Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

CƠ sở lí LUẬN về QUẢN lý HOẠT ĐỘNG GIÁO dục kỹ NĂNG SỐNG CHO học SINH TRUNG học PHỔ THÔNG THEO TIẾP cận có sự THAM GIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.85 KB, 44 trang )

CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÝ
HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ
NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
THEO TIẾP CẬN CÓ SỰ
THAM GIA


-Tông quan nghiên cứu vấn đề
Các nghiên cứu về KNS, giáo dục KNS cho h ọc
sinh trung học phô thông
Xã hội ngày càng phát triển và sự thay đổi về kinh tế,
văn hóa, xã hội làm nảy sinh những vấn đề phức tạp trong xã
hội. Xã hội hiện đại nếu chỉ có kiến thức, thái độ sống tích
cực mới đạt được 50% thành công, còn lại 50% là kỹ năng
sống. KNS góp phần nâng cao chất lượng sống, giảm thiểu
các tệ nạn xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển...vì vậy kỹ năng
sống là thuật ngữ hiện nay cả xã hội đều quan tâm.
Năm 1996 UNICEF thông qua chương trình “ Giáo dục
kỹ năng sống để bảo vệ sức khỏe và chống HIV/AIDS cho
thanh niên trong và ngoài nhà trường”. Tuy nhiên đến năm
2003 UNICEF tài trợ giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, từ
đó giáo dục kỹ năng sống bắt đầu được quan tâm.


Chương trình Hành động Dakar ( họp tại Senegan năm
2000) đã yêu cầu “ Mỗi quốc gia phải đảm bảo cho người học
được tiếp cận chương trình giáo dục KNS phù hợp” (mục tiêu
3) và “ Khi đánh giá chất lượng giáo dục cần phải đánh giá kỹ
năng sống của người học ” ( mục tiêu 6). [ 36]
Khái niệm kỹ năng sống được hiểu với nội hàm đầy đủ


sau hội thảo “ Chất lượng giáo dục kỹ năng sống ” do
UNESCO tài trợ được tổ chức 10/2003 tại Hà Nội. Kỹ năng
sống và giáo dục KNS cho lứa tuổi thanh thiếu niên được sự
quan tâm rất nhiều của các nhà nghiên cứu.
Một số kinh nghiệm nghiên cứu của một số nước trên
thế giới:
Nhật Bản là một trong những quốc gia rất chú trọng giáo
dục KNS ngay từ những năm tháng đầu đời. Ở các trường
học, Nhật Bản không có môn học kỹ năng sống riêng lẻ mà
việc dạy kỹ năng sống được thông qua các môn học, đặc biệt
là môn đạo đức ở trong trường học. Người Nhật chú trọng
giáo dục kỹ năng sinh tồn, kỹ năng tự nhận thức bản thân, kỹ
năng giao tiếp ứng xử, kỹ năng tự lập cho trẻ.
Tại Hàn Quốc, học sinh được giáo dục các ứng phó với


biến đổi khí hậu, thiên tai, động đất...
Tại nhiều nước phương Tây thanh thiếu niên đã được
học những kỹ năng sống, cách ứng phó với những tình huống
có thể xảy ra trong cuộc sống, cách đương đầu với những khó
khăn. Vấn đề giáo dục kỹ năng sống luôn luôn được quan
tâm.Tại các nước này các Tổ chức, Hiệp hội được thành lập
nhằm giáo dục những kỹ năng cần thiết để các thanh thiếu
niên có thể tiếp cận được công việc một cách thuận lợi nhất.
Ở Việt Nam, một trong những tác giả nghiên cứu về
KNS phải kể đến là tác giả Nguyễn Thanh Bình và các cộng
sự với “ Giáo trình chuyên đề giáo dục KNS ”, Nhà xuất bản
Đại Học Sư Phạm , Hà Nội, 2011 [4].
Ngoài ra còn có công trình nghiên cứu của nhiều tác giả
khác như Lê Vân Anh [1], Nguyễn Thị Mỹ Lộc [31], Nguyễn

Thị Oanh [32]....Các công trình nghiên cứu trên chủ yếu đi
sâu vào nghiên cứu những vấn đề cơ bản về KNS và giáo dục
KNS dưới gốc nhìn của giáo dục học và tâm lý học.


- Các nghiên cứu về quản lý giáo dục KNS cho học
sinh THPT.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu về giáo dục KNS
hiện nay có nhiều tác giả đã nghiên cứu các biện pháp quản lý
hoạt động giáo dục KNS trong các nhà trường. Các đề tài
nghiên cứu về quản lý giáo dục KNS cho học sinh THPT như:
Tác giả Nguyễn Thị Hạnh ĐHSP Hà Nội (2015) : Luận
văn Thạc sỹ QLGD “ Quản lý hoạt động giáo dục giá trị sốngKỹ năng sống cho học sinh trường THPT Thanh Oai A, thành
phố Hà Nội ”.
Tác giả Doãn Hoàng Trung. - H.: Đại học Sư phạm Hà
Nội, 2014: Luận vănThạc sỹ QLGD “ Quản lý giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh các trường Trung học phổ thông huyện
Thủy Nguyên thành phố Hải Phòng ”.
Tác giả Bùi Văn Nguyện. - H.: Đại học Sư phạm Hà Nội,
2017: Luận văn “Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
nội trú trường THPT Mùn Chung, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện
Biên.
Còn rất nhiều đề tài nghiên cứu về lĩnh vực giáo dục kỹ


năng sống và quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống của
các tiến sĩ, thạc sĩ đã nghiên cứu thành công vấn đề này.
Dưới gốc nhìn của một nhà quản lý giáo dục, trong
những năm gần đây việc giáo dục KNS cho học sinh THPT
đã được các nhà trường ở Thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng

triển khai đã thu được kết quả nhất định tuy nhiên trong quá
trình thực hiện vẫn còn nhiều bất cập. Vì vậy việc lựa chọn và
nghiên cứu đề tài “Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc, tỉnh
Lâm Đồng theo tiếp cận có sự tham gia” sẽ góp phần nâng
cao hiệu quả quản lý hoạt động giáo dục KNS trong các nhà
trường hiện nay.
- Một số khái niệm
- Quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nhà trường
- Quản lý
Khái niệm quản lý được hình thành từ rất lâu và cùng
với sự phát triển của xã hội nó ngày càng hoàn thiện hơn.
Nói đến quản lý các nhà nghiên cứu cho rằng “ Quản lý
là một khoa học, một nghệ thuật ”[21] .Quản lý vừa là khoa


học, vừa là nghệ thuật trong việc điều khiển một hệ thống xã
hội cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Hoạt động quản lý là hoạt động
phải thực hiện khi con người kết hợp với nhau trong nhóm, tổ
chức nhằm thực hiện mục tiêu chung. Vì vậy quản lý được
hiểu bằng nhiều cách khác nhau và được định nghĩa ở nhiều
khía cạnh khác nhau trên cơ sở những quan điểm và các cách
tiếp cận khác nhau, cụ thể có các cách tiếp cận sau đây:
Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc
“ Quản lý là quá trình tác động có định hướng, có chủ đích
của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý
(người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức
vận hành và đạt được mục đích của tổ chức”.
Còn theo tác giả Bùi Minh Hiền “ Quản lý là sự tác động
có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng

quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra”.[21]
Người quản lý thực hiện nhiều hoạt động tùy theo tổ chức
hay vị trí của người quản lý. Trong đó nhiệm vụ quan trọng
nhất của nhà quản lý đó chính là chức năng quản lý.
Theo quan điểm của UNESCO, chức năng quản lý bao
gồm 8 nội dung sau: xác định nhu cầu - thẩm định và phân


tích dữ liệu - xác định mục tiêu kế hoạch hoá (bao gồm cả
phân công trách nhiệm, phân phối các nguồn lực, lập chương
trình hành động ) - triển khai công việc - điều chỉnh - đánh giá
- sử dụng liên hệ và tái xác định các vấn đề cho quá trình quản
lý tiếp theo.
Theo quan niệm hiện nay có thể khái quát bốn chức
năng cơ bản sau:
Chức năng kế hoạch hóa: là việc đưa các họat động vào
kế hoạch trong đó chỉ rõ mục tiêu, các bước đi, biện pháp
thực hiện, nguồn lực...Để vạch ra mục tiêu và xác định các
bước đi cần có khả năng dự báo. Vì vậy chức năng hoạch định
bao gồm cả chức năng dự báo.
Chức năng tổ chức bao gồm tổ chức bộ máy và tổ chức
công việc
+ Tổ chức bộ máy là sắp xếp bộ máy đáp ứng yêu cầu
của mục tiêu và các nhiệm vụ phải đảm nhiệm.
+ Tổ chức công việc là sắp xếp phân công phân nhiệm rõ
ràng để mọi người hướng vào mục tiêu chung.


Chức năng chỉ đạo là quá trình tác động của chủ thể
quản lý đến đối tượng quản lý nhằm thực hiện mục tiêu đề ra.

Chức năng kiểm tra, đánh giá là thu thập thông tin ngược
để kiểm soát hoạt động của bộ máy nhằm điều chỉnh kịp thời
các sai sót, lệch lạc để thực hiện mục tiêu.
Như vậy tuy có nhiều cách phân loại chức năng quản lý
khác nhau (khác về số lượng chức năng và tên gọi các chức
năng). Về thực chất các hoạt động có những bước đi giống
nhau để đạt tới các mục tiêu. Ngày nay còn có các tác giả
trình bày chức năng quản lý nói chung (hoặc chức năng
QLGD nói riêng) theo những quan điểm phân loại khác nhau,
nhưng nền tảng của vấn đề vẫn là 4 chức năng cơ bản theo
quan điểm quản lý hiện đại. 1.2.1.2.Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục là nhân tố quan trọng trong phát triển
thành công của quá trình giáo dục. Thông qua quản lý giáo
dục mà việc thực hiện mục tiêu, chủ trương chính sách giáo
dục Quốc gia của giáo dục mới được triển khai và thực hiện
có hiệu quả. Có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý giáo
dục:
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý giáo dục là hệ


thống tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của
chủ thể quản lý (hệ thống giáo dục) nhằm làm cho hệ vận
hành theo đường lối và nguyên tắc giáo dục của Đảng thực
hiện được những tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam,
mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học – giáo dục thế hệ trẻ,
đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến tiến lên trạng thái mới về
chất ”.[24]
Tuy có sự khác nhau về cách diễn đạt nhưng bản chất
của quản lý giáo dục là vận hành các hoạt động đạt tới mục
tiêu nhất định. Do đó có thể hiểu “Quản lí giáo dục là hệ

thống những tác động có ý thức, hợp quy luật của chủ thể
quản lí ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống
nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan
trong hệ thống giáo dục, đảm bảo cho sự phát triển và mở
rộng hệ thống cả về mặt số lượng cũng như chất lượng”.[21]
- Quản lý nhà trường
Theo tác giả Bùi Minh Hiền - Nguyễn Vũ Bích Hiền “
Quản lý nhà trường là quá trình tác động có mục đích, có định
hướng, có tính kế hoạch của các chủ thể quản lý ( đứng đầu là
hiệu trưởng nhà trường) đến các đối tượng quản lý ( cán bộ,


giáo viên, nhân viên, người học và các bên liên quan…) và
huy động, sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả các nguồn lực
nhằm thực hiện sứ mệnh của nhà trường đối với hệ thống giáo
dục đào tạo, với cộng đồng xã hội nhằm thực hiện mục tiêu
giáo dục đã xác định trong một môi trường luôn luôn biến
động ”.[23]
Có nhiều cấp quản lý trường học: cấp cao nhất là Bộ
GD&ĐT ( quản lý nhà trường bằng các biện pháp vĩ mô) ; có
hai cấp trung gian quản lý trường học là Sở GD&ĐT ở tỉnh,
thành phố và các phòng Giáo dục ở các quận, huyện.Cấp quản
lý trực tiếp trong các nhà trường là Ban giám hiệu.
Hoạt động quản lý trong nhà trường bao gồm quản lý
các hoạt động diễn ra trong nhà trường và sự tác động qua lại
giữa nhà trường với các hoạt động ngoài xã hội.
“ Quản lý nhà trường là một khoa học, một nghệ thuật ”
Quản lý nhà trường là một khoa học : tính khoa học của
quản lý đòi hỏi người quản lý phải am hiểu tính quy luật của
quản lý trong quá trình điều hành các hoạt động của nhà

trường. Quản lý yêu cầu phải tuân thủ các nguyên tắc và vận
dụng hài hòa các phương pháp quản lý khoa học.


Quản lý nhà trường là một nghệ thuật: tính nghệ thuật
của quản lý xuất phát từ tính đa dạng phong phú, muôn hình
muôn vẻ của sự vật hiện tượng. Tính nghệ thuật của quản lý
còn xuất phát từ bản chất của quản lý, quản lý là sự tác động
giữa con người với con người mà con người với tình cảm, tâm
tư, nhu cầu, động cơ...đa dạng phong phú. Do đó khi xử lý các
tình huống người quản lý phải khéo léo, linh hoạt.
- Kỹ năng sống và giáo dục kỹ năng sống
-Kỹ năng sống
Khái niệm KNS được tiếp cận theo nhiều quan điểm
khác nhau :
Theo UNICEF (Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc): “
KNS là những kỹ năng tâm lý xã hội có liên quan đến tri thức,
những giá trị và thái độ, cuối cùng thể hiện ra bằng những
hành vi làm cho các cá nhân có thể thích nghi và giải quyết
có hiệu quả các yêu cầu và thách thức của cuộc sống" .
Theo WHO (Tổ chức Y tế thế giới) : “KNS là những
năng lực giao tiếp đáp ứng và những hành vi tích cực của cá
nhân có thể giải quyết có hiệu quả những yêu cầu và thách


thức của cuộc sống hàng ngày”.
Theo UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn
hoá Liên hợp quốc ) : “ Kĩ năng sống gắn với 4 trụ cột của
giáo dục, đó là: Học để biết (Learning to know) gồm các kĩ
năng tư duy như: tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết

định, giải quyết vấn đề...; Học để làm (Learning to be) kỹ
năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm …; Học để tự
khẳng định (learning to be) gồm các kĩ năng cá nhân như: kỹ
năng kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin,...Học để cùng
chung sống (learning to live together) gồm các kĩ năng như :
giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo
nhóm ”. Dựa vào đó, UNESCO định nghĩa “KNS là năng lực
cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào
cuộc sống hàng ngày”.
Tuy có sự khác biệt về quan niệm về KNS nhưng các tổ
chức UNESCO, WHO và UNICEF đã thống nhất 10 kỹ năng
sống cơ bản, được xem như cần thiết nhất cho tất cả mọi
người đó là: “ Kỹ năng ra quyết định, Kỹ năng giải quyết vấn
đề, Kỹ năng tư duy sáng tạo, Kỹ năng tư duy phê phán / suy
nghĩ có phán đoán, Kỹ năng truyền thông có hiệu quả, Kỹ
năng giao tiếp giữa người và người, Kỹ năng tự nhận thức bản


thân, Khả năng thấu cảm, Kỹ năng ứng phó với cảm xúc, Kỹ
năng ứng phó với stress ”.
Như vậy “Kỹ năng sống chính là kỹ năng tự quản lý bản
thân và kỹ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc
sống, học tập và làm việc hiệu quả ”.
- Giáo dục kỹ năng sống
Giáo dục kỹ năng sống là một hoạt động sư phạm có kế
hoạch, có mục đích nhằm hình thành năng lực hành động tích
cực, có liên quan tới kiến thức và thái độ, giúp cá nhân có ý
thức về bản thân, giao tiếp, quan hệ xã hội, thực hiện công
việc đáp ứng với các yêu cầu của cuộc sống hàng ngày…Kỹ
năng sống thúc đẩy sự phát triển cá nhân, cộng đồng, nâng

cao chất lượng cuộc sống và giúp cho con người xây dựng
một xã hội có văn hóa.
Giáo dục KNS là giáo dục cho học sinh những kỹ năng
cơ bản, giúp các em vượt qua khó khăn, thử thách, sống có
trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội. Giáo dục kỹ
năng sống giúp học sinh biết kiềm chế, xử lý các tình huống
có vấn đề theo hướng tích cực, vững vàng trước mọi tình
huống. Bên cạnh đó học sinh có hiểu biết sâu sắc hơn về động


cơ và trách nhiệm tới sự lựa chọn của cá nhân và xã hội một
cách tích cực, cởi mở, mạnh dạn và tự tin hơn.
- Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT
- Đặc điểm tâm lý lứa tuôi của học sinh THPT
Trong tâm lý học, tuổi thanh niên xác định từ 15 đến 25
tuổi, với hai thời kì: (15 – 19 tuổi và 19 – 25 tuổi). HS trung
học phổ thông nằm trong độ tuổi vị thành niên và là giai đoạn
cuối của tuổi vị thành niên và giai đoạn giữa của tuổi thanh
niên. Các em ở tuổi học sinh THPT đã đạt đến mức trưởng
thành về mặt cơ thể. Ở lứa tuổi này các em đã chấm dứt giai
đoạn khủng hoảng của thời kỳ phát dục để chuyển sang thời
kỳ ổn định hơn, cân bằng hơn xét trên bình diện hoạt động
hưng phấn và ức chế của cơ quan thần kinh cũng như các mặt
khác về phát triển thể chất. Các em có sức lực dồi dào, bắp
thịt nở nang, thân hình cân đối, rất khỏe mạnh và đẹp. Sự
hoàn thiện về mặt cơ thể sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển tâm
lý ở lứa tuổi này.[25]
Ở lứa tuổi học sinh THPT các mối quan hệ ít tính mâu
thuẫn hơn so với độ tuổi trước đó. Quan hệ với cha mẹ, thầy
cô, bạn bè thuận lợi hơn do sự trưởng thành và có sự thay đổi



trong cách nhìn nhận của người lớn. Tuy nhiên, học sinh đã có
sự trưởng thành trong tư duy, hành vi và cách ứng xử nhưng
HS vẫn còn phụ thuộc gia đình do chưa độc lập về kinh tế.
Trong gia đình, ý kiến của học sinh được tôn trọng, được
lắng nghe và dân chủ hơn trong các mối quan hệ. Học sinh có
thể tự quyết định một số vấn đề của bản thân như lựa chọn
nghề nghiệp, học hành, tình cảm. Việc cha mẹ can thiệp trực
tiếp theo kiểu “ép buộc”, “ra lệnh” không còn hiệu quả và
không còn phù hợp. Cha mẹ cần có sự tôn trọng và trò chuyện
thẳng thắn với mong muốn cha mẹ là những người bạn, người
“cố vấn” thì mối quan hệ sẽ tốt hơn. Do đó việc cha mẹ áp đặt
suy nghĩ của mình có thể gây ra tác dụng ngược với các em,
đồng thời cha mẹ cũng là hình mẫu quan trọng đối với các
em. Nếu thiếu sự định hướng và giáo dục từ gia đình các em
dễ bị ảnh hưởng bởi những hình mẫu khác ngoài xã hội.
Trong quan hệ với bạn bè, học sinh THPT có nhiều
nhóm bạn, các em
vừa tham gia vào các nhóm bạn ở lớp học, các câu lạc bộ
của trường cũng như có thể tham gia các nhóm bạn khác
ngoài xã hội.


Ở lứa tuổi này nhận thức và phát triển trí tuệ ở HS THPT
phong phú, đa dạng cụ thể là:
Tính độc lập và sáng tạo thể hiện rõ nét.
Sự phân hóa hứng thú nhận thức ổn định hơn.
Sự phát triển trí tuệ có thể đạt đến đỉnh cao và gắn liền
với năng lực sáng tạo. Sự phát triển này phụ thuộc nhiều vào

cách dạy học. Vì vậy, dạy học theo kiểu áp đặt không đạt hiệu
quả. Độ tuổi HS THPT thì ý chí của HS thể hiện rõ ở việc lựa
chọn chọn nghề nghiệp trong tương lai. Bên cạnh những học
sinh có ý chí kiên định còn có học sinh chưa phát huy hết khả
năng của bản thân.[35]
Về đặc điểm nhân cách của HS THPT: đặc điểm nổi bật
trong nhân cách của HS thể hiện ở tự ý thức và cái tôi. Cái tôi
của nữ và nam có sự khác biệt. Nữ giới nhạy cảm và có xu
hướng hướng nội hơn nam giới. Ở độ tuổi này, HS rất quan
tâm đến hình thức bên ngoài và muốn làm đẹp hơn trong mắt
người khác.


- Mục tiêu giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
THPT
Thực hiện mục tiêu giáo dục của thế kỷ XXI mà
UNESCO đã đề xuất: “ Học để biết, học để làm, học để tự
khẳng định và học để cùng chung sống ”
Mục tiêu giáo dục KNS cho học sinh THPT là:
Học sinh có kỹ năng bảo vệ bản thân, phòng ngừa những
hành vi nguy cơ có hại cho sức khỏe và sự phát triển của các
em như việc ảnh hưởng của mạng xã hội, hoạt động băng
nhóm, nguy cơ bị làm dụng tình dục, quan hệ tình dục sớm và
tình trạng mang thai ở trẻ vị thành niên, lạm dụng ma túy và
các chất gây nghiện, nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS…).
Các em biết làm chủ bản thân, biết cách ứng phó trước
những tình huống xảy ra trong cuộc sống.
Rèn luyện và định hướng cho các em biết sống có trách
nhiệm với gia đình, xã hội và chính bản thân. HS phát triển
hài hòa về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức.

Có thể nói, giáo dục KNS cho học sinh là trang bị cho
các em cầu nối giữa lý thuyết với thực hành, giữa kiến thức


và kỹ năng, giữa hiện tại và tương lai giúp các em thích ứng
với cuộc sống hiện đại.
Theo UNESCO “ Năng lực của con người có ba thành tố
hợp thành đó là kiến thức, kỹ năng và thái độ” .Trong đó hai
yếu tố kỹ năng và thái độ thuộc về kỹ năng sống có vai trò
quan trọng trong quá trình hình thành nhân cách, bản lĩnh cá
nhân … Vì vậy, KNS sẽ là hành trang không thể thiếu khi vào
đời. Thiếu kỹ năng sống con người dễ hành động tiêu cực,
nông nổi. Do đó giáo dục kỹ năng thiết yếu như ý thức về bản
thân, làm chủ bản thân, tôn trọng người khác, đồng cảm, biết
cách hợp tác và giải quyết hợp lý các mâu thuẫn…là yêu cầu
quan trọng trong giáo dục KNS hiện nay.
- Chương trình, nội dung giáo dục KNS cho học
sinh THPT
-Chương trình giáo dục KNS cho học sinh THPT
Giáo dục KNS giúp học sinh hiểu được những hành vi
thái độ của bản thân ảnh hưởng đến môi trường xã hội, môi
trường tự nhiên...Chương trình giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh là giáo dục những kỹ năng thiết yếu nhất đối với quá
trình hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh. Học


sinh THPT có KNS sẽ biết trang bị những kiến thức cần thiết
để thích ứng với cuộc sống hiện đại. Để việc giáo dục KNS
đạt hiệu quả công tác giáo dục KNS không chỉ thực hiện trong
nhà trường thông qua các môn học chính khóa mà còn thực

hiện bằng nhiều hình thức khác nhau như hoạt động văn hóa,
nghệ thuật; các hoạt động trải nghiệm sáng tạo...
- Nội dung giáo dục KNS cho học sinh THPT
Hiện nay, giáo dục kỹ năng sống đang được xã hội quan
tâm đây là một vấn đề không chỉ được quan tâm trên lý
thuyết, mà trên thực tế các kỹ năng sống đang đi vào, đang tác
động, đang dự phần vào từng công việc, từng mối quan hệ.
Tuy nhiên trong nhà trường chủ yếu học sinh chỉ được dạy kỹ
năng học tập, một số kỹ năng học làm người (learning to be)
và nhất là kỹ năng thích ứng, hòa nhập với cuộc sống, ứng
phó tích cực với các tình huống trong cuộc sống (learning to
live together) chưa được quan tâm. Theo cách tiếp cận KNS
qua 4 trụ cột của UNESCO, chúng ta cần tập trung rèn luyện
cho học sinh phổ thông các nội dung thuộc 2 nhóm KNS sau
đây:
Nhóm kỹ năng trong học tập, làm việc, vui chơi giải trí:


Các kỹ năng nghe, nói, kỹ năng quan sát, đưa ra ý kiến chia sẻ
trong nhóm. Kỹ năng sáng tạo, tư duy logic, phân tích, so
sánh, tổng hợp…
Nhóm kỹ năng giao tiếp, hòa nhập, ứng phó với các tình
huống cuộc sống: Kỹ năng kiểm soát tình cảm, kiềm chế bản
thân; Kỹ năng thuyết trình trước đám đông; Kỹ năng ứng
chống lại sự cám dỗ từ tệ nạn xã hội, kỹ năng chống xâm
phạm tình dục. Kỹ năng ứng phó với tai nạn như cháy, nổ,
biến đổi khí hậu như động đất, sóng thần, lũ lụt, tai nạn đuối
nước...Những nhóm kỹ năng trên rất cần thiết cho các em học
sinh nhất là trong giai đoạn hội nhập hiện nay.
Nội dung giáo dục KNS ở mỗi trường khác nhau tùy

thuộc vào từng địa phương, tùy điều kiện cơ sở vật chất và tùy
thuộc vào sự nhận thức, năng lực của lãnh đạo, giáo viên.Tùy
theo điều kiện thực tế nội dung giáo dục KNS lồng ghép vào
các môn học, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động
trải nghiệm sáng tạo hoặc các hoạt động khác do nhà trường
hoặc địa phương tổ chức.


- Phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh THPT
Phương pháp giáo dục là cách thức sử dụng các nguồn
lực bên trong như trường lớp, dụng cụ học tập, các phương
tiện vật chất để giáo dục người học. Tùy theo đối tượng giáo
dục mà các nhà giáo dục phải lựa chọn những phương pháp
phù hợp nhằm mang lại hiệu quả cao nhất.
Đối với học sinh THPT có thể sử dụng các phương pháp
như:
Phương pháp dạy học theo nhóm
Học sinh được chia thành các nhóm nhỏ theo gợi ý của
giáo viên, các nhóm thảo luận nội dung trong khoản thời gian
qui định và trình bày ý kiến trước tập thể.
Năng lực hợp tác, chia sẻ là một trong những năng lực
quan trọng hiện nay. Vì vậy, phát triển năng lực hợp tác từ
trong trường học là một yêu cầu quan trọng trong giáo dục.
Học tập theo nhóm giúp học sinh phát triển năng lực hợp tác
và năng lực giao tiếp trong học sinh.
Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề


Đặc trưng cơ bản của dạy học phát hiện và giải quyết vấn

đề là "tình huống gợi vấn đề" vì theo Rubinstein "Tư duy chỉ
bắt đầu khi xuất hiện tình huống có vấn đề". Giáo viên tạo tình
huống có vấn đề để học sinh phát hiện và vận dụng kiến thức
của bản thân để giải quyết vấn đề đó .
Phương pháp đóng vai
Giáo viên tổ chức cho học sinh “ đóng vai” trong tình
huống giả định đã được chuẩn bị trước. Qua việc đóng vai học
sinh sẽ rút ra được bài học từ “ vai diễn” và tình huống giả
định.
Phương pháp trò chơi
Thông qua một trò chơi học sinh tìm hiểu một vấn đề
hay thể nghiệm những hành động nào đó.
Phương pháp dạy học theo dự án.
Dạy học theo dự án trong đó học sinh thực hiện nhiệm
vụ học tập đã được phân công phù hợp, kết hợp lý thuyết và
thực hành và phải gắn với thực tiễn.
Ngoài ra còn có nhiều phương pháp dạy học khác, giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh cần có sự phối hợp nhiều


phương pháp giáo dục, tùy theo tình hình thực tế, đối tượng
mà các nhà giáo dục sử dụng phương pháp phù hợp.
- Hình thức giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
THPT
Hiện nay giáo dục KNS cho học sinh THPT có nhiều
hình thức, mỗi hình thức, phương pháp giáo dục có ưu điểm
và hạn chế nhất định. Do đó giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh cần phối hợp nhiều hình thức :
Giáo dục KNS thông qua việc lồng ghép hoặc dạy học
tích hợp vào các chương trình giáo dục chính khóa .

Giáo dục KNS qua các hoạt động ngoại khóa, hoạt động
giáo dục NGLL, trải nghiệm sáng tạo...
Giáo dục KNS thông qua các hoạt động của tổ chức
Đoàn thanh niên, của Hội, của các trung tâm như Chương
trình “Học làm người có ích”, chương trình “ Vượt qua nỗi sợ
hãi”, chương trình “ Học kỳ quân đội”...đây là hình thức giáo
dục khá phổ biến hiện nay giúp cho học sinh hình thành kỹ
năng giao tiếp, ứng xử... học sinh trở nên năng động hơn
trong cuộc sống.


Giáo dục kỹ năng sống thông qua các hoạt động phối
hợp giữa nhà trường, gia đình và các lực lượng khác trong xã
hội, huy động mọi nguồn lực xã hội. Giáo dục KNS cho học
sinh cần có sự tham gia giữa nhóm bên trong và bên ngoài
nhà trường. Sự phối hợp giữa nhóm bên trong và bên ngoài
càng hiệu quả thì công tác giáo dục KNS càng hiệu quả.[32]
- Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh THPT theo tiếp cận có sự tham gia.
Quản lý hoạt động giáo dục KNS là một trong các hoạt
động của quản lý trường học, bao gồm những hoạt động lập
kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra đánh giá kết quả đạt
được khi thực hiện kế hoạch.


×