Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tieu luan quan li nha nuoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (62.29 KB, 16 trang )

I. VÀI NÉT VỀ HỆ THỐNG THÔNG TIN.
Chúng ta tiến hàAnh đổi mới và cải cách hành chính trong
bối cảnh thế giới đang hướng tới mục tiêu toàn cầu hóa và bắt đầu
bước vào nền kinh tế tri thức, ở đó tiềm ẩn một nền tảng kỹ thuật
ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu sắc tới hình thái và sự hoạt động của
nền hành chính của tất cả các quốc gia trên thế giới; Một mô hình
chính phủ mới- chính phủ điện tử- đang hình thành: các hoạt động
dịch vụ hành chính công được tự động đến mức cao nhất, chẳng
hạn các dịch vụ cấp phép và xác nhận được thực hiện hoàn toàn
bởi các thiết bị tự động.
Thành phần tổ chức, khai thác, sử dụng và sản xuất thông tin
trong khu vực kinh tế thông tin của tổng thể nền kinh tế quốc dân
bao gồm nhiều hoạt động khác nhau, trong đó phải kể đến một hoạt
động đặc thù là quản lý nhà nước( làm chính sách, quyết đinh, kế
hoạch, ...), sau đó là các hoạt động quản lý sản xuất và kinh doanh,
điều tra thống kê, nghiên cứu khoa học, hoạt động tư vấn...
Công nghệ thông tin- viênz thông chính là cơ sở hạ tầng cơ
sở trợ giúp đắc lực cho khả năng đó. Như Hiến chưong Okinawa
1


về xã hội thông tin toàn cầu đã nhấn mạnh: "Công nghệ thông tin
và viễn thông là một trong những yếu tố tác động mạnh mẽ nhất
tới việc định hình thế kỷ XXI. Những ảnh hưởng mang tính cách
của nó tác động tới cách thức con người sống, học tập và làm việc
cũng như mối quan hệ qua lại giữa chính phủ với xã hội nói chung.
Công nghệ thông tin đang nhanh chóng trở thành một động lực
sống còn trong việc tạo ra tăng trưởng kinh tế thế giới... Do đó
chúng tôi phải bảo đảm rằng công nghệ thông tin phục vụ cho các
mục đích mang tính hỗ trợ lẫn nhau như tạo ra tăng trưởng kinh tế
bền vững, khuyến khích phúc lợi xã hội, thúc đẩy liên kết xã hội,


huy động mọi tiềm năng của xã hội để củng cố dân chủ, tăng tính
minh bạch trong trách nhiệm quản lý nhà nước, khuyến khích nhân
quyền, tính đa dạng xã hội cũng như thúc đẩy hòa bình và ổn định
quốc tế".
Tổ chức, quản lý và khai thác thông tin trong xã hội hiện đại
phải có tính toàn cầu. Đây vừa là một đòi hỏi, vừa là một hệ quả tất
yếu. Nền hành chính hiẹn đại, ở đó tồn tại một hạ tầng kỹ thuật
dưới dạng các hệ thống thông tin, cũng được định hướng phát triển
dựa trên tính chất đó.
Mô hình hệ thống thông tin kiểu E-Business, được xem như
mô hình định hướng có tính chất chiến lược đối với việc xây dựng
các hệ thống thông tin trong lĩnh vực quản lý nhà nước hướng tới
một xã hội thông tin trong tương lai.

2


Tuy nhiên, cho đến thời điểm này, tên thế giới đã có nhiều hệ
thống thông tin được tổ chức dựa trên Internet và các đặc điểm nổi
trội của một hình thái thương mại mới: Thương mại điện tử. Để dễ
hình dung bản chất thuật ngữ hệ thống thông tin kiểu E-Business,
ta xem xét cách quản lý của một cơ quan Bộ thương mại
Singapore. Để thực hiện nhiệm vụ quản lý công sản, cơ quan đã có
một hệ thống thông tin quản lý công sản. Làm cách nào khẳng định
rằng tất cả các đơn vị đều báo cáo nghiêm túc, chính xác để có thể
nói rằng hệ thống giúp họ luôn nắm rất chắc các tài sản đang sử
dụng trong các cơ quan nhà nước. Việc kiểm tra đủ số báo cáo từ
các đơn vị cơ sở có thể xem là làm được và không khó lắm, nhưng
vấn đề là chất lượng thông tin của các báo cáo đó ra sao? Như vậy
chắc chắn phải có mạng nội bộ(Intranet), các đơn vị sử dụng công

sản quản lý phần công sản của mình trên máy tính còn ở bộ họ tích
hợp các dữ liệu thành cơ sở dữ liệu công sản quốc gia. Rõ ràng
rằng hệ thống thông tin công sản được tổ chức theo mô hình mạng
nội bộ. Họ tổ chức Intranet để quản lý cơ quan Bộ, Intranet này
nằm trong Intranet của chính phủ và không liên quan đến bài toán
quản lý công sản. Đây là một cơ chế tổ chức cực kì phức tạp, tinh
xảo nhưng vận hành thì lại cực kì đơn giản và hiệu quả. Nguyên lý
này sẽ là nguyên lý phổ biến của mọi hệ thống thông tin được tổ
chức trong xã hội thông tin.

3


Một mô hình thông tin đơn giản nhất liên quan đến khái niệm
" mua bán điện tử" là việc mua sắm vật tư của một cơ quan cũng
được thực hiện qua mạng máy tính Internet. Nhu cầu mua sắm vật
tư của các đơn vị dưới dạng các phiếu đề nghị trong cơ quan được
tổng hợp và trình cấp trên kí duyệt; Sau khi được duyệt, chúng
được chuyển tới bộ phận mua sắm vật tư.Tại đây, sau khi xem xét
kỹ, các nhân viên sẽ khởi động trình duyệt ( như IE, Netcape...) và
truy cập vào các cửa hàng trên mạng để tìm hàng cần mua. Các
giao dịch được thực hiện; hàng được chọn mua và được chuyển từ
cửa hàng về cơ quan; và cuối cùng là các giao dịch thanh toán và
quyết toán giữa các bên gồm bên mua bên bán và các ngân hàng
liên quan. Tất cả các thông tin về sản phẩm như tên, chủng loại,
kích thước, ...; về người mua và người bán như tên, địa chỉ Email,
số tài khoản hoặc thẻ tín dụng...; về các giao dịch thanh toán... Đều
được tự động cập nhật và lưu trữ ở một nơi nào đó trên mạng dưới
dạng các cơ sở dữ liệu để có thể dùng lại về sau (ở đây là cơ sở dữ
liệu tại máy tính nối mạng Internet của Bộ thương mại Singapore).

Ngoại trừ các vấn đề liên quan đến quyền truy cập hợp pháp, đây
là một đặc trưng đặc thù, một lợi thế cho các bên tham gia thương
mại, trong đó có các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp... của
hình thái thương mại điện tử. Và cũng chính vì có đặc trưng lợi thế
này mà các cơ quan, tổ chức không nhất thiết phải xây dựng các hệ
thống thông tin cho riêng mình; Họ có thể dễ dàng có được các

4


thông tin mong muốn với một chi phí đủ rẻ từ các cơ sở dữ liệu
kiểu như trên. Công nghệ thông tin phát triển được xem như một
động lực đầy hứa hẹn cho sự phát triển bền vững. Định hướng
chiến lược cho việc xây dựng và phát triển các hệ thống thông tin
trong khu vực nhà nước cũng như là một phần của phát triển bền
vững. Vấn đề không chỉ là" ứng dụng tin học trong quản lý hành
chính" hay như chúng ta thường nói ngắn gọn " tin học hóa quản lý
nhà nước", mà là một cách nhìn rộng hơn, tổng thể hơn, hướng tới
một xã hội thông tin.
Internet olà một mạng của các mạng máy tính, được xem như
một siêu xa lộ thông tin liên thông trên phạm vi toàn cầu. Nhìn ở
một góc độ khác, Internet cũng được xem như một kho thông tin
khổng lồ, sẵn sàng để thay đổi cập nhật và cũng sẵn sàng đối với
các hoạt động cung cấp dịch vụ, hỗ trợ...
Xét từ bất cứ góc độ nào, các hoạt động áp dụng, sản xuất và
cung cấp thông tin trong khu vực quản lý nhà nước là rất lớn và đa
chiều. Điều này muốn nói rằng: đòi hỏi khả năng tích hợp ( kết hợp
theo chiều ngang) các hệ thống thông tin được xây dựng và phát
triển theo bộ, ngành ( chiều dọc) là một thực tế vốn có và tất yếu,
khả năng đó phải trở thành một hiện thực trong một xã hội thông

tin hiện đại. Một hệ thống thông tin đa chiều hoàn toàn có thể được
xây dựng trên nền tảng một nền công nghệ thông tin phát triển và
một xã hội thông tin toàn cầu. Một thực tế là các cơ sở dữ liệu

5


dùng chung trong phạm vi một quốc gia, trên phạm vi toàn cầu đã
và đang hình thành, đồng thời được sử dụng hữu hiệu theo kiểu
một hệ thống thông tin quản lý công sản của Singapore ở trên.
II. MỘT SỐ KHÓ KHĂN TRONG VIỆC ĐƯA CÔNG
NGHỆ THÔNG TIN VÀO QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ
NƯỚC.
Tác dụng của công nghệ thông tin tham gia hỗ trợ cho cải
cách hành chính theo hướng hiện đại hóa và khoa học như đã nói ở
trên, song việc đưa những tiến bộ của khoa học kĩ thuật, công nghệ
tiên tiến vào phục vụ cho những mục tiêu cơ bản của hoạt động
quản lý hành chính nhà nước không phải là không có khó khăn
đáng kể. Ngày nay, với điều kiện thuận lợi về chủ trương, chỉ đạo
của Nhà nước thì vấn đè khó khăn trong việc đưa công nghệ thông
tin vào quản lý hành chính nhà nước nói chung không còn là yếu tố
kinh phí cho trang thiết bị - vốn là trở ngại lớn nhất của thời kì vài
năm trước đây. Thành công của việc đưa công nghệ thông tin vào
thực tiễn hoạt động quản lý hành chính nhà nước không phải là vấn
đề kinh tế hay khả năng kĩ thuật mà là ở các yếu tố do phương
thức, quan điểm tiếp cận. Ở đây, có một số khía cạnh liên quan đến
những trở ngại này:
Thứ nhất yếu tố chuẩn hóa của nền hành chính nhà nước. Để
thực hiện công cuộc cải cách hành chính với ba nội dung: thể chế,


6


tổ chức bộ máy và đào tạo công chức, thì phải có những hệ thống
chuẩn, hoàn chỉnh về thông tin trong hoạt động của bộ máy quản lý
hành chính nhà nước các cấp một cách hệ thống chi tiết, khoa học
và hiệu quả. Muốn vậy, phải tiến hành cải tổ lại, sắp xếp lại các qui
trình nghiệp vụ hành chính của từng cấp từng cơ quan trong bộ
máy quản lý hành chính nhà nước. Ở đây đòi hỏi phải có những
qui trình chuẩn mực về hoạt động của các cơ quan quản lý nhà
nước, bảo đẩm tính thống nhất của toàn hệ thống. Muốn có được
những yếu tố này, một trong những khâu quan trọng là phải có một
hệ thống pháp luật hoàn chỉnh; phải có được những kết quả của
quá trình cải cách được đúc kết thành những qui định mang tính
pháp lý, thống nhất trong nền hành chính nhà nước. Yếu tố này sẽ
tác động nên qui mô tổ chức, xây dựng hệ thống thông tin phục vụ
quản lý hành chính nhà nước theo yêu cầu khoa học hóa và hiệu
quả hóa.
Thứ 2, yếu tố con người trong bộ máy quản lý hành chính
nhà nước với những lề lối, thói quen, tổ chức thực hiện nhiệm vụ
trong vận hành của bộ máy hiện tại cũng là yếu tố quan trọng mang
ý nghĩa then chốt cho sự thành công của vấn đề đưa công nghệ
thông tin vào thực tiễn quản lý hành chính nhà nước. Hệ thống
công nghệ thông tin sẽ gặp những lực cản không nhỏ của thực tiễn
từ phía bộ máy hiện hành ( gọi là người sử dụng) trong những
trường hợp sau:

7



Nếu hệ thống gây ra những xáo động lớn đến sự vận hành
hiện tại của bộ máy.
Nếu hệ thống gây ra sự phiền hà cho người sử dụng hơn so
với các qui trình thủ công hiện tại mà hiệu quả lại ít.
Nếu hệ thống không giải quyết những yêu cầu của quản lý .
Nếu giữa hệ thống công nghệ thông tin và trình độ, năng lực
của người sử dụng là đội ngũ công chức nhà nước với các vị trí,
nhiệm vụ khác nhau của bộ máy có khoảng cách hay sự bất cập
lớn.
Nếu hệ thống không phản ánh được bản chất của quản lý
hành chính nhà nước với tất cả tính đặc thù và cả yêu cầu và sự
vận hành theo qui luật nhằm đảm bảo chức năng của quản lý mang
tính hành chính nhà nước.
Nếu hệ thống chỉ thuần túy mô tả lại các qui trình thủ công
của bộ máy quản lý hành chính nhà nước mà thông thường có thể
nhìn thấy.
Thứ 3, bản thân sự vận hành của bộ máy quản lý hành chính
nhà nước trong mối quan hệ giữa các cấp, các cơ quan chức năng
còn có nhiều vấn đề cần phải thay đổi, cần phải qui định lại về
chức năng, mối quan hệ ... Hoạt động của bộ máy hành chính nhà
nước cấp quận, huyện, xã, phường trong mối quan hệ với các cơ
quan chức năng trên - dưới, ngang- dọc; Sự phân cấp giữa quản lý
nhà nước theo lãnh thổ với quản lý nhà nước theo ngành vẫn còn là

8


những vấn đề chưa rõ ràng. Từ đó sẽ gây khó khăn trong việc xác
định mối quan hệ thông tin giữa các đơn vị chức năng nhằm thực
hiện giải quyết thủ tục hành chính bằng hệ thống công nghệ thông

tin.
Thứ 4, việc xác định các tiêu thức thông tin phục vụ quản lý
hành chính nhà nước cần phải xuất phát từ những tiêu chí đặc thù
của quản lý hành chính nhà nước, trong đó các loại thông tin thống
kê, thông tin của từng chuyên ngành là những nguồn thông tin hỗ
trợ để từ đó xác định ra những thông tin phục vụ các chức năng
quản lý hành chính nhà nước. Bản thân nguyên tắc của thông tin
phục vụ hoạt động quản lý mang tính hành chính nhà nước so với
các thông tin thuộc các lĩnh vực quản lý chuyên ngành có những
điểm giống và có những điểm khác nhau.
Vậy làm thế nào để công nghệ thông tin thực sự đem lại
những chuyển biến mới trong hoạt động quản lý hành chính nhà
nước theo quan điểm cải cách trong điều kiện thực tiễn hiện tại với
tất cả các yếu tố khách quan và chủ quan của nền hành chính đang
cải cách, với mức độ phức tạp đặt ra của thực tiễn quản lý...? Với
câu hỏi này xin đề xuất một số phương thức tiếp cận việc xây dựng
hệ thống công nghệ thông tin phục vụ cải cách hành chính nói
chung và cơ chế một đầu mối nói riêng như sau:
Hệ thống công nghệ thông tin cần được xây dựng thông qua
sự phối hợp chặt chẽ giữa các nhà hành chính là trụ cột cho việc

9


thiết kế, tổ chức hệ thống thông tin, mà các nhà hành chính là trụ
cột cho việc thiết kế, tổ chức hệ thống thông tin, chuẩn hóa thông
tin, xác định nguyên lý vận hành của hệ thống, các khả năng hài
hòa giữa hệ thống với hiện trạng thực tiễn... Kết hợp cới nguyên lý
của khoa học hành chính, những dự đoán về các khả năng cho kết
quả và yêu cầu đòi hỏi của quá trình cải cách kết hợp với các yếu

tố thực trạng hoạt động của bộ máy quản lý hành chính nhà nước,
yếu tố con người tham gia sử dụng hệ thống, vai trò chức năng,
nhiệm vụ của từng thành viên. Với phương thức này, hệ thống
được xây dựng theo từng giai đoạn và thông qua từng phần của hệ
thống công nghệ thông tin sẽ hình thành dần những tri thức tác
phong và khả năng hòa nhập của hệ thống công nghệ thông tin với
thực tiễn quản lý. Theo phương thức này, việc lựa chọn quan điểm
xây dựng hệ thống, phương thức tổ chức triển khai, trình tự các
giai đoạn thực hiện, phương thức và chương trình đào tạo... Sẽ là
những yếu tố cần được hết sức chú trọng để bảo đảm tính khả thi
của toàn hệ thống.
Thực tế hiện nay có nhiều phương thức khác nhau đối với
việc triển khai, xây dựng hệ thống công nghệ thông tin phục vụ các
hoạt động quản lý hành chính nhà nước và cải cách hành chính nhà
nước.
Nhiều nơi chỉ mới dừng ở mức trang bị máy tính sử dụng
thay cho máy đánh chữ để sử dụng một số công hiệu của thiết bị

10


giúp cho công tác văn bản của các cơ quan được thuận tiện hơn.
Đây là trường hợp tiếp thu công nghệ thông tin một cách hời hợt,
lãng phí và không hiệu quả đối với công cuộc cải cách.
Ngược lại, tại một số đơn vị thì lại cho xây dựng những hệ
thống công nghệ thông tin đồ sộ, tốn kém, ít hiệu quả với những ý
tưởng xa với thực tiễn và gần như không mang tính khả thi đối với
việc triển khai. Đây thường là trường hợp khoán trắng cho các
chuyên gia công nghệ thông tin tự khảo sát, nghiên cứu thực tiễn
để xây dựng các hệ thống công nghệ thông tin. Do vậy, thường dẫn

đến tình trạng hệ thống xây dựng không mang tính khả thi, đặc biệt
không phù hợp với bản chất, đặc điểm của hoạt động thực tiễn
trong môi trường quản lý hành chính nhà nước và không giải quyết
được những yêu cầu mang tính quyết định đến thành công của
công nghệ thông tin đối với công cuộc cải cách hành chính.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐƯA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
PHỤC VỤ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VÀ CẢI
CÁCH HÀNH CHÍNH
Để khắc phục, tháo gỡ và hạn chế những " rào cản" trong
quản lý hành chính nhà nước, về cải cách để xây dựng cho được
một nền hành chính lành mạnh và tích cực cần phải đi sâu vào thực
chất, chứ không thể chỉ dừng lại ở những khẩu hiệu chung chung,
duy ý chí. Hơn bao giờ hết, bây giờ đây người dân đòi hỏi nhà

11


nước phải có một nền hành chính không chỉ lành mạnh và tích cực,
mà con phải thông minh, phù hợp với trình độ phát triển kinh tếxã hội. Đứng về phía nhà nước, phải có một bộ máy hành chính
chặt chẽ, hết sức khoa học, bảo đảm làm tốt chức năng quản lý và
tạo điều kiện thuận lợi nhất cho mọi công dân và tổ chức trong
việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ đều phải rõ ràng và dễ
hiểu, mọi thủ tục thực hiện đều phải dễ dàng, đơn giản, những
cũng phải được bảo đảm chắc chắn.
1. Quan điểm xây dựng hệ thống công nghệ thông tin

Thống nhất quan điểm trong việc đưa công nghệ thông tin
vào hoạt động của toàn bộ máy quản lý nhà nước và cải cách hành
chính. Sự chỉ đạo thống nhất và quyết tâm cao của lãnh đạo đơn vị
thuộc bộ máy sẽ là yếu tố quyết định đến thành công của hệ thống.

Hệ thống công nghệ thông tin phục vụ quản lý hành chính
nhà nước và cải cách hành chính phải được xây dựng xuất phát từ
mô hình tổ chức bộ máy thông tin phục vụ các qui trình thông tin
giữa các thành viên chức năng trong bộ máy quản lý hành chính
nhà nước cấp chính quyền địa phương, phải đảm bảo các mối quan
hệ về chức năng giữa Ủy ban nhân dân thành phố, các Sở ngành,
Ủy ban nhân dân quận, huỵên và Ủy ban nhân dân cấp phường, xã
và các cơ quan, đơn vị hữu quan khác.

12


Hệ thống cần xác định mục tiêu giải quyết các qui trình thông
tin quan trọng trong hoạt động của bộ máy quản lý hành chính nhà
nước theo mô hình tổng thể, được thực hiện qua nhiều giai đoạn.
Giai đoạn đầu tiên là yếu tố quyết định đến thành công của toàn bộ
hệ thống nên việc lựa chọn mô hình và phương pháp tiến hành
nhằm đảm bảo thành công ngay từ giai đoạn đầu mang ý nghĩa
quyết định.
Cần xác định mục tiêu và đối tượng của hệ thống công nghệ
thông tin là hoạt động của toàn bộ máy quản lý hành chính nhà
nước bao gồm: tổ chức bộ máy, con người trong bộ máy, các qui
trình mang tính nghiệp vụ, mối quan hệ giữa các chức năng... Từ
đó sẽ xác định được xuất phát điểm và phương thức tiến hành việc
đưa công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý hành chính nhà
nước một cách hiệu quả.
2.Về phương thức thực hiện và triển khai hệ thống

Hệ thống công nghệ thông tin trong quản lý hành chính nhà
nước là sự ghép nối liên hoàn giữa nhiều thành viên trong bộ máy

quản lý, đòi hỏi sự tham gia theo đúng chức năng của từng thành
viên về thủ tục của thông tin, nội dung thông tin và những qui định
về qui trình thực hiện. Do đó, khâu tổ chức thực hiện việc xây
dựng và đưa vào sử dụng hệ thống công nghệ thông tin trong quản

13


lý hành chính là khâu quan trọng, đóng vai trò quyết định đến hiệu
quả và thành bại của cả hệ thống.
Việc xây dựng toàn hệ thống cần chú ý chia thành nhiều giai
đoạn thực hiện theo nhiều mốc thời gian.Khi thiết kế hệ thống cần
phải thiết kế tổng thể toàn hệ thống, Sau đó chia thành từng giai
đoạn. Như vậy vừa bảo đảm tính khả thỉtong việc thực hiện, đáp
ứng khả năng tiếp thu hệ thống của người sử dụng, vừa bảo đảm
dàn trải kinh phí thực hiện hệ thống. Riêng về hệ thống thông tin,
cần xác định những nội dung thông tin quan trọng, có ảnh hưởng
lớn đến quá trình cải cách hành chính để tiến hành thực hiện trước.
Như vậy hệ thống vừa có sức thuyết phục, vừa mang lại hiệu quả
ngay từ đầu.
3. Một số vấn đề cần lưu ý trong quá trình đưa công
nghệ thông tinvào quản lý hành chính nhà nước và cải
cách hành chính
Tránh tình trạng chỉ chú trọng đến trang thiết bị mà không
quan tâm đến vấn đề đào tạo và xây dựng hệ thống phần mềm ứng
dụng.
Khi xây dựng phần mềm ứng dụng, cần chú ý các khâu: tính
năng của phần mềm, tổ chức sử dụng qua từng khâu nghiệp vụ của
quy trình quản lý, khả năng phát triển của phần mềm, tính thân
thiện của phần mềm với người sử dụng. Trong thực tiễn, thường


14


các phần mềm ứng dụng không giải quyết được các yêu cầu cơ bản
đặt ra và đặc biệt thường ít chú ý đến nội dung và yêu cầu của cải
cách hành chính- đó là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn
đến sự không thành công.
Tránh tình trạng hệ thống tin học làm tăng mức độ phức tạp
trong hoạt động của cơ quan do kém phù hợp với phần mềm ứng
dụng và vị trí, chức năng của thiết bị kém hợp lý trong các công
đoạn hoạt động của thực tiễn.
Tránh tình trạng sử dụng thiết bị chỉ để thực hiện thay thế lao
động thủ công ở một số khâu như đánh máy văn bản, lưu giữ đơn
giản, không mang tính hệ thống, không có giá trị sử dụng lâu dài.
Tránh tình trạng không có người sử dụng khi triển khai hệ
thống do không chú trọng khâu đào tạo và sản phẩm phần mềm
kém thuyết phục đối với người sử dụng.
Tránh tình trạng hệ thống chỉ hoạt động ở giai đoạn triển
khai, không trở thành bộ phận thiết yếu gắn với qui trình hoạt động
của bộ máy.
Cần lưu ý vai trò quan trọng của hệ thống phần mềm ứng
dụng vì đây là biểu hiện rõ nhất việc hệ thống có đi vào hoạt động
hiệu quả hay không và người sử dụng có chấp nhận hay không?
Nếu không chú ý đúng mức khâu này thì kết quả của hệ thống
thông tin chỉ là hệ thống máy chữ hiện đại.

15



Một yếu tố nữa cần lưu ý là nhà cung cấp phần mềm phải
thực sự am hiểu về hệ thống thông tin phục vụ quản lý hành chính
nhà nước và cải cách hành chính nhà nước, hiểu về nhu cầu thông
tin phục vụ chức năng hoạt động của hệ thống, các nguồn gốc cung
cấp thông tin vào hệ thống và khả năng tiếp thu hệ thống của người
sử dụng, sự tác động của hệ thống lên thói quen, lề lối làm việc của
bộ máy, tâm lý của người sử dụng trong quá trình tiếp thu hệ
thống.
Một giải pháp hữu hiệu nữa là các nhà quản lý trong bộ máy
quản lý hành chính nhà nước- những người đặt ra yêu cầu cho hệ
thống công nghệ thông tin - những người xây dựng hệ thống- phải
thật sự hiểu và cộng tác được với nhau để tìm ra những giải pháp
cần thiết để đưa công nghệ thông tin vào quản lý hành chính và cải
cách hành chính.

16



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×