giáo viên gặp quá nhiều khó khăn trong việc tổ
chức, đánh giá nên chất lượng GDDD cho trẻ đạt chất lượng
chưa cao.
- Chương trình đổi mới
Chương trình đổi mới hình thức hoạt động giáo dục trẻ
mầm non
Đứng trước yêu cầu đổi mới GDMN, trong đó có đổi mới
chương trình (1997), các Chương trình chăm sóc - GDMN của
các nước Nga, Anh, NewZealand, Hàn Quốc, Israel, Singapore
đã được dịch để nghiên cứu xây dựng chương trình mới. Năm



1998, Vụ GDMN kết hợp với Trung tâm Nghiên cứu GDMN đã
tiến hành thử nghiệm đổi mới hình thức tổ chức giáo dục trẻ
mẫu giáo 5 tuổi.
Lĩnh vực GDDD được đề cập một cách tương đối cụ thể
ngay từ mục tiêu giáo dục. GDDD và sức khỏe nằm trong lĩnh
vực phát triển thể chất, được phân theo độ tuổi và có một số
tiêu chí đánh giá trẻ về lĩnh vực này. Nhiệm vụ của giáo viên
được tách ra một mục riêng, có hướng dẫn cụ thể để thực hiện
chăm sóc dinh dưỡng, bảo vệ sức khỏe và GDDD - sức khỏe
cho trẻ.
Chương trình đổi mới hình thức đã đưa ra mục tiêu
GDDD như sau:
Dạy trẻ biết cần ăn no, ăn ngon miệng, ăn hết suất hàng
ngày.
Dạy trẻ biết một số thực phẩm và lợi ích của chúng theo
ba nhóm thực phẩm: Thực phẩm giàu chất đạm; Thực phẩm
giàu chất đường, chất béo và năng lượng; Thực phẩm giàu sinh
tố, muối khoáng.
Dạy trẻ biết ăn đủ chất để có sức khỏe.
Dạy trẻ có thói quen, nề nếp ăn uống sạch sẽ, văn minh,
lịch sự.


Trong chương trình đổi mới hình thức, nội dung giáo dục
được cấu trúc theo chủ đề. Một chủ đề lớn bao gồm nhiều chủ đề
nhỏ. Kiến thức một chủ đề thường mang tính tích hợp. Điều đó
rất thuận lợi cho giáo viên lồng ghép các nội dung GDDD. Từ
mục đích yêu cầu và nội dung cụ thể của các chủ điểm nhỏ sẽ xác
định nội dung GDDD cho trẻ MN. Tuy nhiên, hiệu quả hay

không còn tùy thuộc vào năng lực sư phạm của giáo viên MN.
Nội dung GDDD bao gồm:
Nhận biết 4 nhóm thực phẩm (đạm, tinh bột, béo, vitamin
và muối khoáng)
Biết lợi ích của thực phẩm đối với cơ thể con người.
Biết ăn nhiều loại thức ăn khác nhau, ăn uống đầy đủ, hợp
lí và đủ chất.
- Hình thức giáo dục dinh dưỡng:
GDDD được lồng ghép hầu hết trong tất cả các hoạt động
của trẻ ở trường mầm non như: Hoạt động học có chủ đích,
hoạt động vui chơi, trong chế độ sinh hoạt hàng ngày...
Như vậy, chương trình đổi mới hình thức tổ chức hoạt
động giáo dục trẻ mẫu giáo đã đề cập khá chi tiết đến mục tiêu,
nội dung, hình thức GDDD cho trẻ. Tuy nhiên, chương trình vẫn
chưa đề cập đến các phương pháp, biện pháp GDDD cho trẻ, vì


vậy giáo viên sẽ gặp khó khăn khi tổ chức GDDD cho trẻ.
Chương trình đổi mới toàn diện hoạt động giáo dục trẻ
mầm non:
Tháng 10 năm 2005 chương trình GDMN được đổi mới
toàn diện (đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình
thức....). Chương trình thử nghiệm năm 1998 chính là bước
đệm để tiến tới đổi mới toàn diện chương trình chăm sóc - giáo
dục trẻ MN. Cấu trúc của chương trình đổi mới này cần đảm
bảo đủ các thành tố: “Mục tiêu, nội dung, phương pháp, các
điều kiện thực hiện chương trình và các hình thức tổ chức các
hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá...”.
Mục tiêu GDDD được đề cập trong mục tiêu phát triển
thể chất cho trẻ:

Trẻ biết lợi ích của sức khỏe, lợi ích của việc ăn uống đủ
chất, vệ sinh trong ăn uống. Cung cấp cho trẻ một số hiểu biết sơ
đẳng về các chất dinh dưỡng và ăn những thực phẩm an toàn.
Chuẩn bị tốt về sức khỏe để trẻ bước vào hoạt động học tập có
hiệu quả.
Nội dung GDDD:
Biết các nhóm thực phẩm, ích lợi của thực phẩm, cách chế
biến đơn giản, và ăn uống đầy đủ, hợp lí đảm bảo sức khỏe.


Tập làm một số công việc đơn giản tự phục vụ.
Dạy trẻ có thói quen, nề nếp ăn uống sạch sẽ, văn minh,
lịch sự.
Hình thức tổ chức GDDD:
Nội dung GDDD cho trẻ MN được cấu trúc theo chủ đề.
Kiến thức chủ đề thường mang tính tích hợp. Hình thức "mở"
này giúp giáo viên thấy rõ mối liên quan giữa các nội dung,
khái niệm và các hoạt động mang tính tích hợp trong phạm vi
chủ đề và với các chủ đề khác. Như vậy, chương trình này hỗ
trợ rất nhiều cho giáo viên MN trong việc GDDD cho trẻ mẫu
giáo nói chung. Giáo viên có thể xác định, lựa chọn và tổ chức
nhiều hoạt động một cách linh hoạt để giúp trẻ tim hiểu, khám
phá DD theo nhiều cách, phù hợp với điều kiện cụ thể. Giáo
viên có thể lồng ghép, đan cài các hoạt động để trẻ có thể "học"
qua chơi, "học" qua thực hành, nhờ đó trẻ có thể lĩnh hội kiến
thức và kĩ năng liên quan đến chủ đề, cũng như kiến thức và kĩ
năng về DD một cách tự nhiên và có được những kinh nghiệm
manh tính tích hợp cần cho cuộc sống của trẻ. Hơn nữa, điểm
ưu việt của chương trình đổi mới này là khuyến khích giáo viên
MN áp dụng sáng tạo các phương pháp dạy học khác nhau, tạo

điều kiện cho giáo viên đổi mới phương pháp dạy học, khuyến
khích giáo viên tận dụng các điều kiện sẵn có tại địa phương,


của trường/lớp và gia đình. Mặt khác, chương trình đổi mới
toàn diện nhấn mạnh vào quá trình giáo dục - dạy học (chứ
không phải là sản phẩm). Đặc điểm này rất thuận lợi cho việc
giáo viên đánh giá thường xuyên hoạt động dạy - học dựa trên
các mục tiêu, yêu cầu đề ra trong từng chủ đề. Nhưng trên thực
tế, còn rất nhiều giáo viên MN bỡ ngỡ trước sự thay đổi này,
điều đó ảnh hướng đến hiệu quả của công tác GDDD cho trẻ
MN.
- Chương trình giáo dục mầm non mới:
Chương trình này đã được nghiên cứu, xây dựng trên cơ
sở của các cách tiếp cận, những định hướng xây dựng chương
trình phù hợp với thực tiễn GDMN của Việt Nam và tiếp thu
những đổi mới về GDMN ở các nước trong khu vực và trên thế
giới. Ngày 19-09-2006, chương trình đã được lãnh đạo Bộ
GD&ĐT ký Quyết định số 5204/QĐ-BGĐT ban hành chương
trình thí điểm. Ngày 25/07/2009 Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã kí
và kèm theo thông tư số 17/2009/TT-BGDĐT, chương trình
GDMN chính thức được ban hành là chương trình khung.
Mục tiêu GDDD được để cập trong mục tiêu phát triển
thể chất:
Có khả năng nhận biết, phân biệt được những loại thực


phẩm thông thường và cách chế biến đơn giản.
Trẻ biết lợi ích của việc ăn uống và luyện tập đối với sức
khỏe, có ý thức ăn uống đầy đủ hợp lý.

Có một số nề nếp, thói quen, hành vi tốt chăm sóc và bảo
vệ sức khỏe.
Hình thức tổ chức GDDD:
Chú trọng việc kết hợp hài hoà giữa giáo dục trẻ trong
nhóm bạn với giáo dục cá nhân. Tổ chức các hình thức hoạt động
cá nhân một cách hợp lí, theo nhóm và lớp, phù hợp với tứng độ
tuổi của nhóm lớp, phù hợp với hứng thú của trẻ và với điều kiện
thực tế.
Phương pháp GDDD:
Cũng xuất phát từ yêu cầu chung, phương pháp giáo dục
phải tạo điều kiện cho trẻ được tìm tòi, trải nghiệm, khám phá
theo phương châm "chơi mà học, học bằng chơi". “Chú trọng
đổi mới tổ chức môi trường giáo dục nhằm kích thích và tạo cơ
hội cho trẻ tích cực khám phá, thử nghiệm khu vực hoạt động
một cách vui vẻ” [10].
- Phương pháp giáo dục dinh dưỡng cho trẻ mầm non:
GDDD thực chất là tác động của việc học nói chung và
khoa học ăn uống nói riêng, đến sự nhận thức của con người để


biết tự giác ăn uống và chăm lo đến sức khỏe của bản thân và
cộng đồng.
Phương pháp GDDD cho trẻ MN là cách thức làm việc của
giáo viên và trẻ có sự hướng dẫn và tổ chức của giáo viên, từ đó
giúp trẻ tiếp thu những kiến thức, kỹ năng hình thành thái độ
đúng đắn về DD và trẻ có nhu cầu ăn các chất DD.
Để GDDD cho trẻ mẫu giáo đạt hiệu quả cao, giáo viên
cần sử dụng hợp lí và kết hợp nhiều phương pháp dạy học khác
nhau. Các nhóm phương pháp có thể sử dụng trong GDDD cho
trẻ MN như sau:

Nhóm phương pháp dùng lời nói:
“ Phương pháp dùng lời nói là phương pháp sử dụng lời
nói để truyền đạt, tiếp nhận phân tích và lưu trữ thông tin, ở
đây kiến thức mang đến cho trẻ thông qua lời nói của giáo
viên. Trong GDDD, phương pháp dùng lời nói có thể coi như
một phương pháp hỗ trợ cho các phương pháp khác. Phương
pháp dùng lời nói thường gắn với phương pháp trực quan, hoạt
động thực tiễn, trò chơi...”.
Nhóm phương pháp dùng lời nói gồm 2 phương pháp chủ
yếu:
Phương pháp trò chuyện:


Được dùng nhiều trong GDDD thông qua TCHT cho trẻ.
“Là sự giao tiếp giữa cô giáo và trẻ về các vấn đề của DD
trong quá trình tham gia TCHT nhằm GDDD cho trẻ. Đây là
phương pháp rất linh hoạt, có thể tổ chức ở mọi lúc, mọi nơi,
cô giáo có thể tận dụng mọi cơ hội để trò chuyện với trẻ. Trong
TCHT phương pháp này được tận dụng tối đa khi cô giáo vận
dụng để cung cấp kiến thức về DD cho trẻ trước khi chơi”.
Phương pháp kể chuyện:
“Kể chuyện là một hình thức truyền đạt tri thức rất hiệu
quả đối với trẻ MN, những câu chuyện giáo viên sử dụng kể
cho trẻ thường chứa đựng những nội dung giáo dục được đưa
ra dưới dạng những hình ảnh sinh động, hấp dẫn gần gũi với
trẻ”.
Trong GDDD thông qua TCHT, phương pháp này chính là
cách thức giáo viên sử dụng những câu chuyện chứa đựng
những kiến thức về DD như tên gọi, đặc điểm, nguồn gốc, nhu
cầu DD của cơ thể, giá trị dinh dưỡng của các loại thực phẩm,

vai trò của DD với cơ thể để kể cho trẻ nghe trước khi đưa trẻ
vào TCHT. Từ đó, tăng hứng thú của trẻ đối với trò chơi, giúp
trẻ hiểu và liên tưởng đến những vấn đề về DD diễn ra trong
cuộc sống thật của trẻ và trẻ biết cách vận dụng vào các trò chơi
một cách hợp lý, đạt hiệu quả cao nhất.


Nhóm phương pháp trực quan - minh họa:
“Là phương pháp huy động các giác quan của trẻ tham
gia vào quá trình nhận biết, làm cho việc tiếp thu kiến thức trở
lên dễ dàng và sự ghi nhớ trở lên bền vững, chính xác. Nhóm
phương pháp trực quan được sử dụng khá phổ biến trong quá
trình GDDD cho trẻ”[8] . Nhóm phương pháp trực quan bao
gồm:
Phương pháp tổ chức cho trẻ quan sát:
“Quan sát là quá trình tổ chức cho trẻ tri giác trực tiếp
những sự vật, hiện tượng của thế giới tự nhiên có liên quan đến
DD một cách có mục đích, có kế hoạch trong thời gian nhất
định nhằm cung cấp tri thức, hình thành kỹ năng và phát triển
tính ham hiểu biết của trẻ” [8]. Trong GDDD, đối tượng cho trẻ
quan sát vô cùng phong phú, đa dạng có thể là các loại thực
phẩm, các loại rau, quả, củ..... cách bảo quản các loại thực
phẩm cách chế biến món ăn của con người...
Không chỉ tập cho trẻ quan sát các sự vật hiện tượng trong
thiên nhiên mà cần tập cho trẻ biết quan sát cuộc sống của con
người với những hành động và sự giao tiếp cụ thể của họ.
Phương pháp trình bày trực quan:
“Là phương pháp sử dụng các phương tiện trực quan như



×