Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

CƠ sở lí LUẬN về QUẢN lí dạy học môn TOÁN ở các TRƯỜNG TRUNG học PHỔ THÔNG THEO TIẾP cận NĂNG lực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.96 KB, 41 trang )

CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÍ
DẠY HỌC MÔN TOÁN Ở CÁC
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG THEO TIẾP CẬN
NĂNG LỰC


Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Việc QLDH các môn học ở trường phổ thông là nhiệm vụ
quan trọng của CBQL trong nhà trường. Vì thế, nếu có được
phương pháp quản lí tốt sẽ làm cho cả bộ máy hoạt động với hiệu
quả cao, chất lượng giáo dục được đảm bảo đáp ứng với yêu cầu
và mục tiêu đề ra, góp phần nâng cao chất lượng chung của nước
nhà.
Ở Việt Nam , giáo dục cũng đang đứng trước những xu thế
mới và những thách thức mới. Đã có nhiều công trình nghiên cứu
về hoạt động QLGD trong và ngoài nước, bên cạnh những công
trình nghiên cứu có tính chất tổng quan về QLGD thì các công
trình nghiên cứu về quản lí nhà trường, quản lí các hoạt động giáo
dục ngày chiếm vị trí quan trọng bởi đó là nơi để giáo dục và đào
tạo cho thế hệ trẻ trở thành những công dân có ích cho xã hội.
Các tác giả, các nhà nghiên cứu, các nhà QLGD như: Đặng
Quốc Bảo, Nguyễn Hữu Châu, Nguyễn Đức Chính, Đặng Bá
Lãm, Phạm Minh Hạc, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đặng Xuân Hải,
Nguyễn Thị Phương Hoa, Vũ Thị Lan Hương…đã có nhiều công
trình nghiên cứu về vấn đề quản lí giáo dục, quản lí nhà
trường,...Các công trình này đi sâu vào lí luận QLGD nói chung,


còn ở phương diện quản lí cụ thể một môn học trong đó có môn
Toán ở cấp THPT thì chưa được nghiên cứu nhiều.


Đối với môn Toán ở trường phổ thông, có một số công trình
nghiên cứu của các chuyên gia cũng đã đề cập đến phương diện
quản lí dạy học môn Toán sao cho có hiệu quả nhất. Tiêu biểu
như: Cẩm nang dạy và học môn Toán THCS của tác giả Vũ Hữu
Bình (2007); Vận dụng lí luận vào thực tiễn dạy học môn Toán ở
trường Phổ thông của tác giả Bùi Văn Nghị (2009); Tài liệu
“Khơi dậy tiềm năng sáng tạo” của GS.VS. Nguyễn Cảnh Toàn
có đề cập đến việc dạy học tính sáng tạo cho HS thông qua môn
Toán. Tài liệu “Phương pháp dạy học môn Toán” của tác giả
Nguyễn Bá Kim (2010) nói về nội dung của môn Toán, định
hướng quá trình dạy học toán, phương pháp dạy học môn Toán.
Nhìn chung các công trình này đi sâu vào lí luận QLGD,
quản lí nhà trường, quản lí các hoạt động giáo dục mà ít đề cập
đến các giải pháp cụ thể để quản lí chất lượng giáo dục của một
môn học đặc biệt là môn Toán theo tiếp cận năng lực ở các trường
THPT.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động quản lí nhà
trường, đặc biệt QL quá trình dạy học, từ việc kế thừa các kết quả
nghiên cứu đi trước, tác giả đi sâu vào nghiên cứu cơ sở lí luận,


khảo sát thực trạng trong việc dạy và học, QLDH môn Toán, từ đó
đề xuất biện pháp QLDH môn Toán theo tiếp cận năng lực ở các
trường THPT thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng.
- Một số khái niệm cơ bản
- Quản lí và quản lí giáo dục
Khái niệm quản lí
Hoạt động quản lí bắt đầu từ việc tổ chức, phân công lao
động với mục đích làm cho hiệu quả của công việc được cao hơn.
Hoạt động đó giúp cho người đứng đầu điều hành, tổ chức, phối

kết hợp với các thành viên trong tập thể cùng hướng tới mục tiêu
chung đã đề ra.
Trong các nghiên cứu khoa học, đã có rất nhiều cách tiếp cận
khác nhau về khái niệm quản lí. Sau đây là một số khái niệm
thường gặp:
Theo tác giả Trần Kiểm:
“Quản lí là những tác động hoạch định của chủ thể quản lí
trong việc huy động, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các
nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức( chủ
yếu là nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với
hiệu quả cao nhất” [25, tr.74].


Theo tác giả Bùi Minh Hiền: “Quản lí là sự tác động có tổ
chức có hướng đích của chủ thể quản lí nhằm đạt được mục tiêu
đề ra” [19].
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo:
“Công tác quản lí lãnh đạo một tổ chức xét cho cùng là thực
hiện hai quá trình liên hệ chặt chẽ với nhau: Quản và Lý. Quá
trình “Quản” gồm sự coi sóc, giữ gìn, duy trì hệ ở trạng thái ổn
định, quá trình “Lý” gồm việc sửa sang sắp xếp, đổi mới đưa vào
thế “phát triển”.[2,tr.78]
Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau, song có thể khái quát
rằng quản lí là một quá trình tác động có định hướng, có kế hoạch
để gây ảnh hưởng lên đối tượng quản lí của chủ thể quản lí nhằm
sử dụng hiệu quả các tiềm năng làm cho tổ chức được vận hành
tốt và đạt được các mục tiêu mà tổ chức đã đề ra.
Quản lí có các thành phần: chủ thể quản lí, đối tượng bị quản
lí, khách thể quản lí, mục tiêu quản lí có mối liên hệ với nhau tạo
nên hoạt động của một bộ máy.

b) Khái niệm quản lí giáo dục
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: "QLGD theo định nghĩa tổng
quát là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm


thúc đẩy công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu xã hội" [2, tr.
31].
Theo tác giả Phạm Minh Hạc:
“Quản lí giáo dục là tổ chức hoạt động dạy học. Có tổ chức
được các hoạt động dạy học, thực hiện được các tính chất của nhà
trường phổ thông Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mới quản lí được
giáo dục, tức là cụ thể hóa đường lối giáo dục của Đảng và biến
đường lối đó thành hiện thực, đáp ứng nhu cầu của nhân dân, đất
nước”[17].
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang định nghĩa:
"QLGD là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch hợp
quy luật của chủ thể QL, nhằm làm cho hệ vận hành theo đường
lối GD của Đảng, thực hiện các tính chất của nhà trường XHCN
mà tiêu điểm hội tụ là quá trình DH - GD thế hệ trẻ, đưa GD tới
mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất" [32, tr. 35].
Từ những khái niệm trên, tác giả có thể khái quát như sau:
QLGD là những tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức, hợp
quy luật của chủ thể quản lí đến đối tượng QL nhằm đạt được mục
tiêu GD đã đề ra một cách có chất lượng và hiệu quả nhất.
c) Các chức năng quản lí giáo dục


Bản chất của quá trình quản lí giáo dục được thể hiện ở các
chức năng quản lí. Các công trình nghiên cứu về khoa học quản lí
trong những năm gần đây đưa đến một kết luận tương đối thống

nhất về 4 chức năng cơ bản của quản lí, đó là:
Kế hoạch hóa: là xác định mục tiêu của tổ chức, xác định các
nguồn lực, các biện pháp và cách thức để hoàn thành được mục
tiêu đề ra.
Tổ chức: Bao gồm tổ chức bộ máy và tổ chức công việc, là
quá trình biên chế, cơ cấu và sắp xếp nguồn nhân lực cho phù hợp
để thực hiện tốt các mục tiêu đề ra.
Chỉ đạo thực hiện: là quá trình tác động ảnh hưởng hành vi,
thái độ đến những người khác để họ phục tùng và làm việc đúng
với kế hoạch, đúng với nhiệm vụ được phân công nhằm đạt tới
các mục tiêu với chất lượng cao; tạo động lực để con người tích
cực hoạt động bằng các biện pháp động viên, khen thưởng kể cả
trách phạt.
Kiểm tra: Là thu thập thông tin ngược để kiểm soát hoạt
động của bộ máy nhằm điều chỉnh kịp thời các sai sót, lệch lạc để
bộ máy đạt được mục tiêu của tổ chức.


Thông tin là một yếu tố rất quan trọng, rất cần thiết cho các
chức năng trên. Thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời là một căn
cứ để hoạch định kế hoạch; thông tin và chuyển giao thông tin
phục vụ cho hoạt động quản lí, thông tin tạo mối liên hệ giữa các
bộ phận với nhau trong tổ chức; thông tin định hướng cho các
quyết định quản lí và là nguyên liệu cho các quyết định quản lí,
thông tin được chuyển tải và phản hồi từ nhà quản lí đến các cá
nhân, các bộ phận trong tổ chức và ngược lại. Nhờ thông tin, các
cá nhân và tổ chức có cơ sở để xem xét, đánh giá các hoạt động
đang diễn ra đạt được mức độ nào để có sự điều chỉnh kịp thời
nhằm được mục tiêu để ra.
Các chức năng nêu trên thành lập chu trình QL. Chủ thể QL khi

triển khai hoạt động QL đều thực hiện chu trình này. (Xem sơ

Chức năng chỉ đạo thực hiện
Chức năng kiểm tra
Chức năng kế hoạch hóaChức năng tổ chức

đồ 1.1)
Thông tin phục vụ quản lí

-Chu trình quản lí
d) Nội dung của quản lí giáo dục


Gồm các vấn đề cơ bản sau: Xây dựng chiến lược và quy
hoạch phát triển giáo dục; xây dựng và thực hiện các chính sách
phát triển giáo dục. Ban hành, tổ chức thực hiện các văn bản, quy
phạm pháp luật về giáo dục, ban hành điều lệ nhà trường. Các quy
định về chương trình, nội dung giảng dạy, các mục tiêu, các tiêu
chuẩn về cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học, tiêu chuẩn nhà
giáo,… Tổ chức bộ máy quản lí giáo dục, chỉ đạo thực hiện việc
đào tạo, bồi dưỡng các bộ quản lý – giáo viên.
- Khái niệm quản lí nhà trường
Nhà trường là một đơn vị cấu trúc cơ sở của hệ thống GD
quốc dân; là cơ quan GD chuyên biệt, nơi chủ yếu thức hiện chức
năng, nhiệm vụ của GD, thể hiện vai trò chủ đạo, so với các hình
thức GD khác.
Quản lí trường học là một trong những nội dung quan trọng
của hệ thống QLGD nói chung. Tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng:
"QL nhà trường là thực hiện đường lối GD của Đảng trong
phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành

theo nguyên lý GD để tiến tới mục tiêu GD, mục tiêu đào tạo đối
với ngành GD, với thế hệ trẻ và với từng học sinh" [17].
Quản lí nhà trường bao gồm hai loại quản lí


Thứ nhất, tác động của những chủ thể quản lí bên trên và bên
ngoài nhà trường. Thông qua nhà trường, các cơ quan QLGD cấp
trên tác động vào quản lí nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện cho
mọi HĐDH, học tập, giáo dục của nhà trường.
Thứ hai, tác động của các chủ thể quản lí bên trong nhà
trường. Quản lí nhà trường do chủ thể quản lí bên trong nhà
trường gồm các hoạt động quản lí đội ngũ, cán bộ, nhân viên; giáo
viên; học sinh; quản lí quá trình dạy học; cơ sở vật chất, các trang
thiết bị, tài chính;…
b) Nội dung công tác quản lí trong nhà trường
Thứ nhất, quản lí toàn bộ cơ sở vật chất và thiết bị nhà trường
nhằm phục vụ tốt nhất cho việc giảng dạy, học tập và giáo dục
học sinh. Bảo quản và phát huy tốt năng lực của chúng, đồng
thời bổ sung thêm những thiết bị mới và có giá trị.
Thứ hai, quản lí tốt nguồn tài chính hiện có của nhà trường theo
đúng nguyên tắc quản lí tài chính của Nhà nước và của ngành.
Đồng thời biết động viên, thu hút các nguồn lực khác nhằm xây
dựng cơ sở vật chất, mua sắm thiết bị phục vụ HĐDH.
Thứ ba, tổ chức đội ngũ giáo viên, cán bộ công nhân viên và
tập thể học sinh thực hiện tốt các nhiệm vụ của nhà trường. Xây
dựng tập thể sư phạm đoàn kết nhất trí, gương mẫu và hợp tác
tương trợ nhau làm việc. Chỉ đạo tốt các hoạt động chuyên môn


theo chương trình của Bộ, cải tiến các phương pháp giáo dục để

chất lượng dạy và học ngày một nâng cao.
Thứ tư, điều quan trọng nhất trong QLGD là quản lí chuyên
môn. Cần có các biện pháp quản lí phù hợp để các bộ phận, các
tổ chuyên môn hoạt động tốt và có hiệu quả nhất.
Thứ năm, chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của tập
thể giáo viên, nhân viên. Quản lí tốt việc học tập của HS theo
quy chế của Bộ GD & ĐT. Bao hàm cả quản lí thời gian, chất
lượng, tinh thần thái độ và phương pháp học tập.
- Quản lí dạy học
Hoạt động dạy - học
Hoạt động: theo Từ điển bách khoa: Hoạt động là phương pháp
đặc thù của con người quan hệ với thế giới xung quanh nhằm
cải tạo thế giới theo hướng phục vụ cuộc sống của mình. Chủ
thể của hoạt động là con người, khách thể hoạt động này là tất
cả những gì mà hoạt động tác động vào, qua đó tạo ra sản phẩm
thoả mãn nhu cầu của chủ thể. Hoạt động bao giờ cũng có đối
tượng và phải do chủ thể tiến hành thao tác hoạt động, vận
hành theo nguyên tắc nhất định.
Hoạt động dạy: là quá trình truyền thụ và lĩnh hội những kĩ
năng, kĩ xảo và PP nhận thức của con người. Dạy học là quá
trình hoạt động hai mặt do thầy giáo (dạy) và người học (học)


nhằm thực hiện các mục đích dạy học …
Hoạt động học: là hoạt động nhằm tạo ra sự thay đổi kinh
nghiệm cơ bản của người học một cách bền vững và quan sát
được.
b) Quản lí hoạt động dạy
Quản lí hoạt động dạy chính là tập hợp các biện pháp tác
động của chủ thể quản lí đến tập thể giáo viên, học sinh,

… nhằm tranh thủ các nguồn lực vốn có, huy động và sử
dụng có hiệu quả, tạo động lực thúc đẩy quá trình dạy học
của nhà trường nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà
trường theo nhiệm vụ, yêu cầu trong năm học. Quản lí
hoạt động dạy là quản lí sự lao động của các cán bộ quản
lí, giáo viên, giảng viên, nhân viên và người học trong nhà
trường. Trên cơ sở pháp lý và thực tiễn, người Hiệu
trưởng cần thực hiện các chức năng quản lí trong quản lí
hoạt động dạy học, cụ thể là: phải xây dựng kế hoạch năm
học; phải hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy HĐ trong nhà
trường; chỉ đạo việc thực hiện mục tiêu, chương trình dạy
học; chỉ đạo xây dựng nền nếp dạy học. Ngoài ra, Hiệu
trưởng cần chỉ đạo các hoạt động bồi dưỡng năng lực sư
phạm cho GV; Tạo sự gắn kết và phối, kết hợp giữa các cá
nhân với bộ phận; chỉ đạo việc đổi mới PPDH; chỉ đạo


hoạt động KT-ĐG kết quả DH và kế hoạch thực hiện
nhiệm vụ năm học.
c) Mục tiêu quản lí hoạt động dạy
Quản lí hoạt động dạy học có mục tiêu đảm bảo thực hiện đầy
đủ các kế hoạch, đào tạo, chương trình và nội dung giảng dạy
theo đúng tiến độ, thời gian quy định; đảm bảo hoạt động dạy
học đạt chất lượng, hiệu quả cao.
d) Nội dung quản lí hoạt động dạy
Gồm hai nội dung chính: Quản lí mục tiêu, nội dung dạy học và
quản lí chất lượng.
- Quản lí dạy học môn Toán
Quản lí hoạt động dạy học môn Toán là quá trình người
CBQL quản lí hoạt động giảng dạy của giáo viên Toán,

quản lí hoạt động học tập môn Toán của người học, quản
lí cơ sở vật chất, phương tiện, đồ dùng dạy học và các
điều kiện phục vụ dạy học môn Toán mà trong đó quản lí
hoạt động giảng dạy của giáo viên Toán và quản lí hoạt
động học tập môn Toán của học sinh là quan trọng nhất.
Quản lí hoạt động dạy học môn Toán gồm các công việc
cụ thể như sau: Quản lí việc phân công trong chuyên môn,


quản lí việc xây dựng và điều chỉnh kế hoạch thực hiện
việc dạy học môn Toán; quản lí việc tổ chức, chỉ đạo thực
hiện các kế hoạch sau khi đã được tổ Toán thống nhất và
phê duyệt; Tổ chức hướng dẫn và triển khai cho giáo viên
dạy Toán nắm bắt các yêu cầu chung về: nội dung,
phương pháp, phương tiện dạy học, các hình thức tổ chức
dạy và học, cách đánh giá kết quả dạy và học môn Toán ở
trường THPT; Kiểm tra việc thực hiện quy chế chuyên
môn của cá nhân, tổ chuyên môn và theo dõi việc thi đua
ở tổ chuyên môn đó; Kiểm tra việc đánh giá và xếp loại
kết quả học tập của học sinh đúng quy chế chuyên môn;
Quản lí việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học và
ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học bộ môn
Toán; quản lí các hoạt động nâng cao bồi dưỡng học sinh
giỏi, phụ đạo cho học sinh yếu, kém.
Quản lí hoạt động học tập của học sinh bao gồm: quản lí ý
thức thái độ, việc thực hiện các quy chế, nền nếp trong
học tập, quản lí kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học
sinh,...
- Khái niệm năng lực
Khái niệm về năng lực



Năng lực là một khái niệm trừu tượng, đa nghĩa, do đó, có
nhiều cách phát biểu về khái niệm năng lực. Có thể phân làm
hai nhóm chính:
Nhóm lấy dấu hiệu về các yếu tố tạo thành khả năng hành động
để định nghĩa: “Năng lực là khả năng vận dụng những kiến
thức, kinh nghiệm, kĩ năng, thái độ và hứng thú để hành động
một cách phù hợp và có hiệu quả trong các tình huống đa dạng
của cuộc sống.” (Đinh Quang Báo, 2012); “Năng lực của một
người trong một lĩnh vực nào đó không phải tự nhiên mà có,
mà phần lớn là do công tác, do luyện tập mới có được.”
Nhóm lấy dấu hiệu tố chất về tâm lý để định nghĩa: “Năng lực
là một thuộc tính tích hợp của nhân cách, là tổ hợp các đặc tính
tâm lý của cá nhân phù hợp với những yêu cầu của một HĐ xác
định, đảm bảo cho HĐ đó có kết quả tốt đẹp.”, “Năng lực được
xây dựng trên cơ sở tri thức, thiết lập qua giá trị, cấu trúc như là
các khả năng, hình thành qua trải nghiệm, củng cố qua kinh
nghiệm, hiện thực hóa qua ý chí.”
Tóm lại, năng lực là khả năng tổ chức và kết hợp một cách hợp
lí các kiến thức, kỹ năng, thái độ, động cơ của chủ thể nhằm
giải quyết một cách có hiệu quả các yêu cầu được đặt ra trong
một tình huống, bối cảnh nhất định. Đặc điểm của năng lực là
đề cập đến xu thế đạt được một kết quả nào đó của một công
việc cụ thể do con người thực hiện. Biểu hiện rõ nhất của năng


lực là biết sử dụng các kiến thức và kĩ thuật của cá nhân để giải
quyết vấn đề trong một tình huống cụ thể chứ không phải là
tiếp thu lượng tri thức rời rạc

b) Năng lực chung
Năng lực chung là những năng lực cơ bản, cốt lõi nhất cần phải
có, chúng làm nền tảng cho các hoạt động của con người trong
cuộc sống, trong lao động và học tập như: các năng lực về nhận
thức, tư duy, giao tiếp, vận động,…Các năng lực này được hình
thành và phát triển dựa trên các yếu tố: bẩm sinh và di truyền;
môi trường giáo dục; quá trình giáo dục thông qua các hoạt
động trải nghiệm sáng tạo, sự nỗ lực phấn đấu của bản thân
trong cuộc sống nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiều loại hình
khác nhau.
c) Hình thành các năng lực Toán
Có nhiều quan điểm xây dựng chuẩn các năng lực trong dạy
học từng môn học, qua việc nghiên cứu và phân tích các nhóm
năng lực và đặc điểm của môn Toán, cho thấy môn Toán có vai
trò rất quan trọng góp phần hình thành cả những năng lực cốt
lõi và phi cốt lõi. Thông qua học tập môn Toán, người học có
thể trực tiếp hình thành các năng lực: giải quyết vấn đề; tư duy;
sử dụng công nghệ thông tin; sử dụng ngôn ngữ, kí hiệu Toán;


tính toán; thực hành trong Toán học; vận dụng kiến thức Toán
vào thực tiễn; quan sát; tập trung chú ý,…
Năng lực giải quyết vấn đề: HS biết xác định rõ vấn đề cần giải
quyết, biết chuyển vấn đề thực tiễn thành dạng có thể khám
phá, giải quyết được; Thu thập thông tin, phán đoán, phân tích,
xử lý thông tin và lựa chọn được các phương án giải quyết án
tối ưu; Đánh giá cách làm của mình và đề xuất cải tiến mong
muốn.
Năng lực tư duy: Biết phán đoán, hình thành và kết nối các ý
tưởng, đưa ra các giải pháp phù hợp trước sự thay đổi của bối

cảnh; biết lường trước các khó khăn để có những phương án dự
phòng, xem xét từ nhiều góc độ khi tìm kiếm giải pháp và triển
khai các ý tưởng; Lập luận về quá trình suy nghĩ, xem xét các
quan điểm trái chiều và phát hiện các điểm hạn chế trong quan
niệm của mình; xác định, lập kế hoạch áp dụng vào hoàn cảnh
mới.
Năng lực sử dụng công nghệ thông tin: Sử dụng một số phần
mềm chuyên dụng để mô hình hóa các kết quả xảy ra.
Năng lực sử dụng ngôn ngữ và kí hiệu Toán: Sử dụng ngôn ngữ
khoa học để diễn tả quy luật; Sử dụng bảng biểu, đồ thị để diễn
tả, phân tích các mẫu số liệu; Đọc hiểu được đồ thị bảng biểu;
Thu thập, xử lý và lập được bảng mô tả bảng số liệu thu thập
được; Vẽ được đồ thị từ bảng số liệu cho trước; Đưa ra các lập
luận lô-gic, biện chứng.


Năng lực tính toán: Phát hiện được các quy luật và đưa ra các
công thức toán học cho các quy luật; Sử dụng các kiến thức và
kĩ năng toán học cơ bản để làm nền tảng cho việc phát triển các
năng lực chung cũng như năng lực riêng đối với môn Toán; Suy
luận từ kiến thức đã biết ra hệ quả hoặc kiến thức mới.
Năng lực thực hành trong Toán học: Sử dụng thành thạo các đồ
dùng học tập; Tiến hành thực hiện các dự án, thu thập kiến thức
cơ bản để hiểu được các quy luật tự nhiên; Sử dụng thành thạo
các chức năng của máy tính để hổ trợ giải quyết nhanh các vấn
đề trong Toán học.
Năng lực vận dụng kiến thức Toán vào thực tiễn: hiểu được
nguồn gốc thực tiễn, thấy được ứng dụng rộng rãi của toán học
trong các lĩnh vực đời sống xã hội. Biết cách sắp xếp, làm việc
khoa học, có kế hoạch, hệ thống, có thói quen thích tìm tòi,

khám phá, biết tự lập và hợp tác nhóm có hiệu quả trong học
tập.
Việc hình thành, phát triển và đánh giá các năng lực này như
một chỉnh thể là việc làm hết sức khó khăn và đòi hỏi có thời
gian. Do đó cần tiếp tục chia nhỏ các năng lực trên thành các
năng lực thành phần. Khi muốn đánh giá một năng lực, ta cần
làm rõ nội hàm của nó bằng cách chỉ ra những kiến thức, kĩ
năng và thái độ cần có làm nền tảng cho việc thể hiện, phát
triển năng lực đó, sau đó xây dựng các công cụ đo kiến thức, kĩ


năng, thái độ.
d) Phát triển năng lực của học sinh trong dạy học Toán bậc
Trung học phổ thông
Việc dạy học thay vì chỉ hướng tới mục tiêu cung cấp tri thức,
kĩ năng, kĩ xảo và thái độ tích cực ở học sinh thì dạy học theo
hướng tiếp cận năng lực học sinh còn hướng tới mục tiêu xa
hơn đó là dựa trên cơ sở kiến thức, kĩ năng được hình thành,
phát triển khả năng thực hiện các hành động có ý nghĩa đối với
học sinh (sáng tạo, hợp tác,…).
Việc dạy học định hướng tiếp cận năng lực về bản chất là coi
trọng thực hiện mục tiêu dạy học hiện tại ở các mức độ cao
hơn, thông qua việc yêu cầu học sinh vận dụng những kiến
thức, kĩ năng để giải quyết các tình huống thích hợp trong hoàn
cảnh phức hợp và có biến đổi trong học tập, trong nhà trường,
ngoài nhà trường và trong thực tiễn
- Tiếp cận năng lực
Hiện tại có nhiều kiểu định nghĩa khác nhau, nhưng tựu
trung lại có thể hiểu: Tiếp cận năng lực trong giáo dục tập
trung vào năng lực hành động, nhắm tới những gì người

học dự kiến phải làm hơn là nhắm tới những gì mà họ cần
phải học được.


- Lí luận về dạy học môn Toán theo hướng tiếp cận năng lực
- Mục tiêu dạy học môn Toán theo hướng tiếp cận năng lực
Trong bối cảnh đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đổi mới
chương trình và sách giáo khoa thì mục tiêu dạy học môn Toán
một mặt kế thừa những giá trị cối lõi đã định hình, một mặt thể
hiện những yêu cầu mới. Những yêu cầu mới đặt ra theo tiếp
cận năng lực được phản ánh ở các lĩnh vực mục tiêu bộ phận.
Mục tiêu kiến thức: Ngoài các yêu cầu về mức độ như nhận
biết, tái hiện kiến thức cần có những mức độ cao hơn như vận
dụng kiến thức trong các tình huống cụ thể, giải quyết các
nhiệm vụ, các vấn đề gắn với thực tế.
Mục tiêu kĩ năng: Yêu cầu HS đạt được ở mức độ phát triển kĩ
năng thực hiện các hoạt động đa dạng. Các mục tiêu này đạt
được thông qua các hoạt động trong và ngoài nhà trường: Biết
quan sát các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, trong đời sống
hằng ngày; biết điều tra, sưu tầm, tra cứu, nghiên cứu tài liệu từ
các nguồn khác nhau để thu thập và xử lý thông tin cần thiết
cho việc học tập môn Toán. Sử dụng được các dụng cụ, đồ
dùng học tập phổ biến của Toán học. Biết phân tích, phán đoán,
tổng hợp, trình bày và xử lí các mẫu số liệu, thông tin thu được
để rút ra kết luận, đưa ra các dự đoán về các mối quan hệ hay
về bản chất của các sự vật, hiện tượng. Biết mô tả, giải thích,


giải các bài tập Toán và giải quyết các vấn đề đơn giản trong
thực tiễn ở mức độ phổ thông.

Mục tiêu thái độ: Học sinh có thái độ tích cực, có hứng thú học
bộ môn, có thái độ khách quan, trung thực, cẩn thận, tỉ mỉ và
chính xác, có tinh thần hợp tác làm việc nhóm trong việc học
tập bộ môn Toán. Hình thành tác phong sống và làm việc theo
kế hoạch, tuân thủ các quy trình; có ý thức vận dụng Toán học
vào đời sống để cải thiện điều kiện sống, học tập và giữ gìn môi
trường sống tự nhiên; Biết trân trọng những đóng góp Toán học
của những người đi trước, gìn giữ và phát huy các thành quả,
những đóng góp cho sự tiến bộ của xã hội.
- Phương pháp và nội dung tổ chức dạy học nhằm phát triển
năng lực môn Toán
Thực hiện đổi mới PPDH và KT-ĐG giúp phát huy tính tích
cực chủ động sáng tạo của học sinh, gắn hoạt động trí tuệ với
hoạt động thực tiễn, nâng cao năng lực giải quyết vấn đề gắn
với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp. Dạy học
theo chuẩn kiến thức và kĩ năng, phù hợp với từng đối tượng
HS, phát huy tối đa hiệu quả thiết bị dạy học, nâng cao được
chất lượng bộ môn. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi
mới giao tiếp giữa HS và GV theo hướng cộng tác có ý nghĩa
quan trọng nhằm phát triển năng lực của HS.


Trong dạy học Toán, các phương pháp và hình thức dạy học
thường được sử dụng trong việc phát triển năng lực chung và
năng lực chuyên biệt môn Toán có thể nêu ra ở đây như: “Phát
hiện và giải quyết vấn đề”; “Kiến tạo”; “Lí thuyết tình huống”
“Dựa trên vấn đề”; “Dạy học phân hóa”; “Bàn tay nặn bột”;
dựa trên tìm tòi, hợp tác, khám phá khoa học; nghiên cứu tình
huống; ngoại khóa; dự án học tập. Trong đó, PPDH “Dựa trên
vấn đề” có mối liên hệ chặt chẽ với việc phát triển năng lực

chung và năng lực môn Toán theo các mức độ khác nhau trong
môi trường lớp học cũng như ngoài thực tiễn. Vì vậy, việc
giảng dạy phải đi kèm với nghiên cứu, phám phá, tìm tòi, mở
rộng các hình thức tổ chức dạy học và cải tiến, bổ sung các
phương tiện, đồ dùng dạy học.
- Lí luận về dạy học theo định hướng phát triển năng lực của
học sinh trong dạy học môn Toán ở trường Trung học phổ
thông
Quy trình tổ chức hoạt động dạy học theo định
hướng phát


triển năng lực môn Toán: Căn cứ vào mục tiêu của
việc PTNL cho học sinh trong Toán có thể xây
dựng quy trình tổ chức PTNL môn Toán cho HS
gồm 5 bước sau:
Xác định các năng lực và mục tiêu cần đạt của năng lực

Xác định PP và hình thức tổ chức DH
Lập kế hoạch DH

Chuẩn bị lên lớp

Tổ chức HĐDH

Lên lớp

Kiểm tra, đánh giá quá trình thực hiện

Sau khi lên lớp


- Quy trình tổ chức dạy học theo hướng phát triển năng lực
môn Toán cho học sinh
Bước 1: Xác định các năng lực và mục tiêu cần đạt của
năng lực:
Trong quá trình DH giáo viên dựa vào mục tiêu và nội
dung của bài học để đưa ra các năng lực cụ thể mà HS cần đạt


được để các em có định hướng trong quá trình hoạt động.
Bước 2: Xác định PP và hình thức tổ chức DH:
Hiện nay, trong nhà trường phổ thông các PPDH thường
được sử dụng đó là: DH phát hiện và giải quyết vấn đề, DH dựa
trên tìm tòi khám phá, DH dựa trên vấn đề,...Các hình thức DH
được áp dụng trong việc tổ chức DH theo hướng PTNL cho HS
có thể nêu ra ở đây là: DH dự án, DH phân hóa, DH theo tình
huống,...Vì vậy tùy theo yêu cầu của bài học, GV lựa chọn các
phương pháp và hình thức dạy học phù hợp.
Bước 3: Lập kế hoạch DH:
Lập kế hoạch DH có một vai trò đặc biệt quan trọng, lập
kế hoạch bài học theo hướng DH tích cực giúp cho giờ học phát
huy được tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo của cả GV
và HS. Dạy và học tích cực sẽ giúp cho HS tự lực chiếm lĩnh tri
thức, ND học tập, chủ động đạt được các mục tiêu kiến thức, kĩ
năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình. Vì thế, đòi hỏi
người GV phải đóng vai trò là người tổ chức, thiết kế, hướng
dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ trong hoạt động
dạy học.
Bước 4: Tổ chức HĐDH:



Việc tổ chức HĐDH nhằm triển khai kế hoạch đã được lập
trước đó, đồng thời có những bước điều chỉnh phù hợp trong
quá trình thực hiện nhằm hướng tới hoàn thành đúng mục tiêu
của bài dạy học. Trong đó, ba yếu tố: người dạy – người học và
môi trường luôn tương tác lẫn nhau, đòi hỏi người dạy phải biết
khéo léo tổ chức cho học sinh khai thác yếu tố môi trường, làm
cho việc dạy học gắn liền với cuộc sống, được như vậy sẽ làm
tăng tính hứng thú cho học sinh và điều đó sẽ dẫn đến kết quả
có thể thành công ngoài mong đợi.
b) Nội dung hoạt động dạy học theo định hướng phát triển
năng lực môn Toán
Bảo đảm thực hiện đầy đủ các kế hoạch đào tạo, các mục
tiêu, chương trình, nội dung giảng dạy theo đúng tiến độ thời
gian quy định.
Bảo đảm quá trình DH đạt chất lượng cao; thực hiện theo
đúng quy chế chuyên môn; các kế hoạch, hồ sơ giáo án phải
đảm bảo theo quy định chung của các cấp.
Nắm vững chương trình, nội dung và phạm vi kiến thức
của môn học, cấp học; Dạy đúng, đủ các môn học theo quy
định của phân phối chương trình, tổ chức DH theo chuẩn kiến
thức, kĩ năng của môn học.


×