CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN
LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
MÔN HÓA HỌC Ở
TRƯỜNG TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG
- Khái quát về lịch sử nghiên cứu vấn đề
Quản lý dạy học là bộ phận quan trọng, không thể tách rời
trong quản lý giáo dục. Quản lý HĐDH các môn học là công tác
quan trọng hàng đầu của CBQL nhà trường, nó quyết định gần
như toàn bộ kết quả của hoạt động quản lý nhà trường; là khâu
then chốt, là yếu tố quyết định trong quản lý nhà trường, giúp nhà
trường phát triển đi lên. CBQL nhà trường có phương pháp quản
lý tốt sẽ giúp cho các hoạt động trong nhà trường được vận hành
thông suốt, hiệu quả, qua đó chất lượng giáo dục của nhà trường
được đảm bảo, đáp ứng yêu cầu chung của nền giáo dục nước nhà.
Quản lý giáo dục và quản lý dạy học, trong đó có quản lý HĐDH
các môn học luôn là vấn đề được quan tâm nghiên cứu cả trên
bình diện quốc tế và trong nước nhằm tìm ra những biện pháp
quản lý hiệu quả, khả thi góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
Đã có nhiều đề tài về quản lý giáo dục được nghiên cứu và công
bố, bên cạnh những đề tài có tính tổng quan về quản lý giáo dục
thì các đề tài nghiên cứu về quản lý nhà trường, quản lý HĐDH
các bộ môn ngày càng có vị trí quan trọng.
Trên bình diện thế giới, các nhà khoa học của Liên Xô (trước
đây) đã sớm đạt được nhiều thành tựu rất đáng trân trọng về quản
lý giáo dục và quản lý dạy học. Họ khẳng định rằng “Kết quả của
toàn bộ hoạt động quản lý của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào
việc tổ chức đúng đắn và hợp lý hoạt động giảng dạy của đội ngũ
GV” [37, 8]. Tác giả V.A.Xukhomlinxki “đã chỉ rõ tầm quan trọng
của việc tổ chức dự giờ và phân tích sư phạm bài dạy. Ông chỉ ra
rằng, cho dù hoạt động dự giờ và góp ý GV sau giờ dạy được thực
hiện thường xuyên nhưng công tác này vẫn chưa đạt được kết quả
như mong đợi vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Trên cơ sở phân
tích thực trạng, ông đã đưa ra nhiều cách phân tích sư phạm bài
dạy cho GV” [36]. Các tác giả P.V.Zimin, M.I.Korđakôp,
N.I.Saxerđôtôp “đi sâu nghiên cứu lãnh đạo công tác giảng dạy,
giáo dục trong nhà trường và xem đây như khâu then chốt trong
hoạt động quản lý của hiệu trưởng, các tác giả thống nhất và
khẳng định người hiệu trưởng phải là người lãnh đạo toàn diện và
chịu trách nhiệm chính trong công tác quản lý nhà trường” [37, 8].
Ở Việt Nam, vấn đề quản lý giáo dục, quản lý trường học,
quản lý HĐDH đã được quan tâm nghiên cứu và cũng đã có nhiều
đóng góp đáng kể gắn liền với các tác giả như: Đặng Quốc Bảo,
Vũ Dũng, Phạm Minh Hạc, Bùi Minh Hiền, Hà Sĩ Hồ, Trần Kiểm,
Nguyễn Ngọc Quang, Phạm Viết Vượng và nhiều tác giả khác.
Các nhà nghiên cứu giáo dục Việt Nam đều cho rằng công tác
quản lý HĐDH luôn giữ một vai trò rất quan trọng trong việc nâng
cao chất lượng dạy học. Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang thì
“Dạy học và giáo dục trong sự thống nhất là hoạt động trung tâm
của nhà trường, quản lý nhà trường thực chất là quản lý quá trình
lao động sư phạm của người thầy” [28]. Còn các tác giả Hà Sĩ Hồ
và Lê Tuấn thì cho rằng “Việc quản lý hoạt động dạy và học (hiểu
theo nghĩa rộng) là nhiệm vụ quản lý trung tâm của nhà trường” và
“Người hiệu trưởng phải luôn kết hợp một cách hữu cơ quá trình
dạy và học” [17]. Gần đây, vấn đề quản lý HĐDH ngày càng được
quan tâm nghiên cứu và đã có nhiều đề tài quản lý HĐDH ở trường
THPT được công bố như: “Quản lý hoạt động dạy học ở các
trường trung học phổ thông huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang đáp
ứng yêu cầu đổi mới giáo dục” [31], “Quản lý dạy học theo hướng
phát triển năng lực ở các trường trung học phổ thông huyện Di
Linh, tỉnh Lâm Đồng” [25], “Quản lý dạy học môn Tiếng Anh
theo hướng trải nghiệm sáng tạo cho học sinh trường trung học
phổ thông tại thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng” [19], “Quản lý
dạy học môn Địa Lí theo yêu cầu đổi mới giáo dục ở các trường
trung học phổ thông huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng” [16] và rất
nhiều các công trình nghiên cứu khác.
Như vậy, có thể thấy rằng vấn đề quản lý giáo dục nói chung
và quản lý HĐDH nói riêng đã được nhiều nhà nghiên cứu giáo
dục trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu và đã đưa ra được
nhiều biện pháp quản lý HĐDH trong nhà trường hiệu quả. Đã có
nhiều công trình nghiên cứu về đề tài quản lý HĐDH ở trường
THPT với những cách tiếp cận về vấn đề quản lý khác nhau, ở
những địa phương khác nhau, với những phạm vi rộng hẹp khác
nhau. Những công trình nghiên cứu đó đã hệ thống hóa và góp
phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về quản lý HĐDH ở trường THPT,
là cơ sở cho tác giả luận văn tham khảo khi nghiên cứu đề tài này.
Đến nay, mặc dù đã có những kinh nghiệm tốt trong quản lý
HĐDH ở trường THPT, tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên
cứu cụ thể, chi tiết về vấn đề quản lý HĐDH môn Hóa học ở các
trường THPT huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Vì vậy, tác giả chọn
nghiên cứu đề tài Quản lý hoạt động dạy học môn Hóa học ở
các trường trung học phổ thông huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm
Đồng vừa có thể kế thừa những kinh nghiệm quản lý tốt về lý
luận và thực tiễn tương tự, nhưng đồng thời cũng có tính mới
trong việc áp dụng vào một địa bàn cụ thể.
- Các khái niệm cơ bản của đề tài
- Quản lý
- Khái niệm quản lý
Quản lý là một dạng hoạt động đặc thù, phổ biến, diễn ra
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo C.Mác: “Tất cả mọi
lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên
quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ
đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những
chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản
xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó.
Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển lấy mình, còn một dàn
nhạc thì cần phải có một nhạc trưởng” [14, 10]. Ngày nay, mặc dù
chưa có một định nghĩa thống nhất nào nhưng thuật ngữ quản lý
đã trở nên rất phổ biến. Một số định nghĩa tiêu biểu thường được
nhắc đến khi nói về quản lý đó là các định nghĩa của F.Taylor,
H.Fayol, Mary Parker Follett. Theo F.Taylor thì “Quản lý là biết
được chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó hiểu
được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và với chi
phí thấp nhất” [14, 17]. H.Fayol thì cho rằng “Quản lý là sự dự
đoán và lập kế hoạch, tổ chức, điều khiển, phối hợp và cuối cùng
là kiểm tra” [14, 17]. Còn Mary Parker Follett thì định nghĩa
“Quản lý là nghệ thuật khiến công việc được thực hiện thông qua
người khác” [8, 46].
Ở Việt Nam, thuật ngữ quản lý cũng được nhiều tác giả định
nghĩa theo những cách tiếp cận khác nhau. “Theo Từ điển Tiếng
Việt thông dụng thì Quản lý là tổ chức, điều khiển hoạt động của
một đơn vị, cơ quan” [14, 9]. “Theo Từ điển Giáo dục thì Quản lý
là hoạt động hay tác động có định hướng, có chủ định của chủ thể
quản lý đến khách thể quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ
chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [34, 326]. Tác
giả Nguyễn Bá Sơn thì định nghĩa “Quản lý là tác động có mục
đích đến tập thể những con người để tổ chức và phối hợp hoạt
động của họ trong quá trình lao động” [30, 245]. Tác giả Trần
Kiểm thì cho rằng “Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý
trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều
phối các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ
chức (chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của
tổ chức với hiệu quả cao nhất” [22, 8]. Theo tác giả Đặng Quốc
Bảo thì “Quản lý là sự tác động có định hướng, có chủ đích của
chủ thể quản lý (người quản lý, tổ chức quản lý) đến khách thể
quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ
chức vận hành và đạt được mục đích” [2, 9]. Một số nhà nghiên
cứu khác lại cho rằng: “Quản lý là một quá trình kĩ thuật và xã hội
nhằm sử dụng các nguồn tác động tới hoạt động con người, nhằm
đạt được các mục tiêu của tổ chức” [8, 47]. Hiện nay, định nghĩa
quản lý thường được nhắc đến đó là “Quản lý là quá trình đạt đến
mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức
năng) kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra” [2,
9].
Như vậy, có thể hiểu quản lý là một hoạt động có chủ đích
của nhà quản lý (hay chủ thể quản lý), nhà quản lý liên tục tác
động về nhiều mặt lên đối tượng quản lý với nhiều hình thức, biện
pháp, phương pháp khác nhau. Sự tác động này được thực hiện
thông qua hệ thống các điều luật, điều lệ, nội quy, quy định,
nguyên tắc... và bằng các phương pháp cụ thể để hiện thực hóa
các mục tiêu quản lý đã xác định. Hoạt động quản lý có một số
đặc điểm sau:
- Thứ nhất, “quản lý luôn là quản lý con người”.
- Thứ hai, “quản lý luôn là một tác động có tính hướng đích,
có mục tiêu xác định”.
- Thứ ba, “quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý
là quan hệ ra lệnh - phục tùng và có tính bắt buộc”.
- Thứ tư, “Sự tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng
quản lý mặc dù mang tính chủ quan của chủ thể quản lý nhưng
phải hợp quy luật; luôn có khả năng thích nghi giữa đối tượng
quản lý với chủ thể quản lý và ngược lại”. [14, 10]
Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa“Quản lý là sự
tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch, có nội dung và
bằng phương pháp khoa học của chủ thể quản lý tới đối tượng
quản lý nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra”.
- Các chức năng của quản lý
Khi nghiên cứu về các chức năng của quản lý, các tác giả
đều khẳng định quản lý có 04 chức năng cơ bản, đó là:
- Kế hoạch hoá: Đây là chức năng quan trọng nhất của quản
lý, là một công việc cực kì phức tạp, bao gồm việc xác định các
mục tiêu cụ thể cần đạt được; xây dựng các phương án, các bước
tiến hành cụ thể để thực hiện các mục tiêu; xác định các phương
tiện, các điều kiện cần thiết, cũng như lựa chọn các giải pháp thích
hợp... nhằm hiện thực hóa các mục tiêu đã xác định.
Trong quản lý dạy học, việc thực hiện tốt chức năng kế
hoạch hóa sẽ giúp hiệu trưởng kiểm soát được toàn bộ HĐDH của
nhà trường, qua đó nâng cao hiệu quả quản lý, góp phần nâng cao
chất lượng giảng dạy, giáo dục của nhà trường.
- Tổ chức: Đây là chức năng mang tính chuyên môn hóa của
quản lý. Thực hiện chức này, nhà quản lý cần phải xác định rõ vị
trí, chức năng, mối quan hệ của từng cá nhân, của các bộ phận sao
cho các cá nhân, các bộ phận đó có thể phối hợp hoạt động với
nhau nhịp nhàng, hiệu quả, cùng nhau thực hiện hiệu quả nhất các
mục tiêu đã xác định trong kế hoạch.
Trong quản lý nhà trường, đây là lúc hiệu trưởng tuyển chọn,
sắp xếp hợp lý nguồn nhân lực, sắp xếp khoa học lao động của các
bộ phận trong nhà trường sao cho mỗi CB, GV, bộ phận trong nhà
trường có thể thực hiện hiệu quả nhất nhiệm vụ, chức trách được
giao.
- Chỉ đạo (Lãnh đạo): Đây là chức năng mang tính định
hướng của quản lý. Nhà quản lý thực hiện chức năng này bằng
việc ban hành các quyết định quản lý và tổ chức thực hiện các
quyết định quản lý đó thông qua các tác động quản lý như động
viên khuyến khích, tạo động cơ, kỷ luật, đề bạt... nhằm dẫn dắt,
định hướng hành vi của các cá nhân theo hướng đạt được các mục
tiêu đã xác định trong kế hoạch.
Trong quản lý nhà trường, đây là lúc hiệu trưởng bằng các
quyết định, tác động quản lý tổ chức một cách khoa học, hợp lý
các nguồn lực về con người, tài chính, CSVC... hiện có của nhà
trường, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của những nguồn lực
này, làm cho các hoạt động của nhà trường được tiến hành một
cách thuận lợi, hiệu quả, qua đó hiện thực hóa các mục tiêu của
nhà trường về giảng dạy, giáo dục...
- Kiểm tra: Đây là chức năng của tất cả các cấp quản lý,
được thực hiện xuyên suốt trong cả quá trình quản lý, nhằm phát
hiện và điều chỉnh những hạn chế, sai lệch trong quá trình hoạt
động, đồng thời tìm kiếm cơ hội, điều kiện, nguồn lực mới... đảm
bảo việc thực hiện các mục tiêu đã xác định trong kế hoạch hoàn
thành với kết quả cao nhất.
Trong quản lý nhà trường, hiệu trưởng phải thường xuyên
thực hiện chức năng kiểm tra nhằm kịp thời điều chỉnh kế hoạch,
đưa ra được những quyết định quản lý hợp lí, phát hiện và phổ
biến các kinh nghiệm quản lý có hiệu quả... qua đó cải thiện, tăng
cường hiệu quả quản lý.
Kế
hoạch
hóa
Tổ
chức
Chỉ
đạo
Kiểm
tra
Thông tin quản lý
- Các chức năng của quản lý
- Hoạt động dạy học
Hoạt động dạy học là hoạt động “dưới sự lãnh đạo, tổ chức,
điều khiển của GV, HS tự giác, tích cực, chủ động, tự tổ chức, tự
điều khiển hoạt động nhận thức - học tập của mình nhằm thực
hiện những nhiệm vụ dạy học”
[27, 139]. HĐDH trong nhà
trường bao gồm 02 hoạt động cơ bản là hoạt động dạy của GV và
hoạt động học của HS.
- Hoạt động dạy của GV “là hoạt động lãnh đạo, tổ chức,
điều khiển hoạt động nhận thức - học tập của HS, giúp HS tìm tòi,
khám phá tri thức, qua đó thực hiện có hiệu quả chức năng học
của bản thân” [27, 135]. Như vậy, bên cạch chức năng truyền thụ
tri thức, hoạt động dạy của GV còn có chức năng điều khiển nội
dung dạy học theo chương trình quy định. Vai trò của GV là người
dẫn dắt, định hướng cho HS, nhưng đồng thời cũng là người bạn
cùng đồng hành cùng HS, giúp HS chiếm lĩnh tri thức, tạo nên sự
gắn kết chặt chẽ giữa GV và HS. Hoạt động dạy của GV thể hiện
ở việc người GV “đề ra mục tiêu, yêu cầu nhận thức - học tập; xây
dựng và tổ chức thực hiện hoạt động dạy của mình tương ứng với
hoạt động học của HS; làm cho HS ý thức được trách nhiệm và
nghĩa vụ học tập của mình bằng cách tạo ra động cơ và nhu cầu
học tập cho HS, kích thích tính tự giác, tích cực, chủ động, độc
lập, sáng tạo của HS; theo dõi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
của HS, kịp thời điều chỉnh, sửa chữa những sai lầm, thiếu sót của
HS và của bản thân trong quá trình dạy học”. [27, 135]
- Hoạt động học của HS “là hoạt động tự giác, tích cực, chủ
động, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức - học tập của
mình nhằm thu nhận, xử lí và biến đổi thông tin bên ngoài thành
tri thức của bản thân, qua đó người học thể hiện mình, biến đổi
mình, tự làm phong phú thêm những giá trị của bản thân” [27,
135]. Bên cạnh chức năng lĩnh hội tri thức, hoạt động học của HS
còn có chức năng tự điều khiển quá trình nhận thức, học tập của
của bản thân. Hoạt động học của HS thể hiện ở việc HS “tự lập
hoặc tiếp nhận những nhiệm vụ, kế hoạch học tập; tự tổ chức hoặc
tiến hành hoạt động học tập nhằm giải quyết những nhiệm vụ học
tập được đề ra; điều chỉnh hoạt động nhận thức, học tập của mình
dưới tác động KTĐG của GV và tự đánh giá của bản thân; cải tiến
phương pháp, hoạt động học tập trên cơ sở phân tích kết quả hoạt
động nhận thức, học tập của chính mình”. Hoạt động học của HS
không dừng lại ở việc HS nhắc lại bài học một cách máy móc mà
hơn thế nữa còn là sự tái tạo cho bản thân, sáng tạo trong tư duy,
biết sử dụng và điều khiển tri thức trong quá trình chiếm lĩnh tri
thức của nhân loại.
Như vậy, có thể thấy hoạt động dạy và học tuy là hai hoạt
động khác nhau nhưng không đối lập nhau, chúng tác động lẫn
nhau nhưng bổ sung cho nhau, cùng nhau hướng tới cùng một
mục đích là hình thành và phát triển nhân cách người học trong sự
thống nhất biện chứng giữa chúng. HĐDH sẽ không thể thực hiện
được nếu thiếu đi một trong hai hoạt động này, khi đó HĐDH sẽ
biến thành hoạt động tự học của HS hoặc không thể diễn ra được.
- Hoạt động dạy học môn Hóa học
Hóa học là một môn học cơ bản của chương trình giáo dục
phổ thông, “là môn khoa học nghiên cứu sự biến đổi của các chất
trên cơ sở lí thuyết hóa học và thực nghiệm hóa học” [3, 422].
HĐDH môn Hóa học cũng bao gồm hai hoạt động cơ bản là hoạt
động dạy của GV và hoạt động học của HS, tuy nhiên các hoạt
động này mang đặc điểm riêng của môn Hóa học.
- Hoạt động dạy của GV: Dạy hóa học không đơn thuần chỉ
là cung cấp cho HS kiến thức về các đối tượng hóa học mà đó là
quá trình GV nghiên cứu thiết kế, tiến hành tổ chức, cũng như
điều khiển các hoạt động của HS nhằm đạt được các mục tiêu về
kiến thức, kỹ năng, thái độ quy định cụ thể cho mỗi bài, mỗi
chương, mỗi phần học theo chuẩn. Cụ thể, GV bộ môn Hóa học
tiến hành các hoạt động sau:
+ Thiết kế giáo án bao gồm các hoạt động dự kiến của GV,
dự kiến các hoạt động tương ứng của HS, các câu hỏi, bài tập hóa
học, phương tiện trực quan, hóa chất, mô hình, mẫu vật, thí
nghiệm hóa học, hiện tượng thực tế... để định hướng cho HS hoạt
động, qua đó giúp HS đạt được những mục tiêu của các bài học cụ
thể.
+ Tổ chức các hoạt động trên lớp cho HS như hướng dẫn HS
nghiên cứu sách giáo khoa, hóa chất, mô hình, mẫu vật, thí
nghiệm hóa học, hiện tượng thực tế...; tổ chức cho HS thảo luận
bản chất hóa học của các hiện tượng hóa học, các bài tập hóa
học...; hướng dẫn HS thực hành các thí nghiệm hóa học, kết luận
bản chất hóa học và hiện tượng của các thí nghiệm được thực
hành... qua đó giúp HS chiếm lĩnh tri thức, hình thành và phát
triển các kỹ năng về hóa học.
+ Sử dụng hệ thống các câu hỏi, bài tập mang tính hướng
dẫn, gợi mở... để định hướng các hoạt động của HS; đồng thời
điều chỉnh các hoạt động này khi cần thiết bằng việc chính xác
hóa cho HS các khái niệm, các kết luận về các hiện tượng hóa
học, bản chất hóa học của các hiện tượng thực tế...
+ Cung cấp cho HS các thông tin, các kiến thức hóa học cần
thiết mà HS không thể tự phát hiện được bằng các hoạt động trên
lớp.
+ Thực hiện các quy định về thiết kế và thực hiện việc sử
dụng phương tiện trực quan, hiện tượng thực tế, TBDH... trong
dạy học môn Hóa học.
+ Tổ chức cho HS liên hệ, vận dụng giải quyết một số vấn đề
đơn giản thuộc lĩnh vực hóa học trong tự nhiên và trong sản xuất.
+ Tổ chức, hướng dẫn cho HS tự học, tự nghiên cứu; bồi
dưỡng phương pháp tự học cho HS...
+ Tổ chức, hướng dẫn HS nghiên cứu khoa học.
- Hoạt động học của HS: Học hóa học không phải là sự tiếp
nhận và tái hiện một cách thụ động các kiến thức hóa học mà là
quá trình HS bằng sự nỗ lực của bản thân tích cực, chủ động tự
nhận thức, tự phát hiện và giải quyết các vấn đề liên quan đến hóa
học, qua đó lĩnh hội các tri thức, hình thành và phát triển các kỹ
năng về hóa học. Cụ thể, hoạt động học tập môn Hóa học của HS
gồm các hoạt động cơ bản sau:
+ HS tự phát hiện hoặc tiếp nhận các vấn đề, các nhiệm vụ
học tập.
+ HS tiến hành các hoạt động cá nhân hoặc chủ động hợp tác
theo nhóm để giải quyết các nhiệm vụ học tập như: dự đoán tính
chất của các chất, các hiện tượng thí nghiệm có thể quan sát được,
khả năng xảy ra phản ứng giữa các chất, bản chất hóa học của các
hiện tượng...; thực hành các thí nghiệm hóa học; kết luận bản chất
hóa học của các hiện tượng; phán đoán, suy luận và đề ra các giả
thuyết hóa học; giải các bài toán hóa học; trình bày quan điểm của
cá nhân, nhận xét ý kiến của người khác, báo cáo kết quả hoạt
động của cá nhân, kết quả thảo luận của nhóm về các vấn đề hóa
học cụ thể...
+ Liên hệ, vận dụng giải quyết các vấn đề hóa học đơn giản
gặp phải trong học tập, trong tự nhiên và sản xuất.
+ Tự học, tự đánh giá việc nắm bắt kiến thức hóa học, sự
hình thành và phát triển các kỹ năng về hóa học của bản thân và
của các thành viên trong nhóm.
+ Tự tổ chức hoặc tham gia các hoạt động NCKH do GV tổ
chức.
- Quản lý hoạt động dạy học môn Hóa học
Quản lý HĐDH môn Hóa học là sự tác động có mục đích, có
tổ chức, có kế hoạch, có nội dung và bằng phương pháp khoa học
chủ thể quản lý nhà trường đến hoạt động dạy và hoạt động học
môn Hóa học nhằm đạt được những mục tiêu dạy học quy định
cho môn Hóa học. Quản lý HĐDH môn Hóa học có hai nội dung
cơ bản, xuyên suốt là quản lý hoạt động giảng dạy của GV môn
Hóa học và quản lý hoạt động học tập môn Hóa học của HS. Chủ
thể quản lý tác động lên đối tượng quản lý bằng việc thực hiện các
chức năng của quản lý để làm cho quá trình dạy và học môn Hóa
học đồng bộ với các yếu tố khác, từ đó tạo ra hiệu quả quản lý,
nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học môn Hóa học.
- Quản lý hoạt động giảng dạy của GV bao gồm những nội
dung cơ bản sau: Quản lý phân công chuyên môn và việc thực
hiện các quy định về hồ sơ; quản lý việc thực hiện mục tiêu, nội
dung, chương trình môn học thông qua việc quản lý xây dựng và
thực hiện kế hoạch dạy học; quản lý đổi mới PPDH (bao gồm:
quản lý GV thiết kế giáo án và tổ chức các hoạt động trên lớp cho
HS, quản lý hoạt động dự giờ và phân tích sư phạm bài dạy của
GV, quản lý GV hướng dẫn HS tự học...); quản lý đổi mới KTĐG
(bao gồm: quản lý GV thực hiện KTĐG kết quả học tập của HS
theo hướng phát triển năng lực, quản lý GV hướng dẫn HS tự
đánh giá kết quả học tập của chính mình...); quản lý GV sử dụng
CSVC, TBDH (bao gồm: quản lý GV sử dụng phòng thực hành
thí nghiệm, TBDH môn Hóa; quản lý GV thiết kế, sử dụng các
phương tiện trực quan, hiện tượng thực tế, thí nghiệm hóa học, mô
hình, mẫu vật . . .); quản lý GV tổ chức, hướng dẫn HS nghiên
cứu khoa học...
- Quản lý hoạt động học tập của HS bao gồm những nội
dung chính sau: Quản lý HS hình thành động cơ, thái độ học tập
đúng với môn Hóa học; quản lý HS tự học, tự nghiên cứu; quản lý
HS tự đánh kết quả học tập; quản lý hoạt động của cá nhân HS
hoặc của nhóm HS trong việc thực hiện các nhiệm vụ học tập…
- Hoạt động dạy học môn Hóa học ở trường trung học
phổ thông trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
- Vị trí, vai trò, nhiệm vụ của trường trung học phổ thông
- Vị trí, vai trò của trường trung học phổ thông:
Vị trí của trường THPT được quy định tại điều 02 của Điều
lệ trường THCS, trường THPT và trường phổ thông có nhiều cấp
học. Theo đó: “Trường THPT là cơ sở giáo dục phổ thông của hệ
thống giáo dục quốc dân. Trường có tư cách pháp nhân, có tài
khoản và con dấu riêng” [5]. Cấp THPT là cấp học cuối cùng của
bậc trung học trong hệ thống giáo dục quốc dân, gồm 3 lớp học:
lớp 10, lớp 11 và lớp 12 với mục tiêu là “Nhằm giúp HS củng cố
và phát triển những kết quả của giáo dục THCS, hoàn thiện học
vấn phổ thông và những hiểu biết thông thường về kĩ thuật và
hướng nghiệp để tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động” [27,103]. Như
vậy, cấp THPT là cấp học giúp HS “tiếp cận nghề nghiệp và chuẩn
bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng” [1]. Đây cũng
chính là vai trò của trường THPT.
- Nhiệm vụ của trường trung học phổ thông:
Theo quy định của Điều lệ trường phổ thông, trường THPT
có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
Một là, “tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo
dục khác theo mục tiêu, chương trình giáo dục phổ thông dành
cho cấp THPT do Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành. Công khai
mục tiêu, nội dung các hoạt động giáo dục, nguồn lực và tài chính,
kết quả đánh giá chất lượng giáo dục”.
Hai là, “quản lý GV, cán bộ, nhân viên theo quy định của
pháp luật”.
Ba là, “tuyển sinh và tiếp nhận HS; vận động HS đến
trường; quản lý HS theo quy định của Bộ GD&ĐT”.
Bốn là, “thực hiện kế hoạch phổ cập giáo dục trong phạm vi
được phân công”.
Năm là, “huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực cho hoạt
động giáo dục. Phối hợp với gia đình HS, tổ chức và cá nhân
trong hoạt động giáo dục”.
Sáu là, “quản lý, sử dụng và bảo quản CSVC, trang thiết bị
theo quy định của Nhà nước”.
Bảy là, “tổ chức cho GV, nhân viên, HS tham gia hoạt động
xã hội”.
Tám là, “thực hiện các hoạt động về kiểm định chất lượng
giáo dục”.
Chín là, “thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định
của pháp luật”. [5]
- Yêu cầu đổi mới quản lý hoạt động dạy học môn Hóa học
ở trường trung học phổ thông trong giai đoạn đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục
Quan điểm về đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt
Nam hiện nay là “đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ
quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương
pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ
sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động
quản trị của các cơ sở giáo dục, đào tạo và việc tham gia của gia
đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả
các bậc học, ngành học” [1]. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8
khóa XI của Đảng nêu: “Quản lý giáo dục và đào tạo còn nhiều
yếu kém. Đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục bất cập về chất
lượng, số lượng và cơ cấu. Việc phân định giữa quản lý nhà nước
với hoạt động quản trị trong các cơ sở giáo dục, đào tạo chưa rõ.
Công tác quản lý chất lượng, thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa
được coi trọng đúng mức. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội và gia đình chưa chặt chẽ” [1]. Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng một lần nữa xác định: “Đổi
mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ,
thống nhất, chất lượng” và “Phát triển đội ngũ nhà giáo và CBQL
giáo dục; đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động và sử
dụng hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư để phát triển giáo dục và đào
tạo” [9, 27]. Do đó, đổi mới quản lý giáo dục nói chung và đổi
mới quản lý HĐDH môn Hóa học ở trường THPT nói riêng là tất
yếu khách quan, là yêu cầu thật sự cấp thiết trong giai đoạn hiện
nay. Vì thế, CBQL các trường THPT cần phải đổi mới trong cả tư
duy và hành động; cách nghĩ, cách làm cần phải sáng tạo, phải
phát huy hết mọi khả năng, năng lực của bản thân cho sự phát
triển bền vững của nhà trường, mà trước hết là đảm bảo chất
lượng giảng dạy, giáo dục của nhà trường, trong đó có dạy học
môn Hóa học.
Yêu cầu đổi mới quản lý HĐDH môn Hóa học ở trường
THPT đó là CBQL xây dựng kế hoạch chiến lược về dạy học môn
Hóa, áp dụng các biện pháp quản lý HĐDH môn Hóa học hiệu
quả, thể hiện ở việc thực hiện có hiệu quả hoạt động giảng dạy
của GV môn Hóa, hoạt động học tập môn Hóa học của HS;
CSVC, TBDH, cũng như các điều kiện phục vụ việc tổ chức
HĐDH môn Hóa học ở trường THPT được đảm bảo. HĐDH môn
Hóa học ở trường THPT phải tổ chức theo hướng phát triển năng
lực HS. Theo đó quản lý HĐDH môn Hóa học ở trường THPT
hiện nay cần tập trung ở các nội dung: Đổi mới quản lý HĐDH;
tăng cường năng lực sử dụng nội dung, chương trình môn học phù
hợp với điều kiện thực tiễn nhà trường; đổi mới PPDH, đổi mới
SHCM theo hướng nghiên cứu bài học, xây dựng các chuyên đề
dạy học; đổi mới KTĐG kết quả học tập của HS theo hướng phát
triển năng lực; nâng cao năng lực tự học, kỹ năng hoạt động tích
cực cho HS; cân đối đủ các điều kiện đảm bảo chất lượng dạy
học, giáo dục…
- Hoạt động dạy học môn Hóa học ở trường trung học phổ
thông
- Mục tiêu dạy học môn Hóa học ở trường trung học phổ
thông
Việc dạy học môn Hóa học ở trường THPT nhằm thực hiện
các mục tiêu:
+ Một là, “trên cơ sở duy trì, tăng cường các phẩm chất và
năng lực đã hình thành thông qua môn Hóa học, HS có được hệ
thống kiến thức hóa học phổ thông cơ bản, hiện đại và thiết thực
từ đơn giản đến phức tạp, gồm kiến thức cơ sở hóa học chung,
kiến thức về hóa học vô cơ, kiến thức về hóa học hữu cơ”.
+ Hai là, “phát triển các tiềm năng, các năng lực sẵn có và
các năng lực chuyên biệt của môn hóa học như: năng lực sử dụng
ngôn ngữ hóa học, năng lực thực hành hóa học, năng lực phát hiện
và giải quyết vấn đề thông qua môn hóa học, năng lực tính toán,
năng lực vận dụng kiến thức hóa học vào cuộc sống”.
+ Ba là, “sau khi kết thúc bậc học, HS có thể tiếp tục học ở
các bậc học cao hơn, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động sản
xuất”.
+ Bốn là, giúp HS “hình thành và phát triển nhân cách công
dân”.
[6, 49]
- Nội dung dạy học môn Hóa học ở trường trung học phổ
thông
Nội dung dạy học môn Hóa học ở trường THPT được quy
định cụ thể trong chương trình giáo dục phổ thông cho cấp THPT,
được Bộ GD&ĐT ban hành, gồm “Kế hoạch dạy học” và “Nội
dung dạy học từng lớp” được quy định cụ thể cho từng loại
chương trình. Hiện nay, ở địa bàn huyện Lâm Hà, các trường
THPT đều chỉ thực hiện dạy học theo chương trình chuẩn, do đó
luận văn chỉ đề cập đến nội dung dạy học môn Hóa học cấp THPT
theo chương trình chuẩn. Cụ thể như sau:
- Về kế hoạch dạy học: Bộ GD&ĐT ban hành kế hoạch dạy
học môn Hóa học cấp THPT quy định cho chương trình chuẩn cụ
thể như sau: Số tiết dạy/tuần/lớp là 02 tiết, tổng số tuần thực
hiện/năm học/lớp là 35 tuần, tổng số tiết dạy/năm học/lớp là 70
tiết. Như vậy, thời gian cần để thực nội dung dạy học môn Hóa
học cấp THPT quy định cho chương trình chuẩn là 210 tiết học
với 105 tuần. Tuy nhiên, tùy thuộc vào thực tiễn các địa phương
và kế hoạch năm học của từng Sở GD&ĐT mà có sự cụ thể hóa
cho phù hợp trên nguyên tắc không được rút ngắn thời gian,
không được làm sai lệch nội dung.
- Về nội dung dạy học từng lớp: Nội dung dạy học bao gồm
các mảng kiến thức được cụ thể hóa thành các bài học, phần
học… quy định cụ thể cho từng lớp học.
* Nội dung dạy học hóa học lớp 10:
+ Nội dung khối kiến thức cơ sở hóa học chung: “Nguyên tử,
bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học và định luật tuần hoàn, liên
kết hóa học, phản ứng hóa học, tốc độ phản ứng và cân bằng hóa
học”.