Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

VAI TRÒ của LUẬT sư TRONG TTHS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.68 KB, 29 trang )

Đề tài: Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự

1. Lý do chọn đề tài
Mỗi sự vật hiện tượng cũng như mỗi cá nhân chúng ta tồn tại trong cuộc sống
điều mang một vai trò và ý nghĩa của nó. Một giáo viên hàng ngày đứng trên bục
giảng, đạo tạo biết bao thế hệ học sinh trở thành những con người hữu ích. Một bác sĩ
cứu sống vô số những bệnh nhân thoát khỏi sự đau đớn của bệnh tật và hơn thế nữa là
thoát khỏi cái chết. Cũng có một con người tương tự như thế nhưng họ không giáo dục
học sinh bằng kiến thức sư phạm, cũng không chăm sóc những bệnh nhân của mình
bằng kiến thức y học, mà họ giáo dục và chăm sóc con người bằng kiến thức pháp luật.
Họ thực hiện nhiệm vụ của mình bằng lương tâm, bằng ý thức trách nhiệm và bằng
lòng quả cảm để giúp cho người dân lấy lại sự công bằng. Đó chính là luật sư. Trải qua
các giai đoạn, luật sư đã không ngừng nâng cao vai trò của mình trong xã hội nói
chung và trong tố tụng hình sự nói riêng. Nghị quyết 49 NQ/TW ngày 02/06/2005 của
Bộ Chính Trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nêu rõ: “Đào tạo, phát
triển đội ngũ luật sư về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên
môn. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa,
đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư. Nhà nước tạo điều kiện về
pháp lý để phát huy chế độ tự quản của tổ chức luật sư; đề cao trách nhiệm của các tổ
chức luật sư với thành viên của mình”. Có thể nói, trong giai đoạn đất nước hội nhập
như hiện nay, luật sư trở thành một bộ phận không thể thiếu trong xã hội. Thế nhưng,
đến nay vai trò của luật sư vẫn còn bị xem nhẹ. Mặc dù luật đã có những quy định cụ
thể nhưng trong hoạt động tố tụng hình sự, họ vẫn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn
do quan niệm sai lầm của một số cán bộ và người dân. Vì thế em chọn đề tài “Vai trò
của luật sư trong tố tụng hình sự” để tìm hiểu rõ hơn vai trò của luật sư trong hoạt
động tố tụng hình sự, thành tựu và những mặt hạn chế để từ đó tìm ra phương hướng
khắc phục, đảm bảo thực hiện tốt công tác bào chữa theo tinh thần chỉ đạo của Đảng
và Nhà nước.
2. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu đề tài là trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận, quy định


của pháp luật và thực tiễn về vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự, từ đó đưa ra
những kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động của luật sư
1


Đề tài: Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự
và các giải pháp bảo đảm, nâng cao chất lượng hoạt động bào chữa của Luật sư trong
tố tụng hình sự.

3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về vai

trò của luật sư trong tố tụng hình sự, bao gồm từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và
giai đoạn thi hành án. Đồng thời nghiên cứu các quy định pháp luật liên quan đến hoạt
động của luật sư để làm nổi bật vai trò của luật sư trong từng giai đoạn.
- Phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu nội dung vai trò của luật sư

trong tố tụng hình sự và thực trạng của hoạt động này, không nghiên cứu vai trò của
luật sư trong một số trường hợp đặc thù như bào chữa cho người chưa thành niên, theo
thủ tục rút gọn và sau phiên toà sơ thẩm. Trong thời gian nghiên cứu có hạn, đề tài tập
trung nghiên cứu quy định của BLTTHS năm 2003 và các văn bản pháp luật khác có
liên quan đến luật sư.

4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, dựa trên nền tảng triết học Mác – LêNin, đề tài vận
dụng chủ yếu phương pháp phân tích luật viết, phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh
một cách khoa học. Dựa vào các quy định hiện hành của pháp luật về vai trò của luật
sư, kết hợp với việc nghiên cứu hoạt động của luật sư trong thực tiễn để có thể thấy
được vai trò của luật sư, những ưu khuyết điểm từ đó tìm ra phương hướng khắc phục,
nâng cao hơn nữa vai trò của luật sư trong hoạt động nghề nghiệp.

5. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm ba phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Trong đó
phần nội dung gồm hai chương:
- Chương 1: Khái quát những quy định pháp luật về luật sư trong tố tụng hình

sự việt nam
- Chương 2: Thực tiễn thực thi vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự và

hướng hoàn thiện.

2


Đề tài: Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ LUẬT SƯ
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm luật sư, nguyên tắc, tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề

luật sư
1.1.1. Khái niệm luật sư
Hiện nay, trong khoa học pháp lý và thực tiễn tố tụng có những cách hiểu khác
nhau về luật sư. Có một số quan điểm cho rằng luật sư là người giúp đỡ Tòa án trong
việc xác định tất cả các tình tiết cần thiết về vụ án để cuối cùng Tòa án ra một bản án
có căn cứ và đúng pháp luật. Một tác giả khác còn khẳng định rõ hơn rằng luật sư là
người tham gia tố tụng để giúp đỡ Tòa án. Ngoài ra, cũng có không ít người vẫn quan
niệm luật sư là “thầy cãi”1. Tuy nhiên, dù hiểu như thế nào thì vẫn phải thừa nhận rằng,
luật sư trước tiên là một chuyên gia pháp luật, là một cố vấn pháp luật mà ở họ có
những kỹ năng nghề nghiệp thực thụ.
Theo điều 2, Luật Luật sư năm 2006 quy định: “Luật sư là người có đủ tiêu
chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo

yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là khách hàng)”.
Từ những phân tích và quy định của Luật luật luật sư về luật sư nêu trên, chúng
ta có thể đưa ra khái niệm luật sư trong tố tụng hình sự như sau: “Luật sư trong tố
tụng hình sự là người tham gia tố tụng để làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án nhằm
chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội
(nếu là luật sư bào chữa), giúp khách hàng về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của họ, thông qua đó góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
1.1.2. Nguyên tắc hành nghề luật sư
Theo Điều 5, Luật luật sư 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012 quy định về “Nguyên
tắc hành nghề luật sư như sau:
- Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật
Luật sư trước hết là những người nắm vững, am hiểu pháp luật và có một vốn
kiến thức khá vững vàng về luật. Vì thế, luật sư hơn ai hết phải là những người tuân
1

Trần Văn Bảy – Người bào chữa trong tố tụng hình sự.Tạp chí Khoa học pháp lý (số 1/2001).

3


Đề tài: Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự
thủ những quy định của Hiến pháp và pháp luật. Luật sư còn có thể được xem là cầu
nối giữa người dân với pháp luật thông qua hoạt động tư vấn pháp luật. Vì vậy, luật sư
có tuân thủ Hiến pháp và pháp luật mới có thể hướng dẫn người dân tuân theo pháp
luật
- Tuân thủ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư.
Là một luật sư thì quy tắc đạo đức được xem là quan trọng nhất. Tại Điều 10
Luật luật sư cũng quy định luật sư phải là những con người có phẩm chất đạo đức tốt.
Bởi vì một con người có phẩm chất đạo đức tốt mới có thể xử sự một cách đúng đắn,
biết tránh những xấu xa, cám dỗ.

- Độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan.
Luật sư phải luôn trung thực và tôn trọng sự thật khách quan. Luật sư vốn là
người bảo vệ công lý. Có như thế thì luật sư mới thực hiện tốt vai trò của mình, góp
phần đảm bảo pháp luật thi hành nghiêm chỉnh, hạn chế tình trạng oan sai. Để trở
thành một luật sư thật thì tính trung thực cũng là một yếu tố quan trọng. Do pháp luật
vốn là một lĩnh vực rộng lớn và phức tạp mà không phải người dân nào cũng hiểu
được. Nếu một luật sư không trung thực, không có đạo đức và lương tâm sẽ dễ lợi
dụng sự kém hiểu biết của người dân để thu lợi cá nhân cho mình
Ngoài những nguyên tắc trên, luật sư khi hành nghề còn phải tuân thủ các nguyên
tắc khác như: Sử dụng các biện pháp hợp pháp để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp
pháp của khách hàng; Chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động nghề nghiệp luật
sư.
1.1.3. Tiêu chuẩn hành nghề luật sư
Điều 10, Luật luật sư 2006 sửa đổi bổ sung năm 2012 quy định tiêu chuẩn hành
nghề luật sư như sau: “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến
pháp và pháp luật; có phẩm chất đạo đức tốt; có bằng cử nhân luật; đã được đào tạo
nghề luật sư; đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư; có sức khỏe đảm bảo hành
nghề luật sư”. Nếu đáp ứng đầy đủ các quy định này thì có thể trở thành luật sư. Như
vậy, ngoài những nguyên tắc hành nghề như mục 1.1.2 nêu trên thì để trở thành luật sư
còn phải có những điều kiện theo quy định.
4


Đề tài: Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự
Một luật sư thì cần phải trang bị cho mình một kiến thức vững vàng. Tuy nhiên
với vốn kiến thức được đào tạo ở bậc đại học thôi thì vẫn chưa đủ, học viên cần phải
có thời gian đào tạo nghề luật sư. Theo khoản 2 Điều 12, Luật sửa đổi bổ sung Luật
luật sư 2006 quy định: “Người có bằng cử nhân luật được đăng ký tham gia khóa đào
tạo nghề luật sư tại các cơ sở đào tạo nghề luật sư; thời gian đào tạo nghề luật sư là
12 tháng”. Ngoài ra, để tạo điều kiện cho học viên có thể tích lũy kinh nghiệm qua

hoạt động thực tế, tại Điều 14, Luật sửa đổi bổ sung Luật luật sư 2006 quy định:
“Người có Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề luật sư thì được tập sự hành
nghề luật sư tại tổ chức hành nghề luật sư. Thời gian tập sự hành nghề luật sư là mười
hai tháng”. Bên cạnh đó, một trong những điều kiện không thể thiếu để trở thành luật
sư là phải có sức khỏe tốt. Cũng giống như những người làm nghề khác, người làm
nghề luật sư vất vả hơn và phải chịu áp lực công việc nặng nề, nên có một sức khỏe tốt
thì mới có thể hoàn thành tốt công việc của mình.
1.1.4. Điều kiện hành nghề luật sư
Ngoài các tiêu chuẩn nêu trên, luật sư còn phải đáp ứng các điều kiện hành nghề
luật sư như sau:“Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 10 của Luật này muốn
được hành nghề luật sư phải có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập Đoàn luật
sư”2.
Theo đó, bất kỳ ai có Chứng chỉ hành nghề luật sư đều có quyền lựa chọn gia
nhập một Đoàn luật sư để hành nghề luật sư. Ngoài ra, người đã gia nhập Đoàn luật sư
phải làm việc theo hợp đồng lao động cho tổ chức hành nghề luật sư, hành nghề với tư
cách cá nhân theo hợp đồng lao động cho cơ quan, tổ chức hoặc thành lập, tham gia
thành lập tổ chức hành nghề luật sư theo quy định của Luật này tại địa phương nơi
Đoàn luật sư có trụ sở3.
1.2. Quyền và nghĩa vụ của luật sư trong tố tụng hình sự
Khoản 1, Điều 56, Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định: “Người bào chữa có
thể là: luật sư, người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc bào
chữa viên nhân dân”. Như vậy luật sư cũng là một người bào chữa. Vì vậy quyền và
2
3

Điều 11 Luật luật sư 2006 sửa đổi bổ sung năm 2012.
Khoản 1 Điều 20 Luật sửa đổi bổ sung Luật luật sư 2006.

5



Đề tài: Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự
nghĩa vụ của người bào chữa được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự cũng được
xem là quyền và nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự. Ngoài ra, luật sư
còn tham gia tố tụng hình sự với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự như bị hại, người nhà bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Do đó, tùy vào tư cách luật sư tham gia tố tụng mà
quyền và nghĩa vụ được quy định khác nhau.
1.2.1. Quyền của luật sư trong tố tụng hình sự
Ngoài các quy định chung về quyền luật sư tại Điều 21 Luật luật sư như: “Hành
nghề luật sư, lựa chọn hình thức hành nghề luật sư và hình thức tổ chức hành nghề
luật sư theo quy định của Luật này; Hành nghề luật sư trên toàn lãnh thổ Việt Nam;
Hành nghề luật sư ở nước ngoài và các quyền khác theo quy định của luật này”. Thì
khi tham gia tố tụng hình sự, luật sư còn có những quyền hạn nhất định. Cụ thể, theo
Điều 58 và Điều 59 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định về quyền của người bào
chữa, bảo vệ như sau:
- Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều
tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong các hoạt động
điều tra khác; xem xét các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và
các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;
- Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can
để có mặt khi hỏi cung bị can;
- Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch
theo quy định của Bộ luật này;
- Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá
nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật Nhà
nước, bí mật công tác;
- Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
- Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;


6


Đề tài: Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự
-

Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc

bào chữa, bảo vệ sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;
- Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa;
- Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng;
- Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu khách hàng là người chưa thành
niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2
Điều 57 của Bộ luật này.
1.2.2. Nghĩa vụ của luật sư
Theo Điều 22, khoản 2, Luật luật sư 2007 quy định các nghĩa vụ chung mà mà
luật sư phải tuân thủ đầu tiên, đó là: Tuân theo các nguyên tắc hành nghề Luật sư; Sử
dụng các biện pháp hợp pháp để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng; Tham
gia tố tụng trong các vụ án do cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu; Thực hiện trợ giúp
pháp lý miễn phí và các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật luật sư.
Khi tham gia vụ án hình sự, đối với luật sư bào chữa, pháp luật quy định cho họ
có những nghĩa vụ riêng, phù hợp với bản chất và địa vị pháp lý của họ trong tố tụng
hình sự. Cụ thể, theo Khoản 3, Điều 58, Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định luật sư
bào chữa có các nghĩa vụ sau:
- Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết
xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của bị can, bị cáo. Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu,
đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều

tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa
và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập thành văn bản theo quy định tại Điều 95
của Bộ luật này;
-

Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của họ;
- Không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã
đảm nhận bào chữa, nếu không có lý do chính đáng;
7


Đề tài: Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự
- Tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc; cưỡng ép hoặc xúi
giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật;
- Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án;
- Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào
chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục
đích xâm phạm lợi ích Nhà nước; quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá
nhân.
Đối với luật sư tham gia tố tụng với tư cách người bảo vệ quyền lợi của đương sự
thì pháp luật quy định cho họ có nghĩa vụ ít hơn người bào chữa. Luật sư bảo vệ chỉ có
nghĩa vụ: Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để góp phần làm rõ sự thật của
vụ án và giúp đương sự về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ4.
Nếu luật sư vi phạm những quy định về nghĩa vụ nêu trên thì tùy theo tính chất,
mức độ vi phạm mà bị thu hồi giấy chứng nhận bào chữa, bảo vệ; xử lý kỷ luật, xử
phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi
thường theo quy định của pháp luật.
1.3. Thời điểm luật sư tham gia hoạt động tố tụng hình sự

Để đảm bảo trong quá trình điều tra không xảy ra tiêu cực, không có tình trạng
mớm cung, dụ cung, dùng nhục hình đối với bị can, bị cáo thì pháp luật đã cho phép
luật sư được phép tham gia vào hoạt động tố tụng từ giai đoạn điều tra, trong trường
hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào
chữa tham gia từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật quốc gia
đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định
để người bào chữa tham gia từ khi kết thúc điều tra5.
Việc quy định người bào chữa tham gia từ khi có quyết định tạm giữ là điểm tiến
bộ, thể hiện rõ nét hơn về vai trò của luật sư trong quá trình tố tụng, tạo điều kiện
thuận lợi cho luật sư trong việc thực hiện quyền bào chữa của mình. Ngoài ra sẽ có tác
dụng tốt hơn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can

4
5

Khoản 4 Điều 59 BLTTHS 2003.
Khoản 1, Điều 58, Bộ luật tố tụng hình sự 2003.

8


Đề tài: Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự
ngăn ngừa những hành vi trái pháp luật có thể xảy ra trong giai đoạn đó, đảm bảo pháp
chế xã hội chủ nghĩa.
Đối với những tội xâm phạm an ninh quốc gia, luật quy định người bào chữa
tham gia từ khi kết thúc điều tra. Hiện nay có nhiều tranh cải xoay quanh vấn đề này.
Có quan điểm cho rằng luật sư tham gia vào mọi giai đoạn của quá trình tố tụng sẽ bảo
vệ tốt hơn quyền lợi của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Vì đối với loại tội phạm về
an ninh quốc gia, tình hình tội phạm diễn biến khá phức tạp, bọn tội phạm hoạt động
tinh vi hơn như: tuyên truyền, lôi kéo, kích động người dân hoạt động chống chính

quyền…Luật cũng có những chế tài khắt khe đối với loại tội phạm trên. Vì thế nếu
không điều tra làm rõ thì rất dễ làm oan người vô tội hoặc xử phạt quá khắt khe so với
hành vi mà họ thực hiện, không thể hiện được chính sách khoan hồng của Nhà nước ta.
Bên cạnh đó cũng có quan điểm cho rằng luật sư tham gia vào quá trình điều tra đối
với các tội xâm phạm an ninh quốc gia có thể sẽ làm lộ bí mật điều tra, bỏ lọt tội
phạm, không trừng trị thích đáng kẻ phạm tội. Tuy nhiên, nhìn chung cả hai quan điểm
trên đều nhằm mục đích bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, không để sót tội phạm,
tránh làm oan người vô tội.
1.4. Vai trò của luật sư trong các giai đoạn của tố tụng hình sự
1.4.1. Vai trò của luật sư trong giai đoạn khởi tố vụ án
Khởi tố là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng. Khởi tố đúng đắn và kịp thời
là một trong những đảm bảo quan trọng để xử lý nhanh chóng, công minh đối với hành
vi phạm tội đã xảy ra. Ngược lại, nếu các hoạt động tố tụng trong giai đoạn khởi tố vụ
án hình sự không đầy đủ, chính xác thì có thể dẫn đến những sai lệch hoặc khó khăn
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định từng
trường hợp như đã nêu trên thì luật sư có thể tham gia tố tụng từ giai đoạn có quyết
định tạm giữ hoặc giai đoạn điều tra. Việc quy định như thế nhằm đảm bảo cho luật sư
thực hiện tốt chức năng của mình, bảo vệ quyền lợi của người dân ngay từ giai đoạn
đầu tiên của quá trình tố tụng.
Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định căn cứ khởi tố vụ án hình sự như sau “Chỉ
được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm” 6. Tuy nhiên các căn
6

Điều 100 BLTTHS 2003.

9


Đề tài: Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự
cứ ấy nếu không qua quá trình điều tra, xác minh một cách nghiêm chỉnh, đúng pháp

luật sẽ dễ bỏ sót tội phạm, làm oan người vô tội.
Như vậy, vai trò của luật sư trong giai đoạn này trở nên rất cần thiết. Luật sư
không những có đủ khả năng để thu thập những chứng cứ để chứng minh sự vô tội của
người mà mình nhận bào chữa, tránh cho họ khỏi phải bị tiến hành những hoạt động tố
tụng tiếp theo, sớm trả lại sự trong sạch cho họ, mà còn giúp cho các cơ quan công
quyền kịp thời phát hiện những sai sót của mình để khắc phục, tránh phải uổng phí
thời gian và công sức tiền bạc của Nhà nước để buộc tội một người vốn không có tội,
giúp khởi tố về tội danh tương ứng với hành vi mà người phạm tội đã thực hiện, đảm
bảo sự công minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa.
1.4.2. Vai trò của luật sư trong giai đoạn điều tra
Điều tra là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự do Cơ quan có thẩm
quyền điều tra hình sự tiến hành nhằm thu thập đầy đủ chứng cứ chứng minh về tội
phạm. Giai đoạn điều tra là giai đoạn tiếp theo sau của giai đoạn khởi tố được tiến
hành trên cơ sở quyết định khởi tố của Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Theo Điều 3
Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự 2004 thì nhiệm vụ của giai đoạn này là tìm ra
nguyên nhân và điều kiện phạm tội; áp dụng mọi biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự
quy định để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội; yêu cầu cơ quan,
tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Trong đó, hoạt động
xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội là nhiệm vụ trọng tâm của
giai đoạn điều tra.
Trong quá trình điều tra do niềm tin nội tâm cho rằng bị can là người có tội, nên
họ thường chỉ làm rõ những chứng cứ buộc tội, những tình tiết tăng nặng mà không
quan tâm gì đến những chứng cứ chứng minh sự vô tội của bị can. Hơn nữa, luật quy
định bị can có quyền tự bào chữa hoặc đưa ra những tài liệu, đồ vật để chứng minh sự
vô tội. Nhưng trên thực tế, bị can nếu như đang bị tạm giam thì liệu họ có thể làm
được gì để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Một phần do không hiểu nhiều
về pháp luật, lại không được các cơ quan tiến hành tố tụng giải thích rõ về quyền lợi
mà họ được hưởng, thêm vào đó là trạng thái tâm lý không ổn định, tất những điều đó
có thể làm ảnh hưởng đến việc tự bào chữa của bị can, bị cáo.
10



Đề tài: Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự
Sự tham gia của luật sư trong quá trình điều tra ngoài việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của bị can, mà còn giúp cho Cơ quan điều tra thực hiện chức năng của
mình một cách nghiêm chỉnh theo đúng quy định của pháp luật. Ngoài ra, việc có mặt
luật sư ở giai đoạn này đã mang lại nhiều thiết thực không chỉ cho bị can, bị cáo mà
phần nào còn giúp cơ quan tiến hành tố tụng truy tố, xét xử đúng người, đúng tội.
Ngoài ra, sự tham gia của luật sư khi hỏi cung bị can hoặc khi lấy lời khai người
bị tạm giữ sẽ giúp cho quá trình điều tra được thực hiện theo đúng quy định của pháp
luật hơn, đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can đã được quy định trong
Hiến pháp, tránh được tình trạng oan sai do bị mớm cung, bức cung, đe dọa…
Luật sư còn có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định,
người phiên dịch nếu xét thấy những người này không thể vô tư, khách quan trọng quá
trình điều tra vụ án. Điều đó sẽ góp phần bảo vệ quyền lợi của bị can, bị cáo, đảm bảo
cho việc điều tra được công bằng, thể hiện tính nghiêm minh trong Nhà nước pháp
quyền.
1.4.3. Vai trò của luật sư trong giai đoạn truy tố
Giai đoạn truy tố là giai đoạn tiếp theo giai đoạn điều tra, do Viện kiểm sát nhân
danh Nhà nước thực hiện sự buộc tội bị can với một tội danh nhất định và khung hình
phạt nhất định để đề nghị Tòa án xét xử. Nhiệm vụ của giai đoạn truy tố nhằm đảm
bảo việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can là có căn cứ và hợp pháp, không
để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Sau khi kết thúc giai đoạn điều tra, khi có
những bằng chứng để chứng minh tội phạm, người phạm tội, Cơ quan điều tra quyết
định đề nghị Viện kiển sát truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử.
Luật sư tham gia vào giai đoạn truy tố vụ án nhằm đảm bảo các cơ quan chức
năng thực hiện đúng nghĩa vụ và quyền hạn của mình. Luật quy định luật sư cũng có
thể đề nghị đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án nếu xét thấy vụ án có những điểm không
phù hợp với quy định của pháp luật.
Luật cũng quy định luật sư có quyền đọc bản cáo trạng nhằm tạo điều kiện tốt

hơn cho luật sư trong việc thực hiện chức năng bào chữa của mình. Thông qua bản cáo
trạng, luật sư sẽ có những phân tích, đánh giá sâu hơn về những tình tiết có liên quan
11


Đề tài: Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự
đến bị cáo như về nhân thân, mức độ lỗi…từ đó có thể xác định sự thật khách quan của
vụ án, đảm bảo việc khởi tố bị cáo với một tội danh nào đó tương ứng với hành vi mà
họ thực hiện.
1.4.4. Vai trò của luật sư trong việc giải quyết những vấn đề khác liên quan
đến quy định chung tại phiên tòa
Trong tố tụng hình sự, hoạt động xét xử nói chung được coi là đặc biệt quan
trọng và là giai đoạn trung tâm của quá trình giải quyết vụ án hình sự. Các giai đoạn tố
tụng trước đó từ khi khởi tố, điều tra, truy tố chỉ là các giai đoạn xác định và tìm kiếm
thông tin, chứng minh sư việc xảy ra một cách toàn diện nhưng vẫn chưa phải là quá
trình định tội. Vì vậy, giai đoạn xét xử vụ án hình sự là giai đoạn tập trung cao nhất
quyền bào chữa được đảm bảo thực hiện bằng phương thức tranh tụng.
Trong giai đoạn này, luật sư thực hiện chức năng của mình bằng cách giúp bị cáo
thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng mà pháp luật quy định, tham gia xét hỏi, trình
bày lời bào chữa và đối đáp với Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng khác để tranh
luận nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo.
Luật sư tham gia phiên tòa sẽ đảm bảo cho việc tranh tụng công khai trước tòa,
giữa một bên buộc tội và một bên gỡ tội, từ đó xác định sự thật khách quan của vụ án,
đảm bảo việc xét xử chính xác, công bằng. Với nhiệm vụ bào chữa cho bị cáo, luật sư
phải có nghĩa vụ tham gia phiên tòa, vấn đề đặt ra là Tòa án không buộc phải hoãn
phiên tòa khi không có mặt của luật sư, trong trường hợp luật sư vắng mặt nhưng đã
gửi trước bài bào chữa thì Tòa án vẫn có thể tiến hành phiên tòa xét xử. Để đảm bảo
quyền lợi của bị cáo được bảo vệ, đảm bảo công tác xét xử đạt hiệu quả cao và cũng
tạo điều kiện cho luật sư trong việc thực hiện nhiệm vụ bào chữa của mình, nếu sự có
mặt của luật sư là cần thiết nhằm bảo vệ quyền lợi của bị cáo thì Hội đồng xét xử cũng

có thể xem xét để hoãn phiên tòa.
Trong giai đoạn xét xử, còn có nhiều vấn đề liên quan cần phải được thực nghiêm
chỉnh để đảm bảo công tác xét xử diễn ra công bằng, dân chủ và đúng pháp luật. Trong
một số Điều của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 liên quan đến những quy định chung về
thủ tục của phiên tòa có bao hàm những bảo đảm tố tụng đối với việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của bị cáo. Như sự có mặt của người là chứng (Điều 192, Bộ luật tố
12


Đề tài: Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự
tụng hình sự 2003); sự có mặt của người giám định (Điều 193, Bộ luật tố tụng hình sự
2003)…Mặc dù những Điều luật này không liên quan trực tiếp đến việc bào chữa tại
phiên tòa, nhưng nội dung và tính chất của nó lại có liên quan trực tiếp đến việc thực
hiện quyền bào chữa của bị cáo. Việc có mặt người làm chứng, người bị hại tại phiên
tòa mà thông qua lời khai của họ luật sư có thể làm rõ những tình tiết có ảnh hưởng
đến việc giải quyết vụ án. Vì vậy để quá trình xét xử được công bằng, góp phần xác
định sự thật khách quan của vụ án, luật sư cần có những biện pháp đảm bảo sự có mặt
của những người này trong trường hợp họ vắng mặt mà không có lý do chính đáng.
Một trong những điều kiện tố tụng quan trọng của phiên tòa là việc trả hồ sơ để
điều tra bổ sung theo quy định của pháp luật. Ở đây, vai trò của luật sư rất quan trọng.
Nếu việc điều tra không đầy đủ mà không bổ sung ở phiên tòa thì luật sư phải đề nghị
và đưa ra những căn cứ về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Cùng với việc đó, luật sư có quyền đưa ra đề nghị thay đổi biện pháp ngăn chặn.
Bởi vì nếu quá trình điều tra không đầy đủ thì có thể làm sai lệch sự thật vụ án, quyền
và lợi ích hợp pháp của bị cáo có thể sẽ không được đảm bảo.
Vì thế, vai trò của luật sư ngoài việc bào chữa cho bị cáo mà còn góp phần tìm ra
sự thật khách quan của vụ án. Ngoài ra, để đảm bảo đạt được hiệu quả trong việc bào
chữa tại phiên tòa một điều quan trọng là những quy định về việc ghi biên bản phiên
tòa. Khoản 4, Điều 200, Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định luật sư có quyền xem
biên bản phiên tòa và có quyền yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên

tòa và ký xác nhận. Biên bản phiên tòa có ý nghĩa to lớn vì nó thể hiện một cách đầy
đủ, chính xác những diễn biến trong quá trình xét xử từ khi khai mạc đến khi tuyên án.
Trong biên bản phiên tòa thể hiện tất cả những điểm cơ bản của phiên tòa, ghi lời khai
của người tham gia tố tụng, ghi nhận những đề nghị và kiến nghị, thể hiện quyết định
của Tòa án với các đề nghị và kiến nghị đó, ghi nhận cuối cùng của các bên trong
tranh luận, ghi nội dung lời cuối cùng của bị cáo, ghi nhận sự giải thích về thủ tục và
thời hạn chống án…
Dựa vào những tình tiết, dữ liệu đó bị cáo hoặc luật sư viết kháng cáo. Mặt khác
nó còn là cơ sở dữ liệu mà luật sư có thể nghiên cứu nhằm phục vụ cho quá trình tranh
luận tại phiên tòa.
13


Đề tài: Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự
Như vậy, tất cả những vấn đề liên quan đến điều kiện chung của phiên tòa có ý
nghĩa quan trọng giúp cho việc xét xử được đầy đủ, khách quan, toàn diện để ra bản án
có căn cứ và hợp pháp. Vì vậy, luật sư cần tích cực nghiên cứu từng vấn đề cụ thể để
đảm bảo cho việc bào chữa đạt hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo
trong vụ án, làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
1.4.5. Vai trò của luật sư ở phần thủ tục bắt đầu phiên tòa
Thủ tục bắt đầu phiên tòa đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết đúng đắn
vụ án. Nhiệm vụ của phần thủ tục bắt đầu phiên tòa là tạo ra những điều kiện cần thiết
để tiến hành tốt việc xét hỏi tại phiên tòa và đảm bảo giải quyết vụ án theo đúng thực
chất. Phần thủ tục bắt đầu phiên tòa có ý nghĩa quan trọng trong tố tụng hình sự bởi vì
việc tổ chức và tiến hành xét xử phụ thuộc rất nhiều vào việc có tiến hành đúng thủ tục
bắt đầu phiên tòa hay không.
Từ đó cho thấy sự tham gia của luật sư trong giai đoạn này có ý nghĩa quan
trọng. Luật sư có vai trò quan trọng trong việc theo dõi phần bắt đầu phiên tòa có tuân
thủ đúng quy định của pháp luật về thủ tục tố tung hay không. Luật sư ần đảm bảo
rằng phiên tòa được bắt đầu với đầy đủ thành phần của Hội đồng xét xử và tất cả

những người được triệu tập mà thiếu họ thì không thể tiến hành xét xử được vì sự có
mặt của những người này có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình xét xử tại phiên tòa. Vì
vậy luật sư cần đảm bảo sự có mặt của họ để thực hiện tốt chức năng bào chữa của
mình.
Xác định nhân thân và tống đạt cũng là một yếu tố quan trong của phần bắt đầu
phiên tòa. Việc xác định nhân thân của bị cáo sẽ giúp bảo vệ quyền lợi của bị cáo, như
các vấn đề về độ tuổi, bị cáo có tiền án, tiền sự không, hoàn cảnh gia đình, môi trường
sống có ảnh hưởng đến việc phạm tội của bị cáo không, tống đạt bản cáo trạng có đúng
với quy định của pháp luật không, cũng cần xem xét bị cáo có nhận được bản cáo
trạng và những quyết định khác của Tòa án chưa. Từ đó có thể làm rõ nhiều tình tiết có
ý nghĩa trong việc bảo vệ quyền lợi của bị cáo. Những vấn đề này có ý nghĩa quan
trọng để Tòa án ra bản án chính xác và công bằng. Tất cả những vấn đề trên nếu thực
hiện tốt sẽ góp phần giải quyết đúng thực chất của vụ án, tránh những sai lầm đáng tiếc
có thể xảy ra trong giai đoạn xét hỏi, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo
14


Đề tài: Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự
1.4.6. Vai trò của luật sư trong phần xét hỏi
Xét hỏi là phần quan trọng tại phiên tòa, ở đó Tòa án cùng với Kiểm sát viên, bị
cáo, luật sư và những người tham gia tố tụng khác xem xét và kiểm tra chứng cứ thu
thập được ở giai đoạn điều tra cũng như nghiên cứu chứng cứ mới do người tham gia
tố tụng đưa ra. Luật tố tụng hình sự đòi hỏi bản án phải dựa trên những chứng cứ đã
xem xét tại phiên tòa.
Vai trò của luật sư là giúp bị cáo trả lời với đầy đủ những lý lẽ của mình. Sự tham
gia của luật sư ở phần xét hỏi bắt đầu ngay từ khi Tòa thảo luận về thủ tục nghiên cứu
chứng cứ. Những đề nghị của luật sư về trình tự nghiên cứu chứng cứ tại phiên tòa sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho việc bào chữa, bảo vệ.
Trong quá trình hỏi bị cáo, luật sư cần phải ngăn chặn bất cứ áp lực nào đối với
bị cáo, phản đối việc áp dụng những hành vi trái pháp luật để dọa dẫm bị cáo hoặc làm

sai lệch lời khai của bị cáo. Nếu bị cáo từ chối hoặc phủ nhận những lời đã khai thì
luật sư cần làm rõ động cơ từ chối hoặc phủ nhận, kiểm tra xem có phải nguyên nhân
là do việc ghi sai lời khai của bị cáo ở giai đoạn điều tra.
Bên cạnh đó, vai trò của luật sư trong giai đoạn này là cần kiểm tra đánh giá
chứng cứ, vật chứng và những vấn đề liên quan một cách toàn diện, tạo cơ sở cho việc
giải quyết vụ án một cách khách quan và đầy đủ. Việc xem xét và nghiên cứu vật
chứng có ý nghĩa quan trọng, từ đó có thể chứng minh bị cáo vô tội hay có thể phát
hiện những tình tiết giảm nhẹ tội cho bị cáo.
1.4.7. Vai trò của luật sư trong phần tranh luận
Tranh luận tại phiên tòa đảm bảo nguyên tắc dân chủ trong công tác xét xử, nâng
cao quyền của luật sư trong hoạt động tố tụng, thể hiện vai trò của họ trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, nâng cao chất lượng xét xử, giúp việc đánh giá
vụ án một cách khách quan, công bằng để từ đó đưa ra bản án hợp tình hợp lý, nâng
cao uy tín của Tòa án, đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Một yếu tố không kém phần quan trọng góp phần tích cực trong quá trình bào
chữa cho bị cáo là việc chuẩn bị lời bào chữa của luật sư. Chuẩn bị lời bào chữa là một
yếu tố quan trọng và phức tạp trong quá trình bào chữa của luật sư.
15


Đề tài: Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự
Khi tham gia vào quá trình bào chữa, luật sư có quyền sử dụng mọi biện pháp mà
pháp luật quy định để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Tuy nhiên,
luật sư không thể tuân theo những ý muốn và quan điểm chủ quan của bị can, bị cáo.
Vai trò của luật sư là tìm ra những tình tiết có lợi cho bị cáo, đảm bảo quyền bào chữa
của họ được thực hiện đúng pháp luật, tìm ra bản chất sự thật của vụ án, xác định đúng
người, đúng tội.
Chất lượng và hiệu quả của lời bào chữa phụ thuộc rất nhiều vào sự tham gia tích
cực của luật sư trong việc nghiên cứu, kiểm tra chứng cứ trong quá trình xét hỏi. Lời
bào chữa tốt còn là kết quả của sự lao động cần cù, trí tuệ, mối quan tâm đến vụ án và

lương tâm nghề nghiệp của luật sư.
1.4.8. Vai trò của luật sư trong giai đoạn thi hành án
Thi hành bản án và quyết định đã có hiệu lực của Tòa án là giai đoạn cuối cùng
trong quá trình tố tụng hình sự do các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng và các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và các cá nhân khác có liên quan thực
hiện theo quy định của pháp luật nhằm đưa bản án và quyết định đã có hiệu lực của
Tòa án ra thi hành, làm cho những bản án và quyết định này phát sinh hiệu lực trên
thực tế.
Để thực hiện chế độ xét xử hai cấp, khi không đồng ý với toàn bộ hay một phần
bản án hoặc quyết định sơ thẩm theo Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định:
“Luật sư có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng; kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người
chưa thành niên, hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định định
tại điểm b khoản 2 Điều 57 Bộ luật này”. Sự tham gia của luật sư nhằm bảo vệ tốt hơn
quyền lợi của bị cáo, đảm bảo bản án và quyết định của Tòa án được tuyên thật sự
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Ngoài ra, nếu trong quá trình thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án mà các Cơ quan có nhiệm vụ thi hành như Cơ quan Công an, Chính quyền
xã, phường, thị trấn, Cơ quan thi hành án dân sự, Cơ sở chuyên khoa y tế không thực
hiện đúng theo pháp luật thì luật sư cũng có quyền khiếu nại để bảo vệ quyền lợi của
16


Đề tài: Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự
người bi kết án. Sự tham gia của luật sư sẽ góp phần đảm bảo quá trình thi hành bản án
và quyết định có hiệu lực của Tòa án được thực hiện đúng pháp luật.
Tóm lại, sự có mặt của luật sư trong mỗi giai đoạn của quá trình tố tụng điều
mang một ý nghĩa riêng của nó, không nằm ngoài việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, những con người có thể họ đã thực hiện
hành vi phạm tội hoặc cũng có thể không, không phải chịu những chế tài quá nặng nề

so với hành vi của mình mà pháp luật dành cho họ. Một quá trình tố tụng thực hiện
nghiêm chỉnh, đúng pháp luật còn góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, thể hiện
nguyên tắc dân chủ trong Nhà nước pháp quyền, nâng cao chất lượng xét xử, uy tín
của ngành Tòa án, tránh được những tiêu cực, chủ quan, hạn chế và đi đến loại trừ
những oan sai. Pháp luật luôn không ngừng hoàn thiện để nâng cao quyền lợi của luật
sư, tạo điều kiện để luật sư thực hiện tốt chức năng của mình, thật sư là chổ dựa pháp
lý vững chắc cho người dân, đảm bảo pháp luật được thực hiện một cách công bằng,
nghiêm minh.

CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN THỰC THI VAI TRÒ CỦA LUẬT
SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ
HƯỚNG HOÀN THIỆN
2.1. Thực tiễn thực thi vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự
2.1.1. Những thành tựu đạt được của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự
Như chúng ta đã biết, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm và tạo điều kiện để phát
triển hoạt động luật sư bằng việc ban hành các văn bản quy phạm phạm pháp luật trên
cơ sở quy định của Hiến pháp. Năm 2006 Luật luật sư được ban hành (có hiệu lực từ
1/1/2007). Đây là cơ sở pháp lý cũng cố và phát triển đội ngũ luật sư chuyên nghiệp có
phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn đóng góp vào công cuộc xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế và đáp ứng yêu cầu về phát triển kinh
tế - xã hội của Việt Nam.
17


Đề tài: Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự
Trên cơ sở đó, đội ngũ luật sư của Việt Nam đã hình thành và ngày càng phát
triển đông về số lượng, tính chuyên nghiệp và kinh nghiệm hành nghề cũng ngày được
nâng cao. Theo Luật luật sư 2007, luật sư được tự do lựa chọn hình thức hành nghề
theo hình thức công ty hay văn phòng luật sư thậm chí hành nghề tự do. Tất cả các tổ
chức hành nghề luật sư đều được quyền hoạt động trên các lĩnh vực như: tranh tụng, tư

vấn và cung cấp các dịch vụ pháp lý. Luật sư được tự do hành nghề trong mọi lĩnh vực
pháp luật. Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, cùng với
sự tăng trưởng kinh tế không ngừng, đội ngũ luật sư Việt Nam đang từng bước khẳng
định vai trò của mình trong việc “góp phần bảo vệ công lý, phát triển kinh tế và xây
dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” (Điều 3 Luật luật sư).
Trong những năm qua, đội ngũ luật sư không ngừng nâng cao cả về số lượng, lẫn
chất lượng, đáp ứng yêu cầu của xã hội. Năm 1989, cả nước có 186 luật sư (trong đó
có 85 luật sư kiêm nhiệm), đến tháng 9/2001 trên cả nước có 2.100 luật sư (trong đó có
1.632 luật sư chính thức và 468 luật sư tập sự) 7 . Nhưng đến nay, theo thống kê của
Liên đoàn Luật sư cho thấy, hiện cả nước có gần 5.800 luật sư và hơn 2.000 luật sư tập
sự. Như vậy, từ năm 2001 đến nay, số lượng luật sư đã tăng 250%.
Cùng với sự phát triển về số lượng, chất lượng luật sư cũng từng bước được nâng
lên. Trước hết, về tiêu chuẩn luật sư, Luật Luật sư 2006 đã đặc biệt chú trọng nâng cao
tiêu chuẩn về chuẩn chuyên môn, về phẩm chất đạo đức đối với luật sư. Đồng thời,
theo hướng “chuyên nghiệp hoá” đội ngũ luật sư, Luật Luật sư quy định cán bộ, công
chức không được hành nghề luật sư.
Có thể nói, trong những năm gần đây, chất lượng của đội ngũ luật sư đã được
nâng lên đáng kể, về cơ bản đủ khả năng cung cấp dịch vụ pháp lý tin cậy cho khách
hàng. Trong tổng số luật sư hiện nay, số luật sư có trình độ cử nhân luật trở lên đã đạt
100%. Trong số những người đã qua đào tạo nghề luật sư, có nhiều người đã tập sự
hành nghề trong các tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam nên có hiểu
biết về pháp luật quốc tế và thông thạo ngoại ngữ. Một số luật sư Việt Nam đã theo
học các khoá đào tạo nghề luật sư ở nước ngoài và được công nhận là luật sư của nước
sở tại (Mỹ, Úc, Pháp).
7

Theo Dự thảo báo cáo Đại hội Đại biểu luật sư toàn quốc – Lịch sử nghề luật sư tại Việt Nam.

18



Đề tài: Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự
Sau khi Luật Luật sư được ban hành, hoạt động hành nghề luật sư có những bước
chuyển biến rõ rệt. Theo quy định của Pháp lệnh luật sư thì dịch vụ pháp lý của luật sư
bao gồm tham gia tố tụng, thực hiện tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác. Luật
Luật sư đã mở rộng hơn phạm vi hành nghề luật sư với việc quy định luật sư được đại
diện ngoài tố tụng cho khách hàng. Có thể nói trên cơ sở những quy định ngày càng
thông thoáng hơn của pháp luật cộng với sự nỗ lực của các luật sư, dịch vụ pháp lý của
luật sư tăng đáng kể về số lượng và nâng cao một bước về chất lượng.
Tham gia tố tụng là lĩnh vực hành nghề chủ yếu của các luật sư hiện nay. Trong
thời gian qua, các luật sư đã tham gia giải quyết hàng trăm nghìn vụ án. Dù là án mời
hay án chỉ định, luật sư đều đề cao ý thức trách nhiệm, quy tắc đạo đức nghề nghiệp,
đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu nội dung vụ án nên nhiều đề xuất, kiến nghị được các cơ
quan tiến hành tố tụng các cấp chấp nhận. Các luận cứ buộc tội cũng như gỡ tội mang
tính khách quan, khoa học góp phần giúp hội đồng xét xử tuyên án đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Trong hoạt
động luật sư cũng chú trọng lồng ghép tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật cho
nhân dân. Hoạt động tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý luôn bám sát chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, ưu tiên miễn phí cho người
nghèo và đối tượng chính sách. Nội dung tư vấn pháp luật đa dạng, từ hình sự, đất đai,
hôn nhân gia đình đến thừa kế…Từng bước khẳng định vai trò của luật sư trong xã hội
nói chung và trong lĩnh vực tố tụng hình sự nói riêng.
Vai trò của luật sư trong quá trình tham gia tố tụng đã có những bước phát triển
về chất. Xuất phát từ việc pháp luật tố tụng đang từng bước được hoàn thiện, các cơ
quan tiến hành tố tụng đã quan tâm hơn đến việc tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư
tham gia bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị can, bị cáo, đương sự.
Đặc biệt sau khi Nghị Quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị đã nêu
rõ: “ ...Việc phán quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại
phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên,
người bào chữa... Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham

gia bào quá trình tố tụng ...” thì vai trò của luật sư trong quá trình tham gia tố tụng đã
được nâng lên một bước. Nhiều Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát đã tạo điểu kiện cho
19


Đề tài: Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự
luật sư tham gia vào quá trình tố tụng được thuận lợi hơn. Ý kiến của luật sư tại phiên
toà đã được cơ quan tiến hành tố tụng quan tâm và coi trọng.
Thực tiễn thời gian qua cho thấy hoạt động tham gia tố tụng của luật sư đã góp
phần bảo đảm thực hiện tương đối tốt nguyên tắc tranh tụng tại phiên toà, một trong
những yêu cầu trọng tâm của cải cách tư pháp. Việc tham gia tố tụng của các luật sư
không những bảo đảm tốt hơn quyền bào chữa của bị can, bị cáo, các đương sự khác,
mà còn giúp các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, sửa chữa những thiếu sót, làm rõ
sự thật khách quan, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo vệ pháp chế xã
hội chủ nghĩa
Hình ảnh các luật sư không ngại khó khăn, vất vả, kể cả hy sinh bản thân mình,
kiên quyết đấu tranh bảo vệ công lý, nhiều số phận hàm oan được giải oan đã tạo niềm
tin to lớn vào thể chế chính trị nước nhà, vào sự công bằng và nghiêm minh của luật
pháp. Quá trình đấu tranh để bảo vệ công lý là một quá trình đấu tranh đầy gay go,
khóc liệt, đòi hỏi luật sư phải có một bản lĩnh vững vàng, tấm lòng dũng cảm.
Bên cạnh đó, các hoạt động trợ giúp pháp lý cũng không ngừng phát triển. Các
luật sư cũng đã tham gia tích cực vào hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đối
tượng thuộc diện chính sách. Việc tham gia vào hoạt động này không chỉ thực hiện
một cam kết mang tính chất nghĩa vụ của luật sư đối với xã hội mà còn góp phần tạo
lập sự công bằng cho các đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý. Trong thời gian qua,
các luật sư đã tham gia trợ giúp pháp lý cho hàng chục nghìn vụ việc, góp phần đáng
kể trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người nghèo, người thuộc diện chính
sách, nhiều vụ việc đã được minh oan, trả lại công bằng cho người dân. Ngoài ra còn
tạo được niềm tin của người dân vào sự công minh của pháp luật. Nhiều Văn phòng
luật sư đã trở thành điểm tựa pháp lý cho người nghèo.

Trong thời gian qua, công tác của các Đoàn luật sư đối với luật sư và hành nghề
luật sư đã có nhiều chuyển biến tích cực. Căn cứ vào nhiệm vụ, quyền hạn được giao,
các Đoàn luật sư đã thực hiện tương đối tốt công tác giám sát, kiểm tra việc tuân thủ
pháp luật, tuân theo Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư, Điều lệ Đoàn luật
sư của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư; kịp thời nhắc nhở, uốn nắn và có biện pháp
xử lý nghiêm minh các trường hợp luật sư vi phạm.
20


Đề tài: Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự
Một số Đoàn luật sư đã tổ chức các hội thảo chuyên đề cho luật sư, đặc biệt là tổ
chức rút kinh nghiệm đối với luật sư trong các vụ án lớn có tính chất trọng điểm mà
luật sư tham gia theo tinh thần Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị để đánh giá
những mặt được và chưa được, tích cực và hạn chế về quan điểm bào chữa, kiến thức
pháp luật, kỹ năng tham gia tranh tụng, phong cách, văn hoá ứng xử của luật sư.
Các Đoàn luật sư tích cực tham gia đóng góp ý kiến xây dựng pháp luật, tham gia
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân, trợ giúp pháp lý, tư vấn miễn
phí, bào chữa miễn phí. Một số Đoàn luật sư đã kịp thời phản ánh những tâm tư,
nguyện vọng của luật sư, đề xuất, kiến nghị với cơ quan Đảng và Nhà nước về cơ chế,
chính sách phát triển nghề luật sư, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc liên
quan đến tổ chức, hoạt động luật sư.
2.1.2. Những hạn chế của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự
- Hiện nay số lượng luật sư còn thấp so với nhu cầu của xã hội. Số lượng luật sư
không cung cấp đủ dịch vụ pháp lý cho khách hàng, có đến khoảng 80% vụ án không
có luật sư tham gia. Số lượng luật sư phân bố không đều trên cả nước, luật sư hành
nghề chỉ tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Một số tỉnh ở vùng sâu, vùng xa, miền núi rất ít hoặc không có luật sư.
- Trên thực tế, số lượng luật sư tham gia tố tụng hình sự còn hạn chế. Việc
không có đủ luật sư tham các vụ án hình sự đã làm ảnh hưởng đến nguyên tắc tranh
tụng, quyền bào chữa của người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo, ảnh hưởng đến

chất lượng giải quyết vụ án.
- Về chất lượng của đội ngũ luật sư vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Gần một nửa
số lượng luật sư hiện nay chưa được đào tạo một cách bài bản về kỹ năng hành nghề.
Hiệu quả tham gia tố tụng của luật sư vẫn còn chưa đáp ứng được yêu cầu tranh tụng
tại phiên toà theo tinh thần cải cách tư pháp. Các luật sư vẫn còn thiếu kinh nghiệm
trong việc thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến quá trình bào chữa, tranh
luận, đưa ra yêu cầu, kiến nghị tại phiên toà. Trong thực tiễn hành nghề cho thấy, các
kỹ năng của luật sư chưa đáp ứng được yêu cầu để có các luật sư chuyên nghiệp. Hoạt
động của luật sư vẫn chưa thể hiện được vai trò của mình trong tố tụng. Việt Nam vẫn
21


Đề tài: Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự
chưa có đội ngũ luật sư chuyên sâu về một lĩnh vực cụ thể. Vì thế, chất lượng bào chữa
trong một số vụ án vẫn chưa được đảm bảo.
- Hoạt động hành nghề của luật sư vẫn còn gặp khó khăn từ nhiều phía: Thứ
nhất là do thái độ của xã hội đối với luật sư. Nhiều người có quan niệm sai lầm về vai
trò của luật sư trong xã hội, không thấy được những mặt tích cực mà họ đã làm nên có
thái độ xem thường, thậm chí còn có những hành động nhục mạ. Không ít luật sư vẫn
bị vu khống, đe dọa tính mạng không chỉ bản thân luật sư mà thậm chí đến gia đình
họ. Rất nhiều vụ việc luật sư bị hành hung tại phiên tòa. Trong khi đó các cơ quan bảo
vệ pháp luật thì không quan tâm đến những trường hợp như thế của luật sư. Mặt khác,
các cơ quan tiến hành tố tụng không tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia vào
quá trình hỏi cung bị can. Trong quá trình điều tra vụ án, luật quy định luật sư có
quyền có mặt khi hỏi cung bị can, khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, được thông
báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung hoặc là được đọc, ghi chép những tài liệu
trong hồ sơ vụ án…Thế nhưng trên thực tế luật sư vẫn bị các cơ quan công quyền gây
khó đễ đủ điều. Nhiều luật sư có thâm niên trong nghề thừa nhận chưa một lần được
tham gia hỏi cung với cơ quan điều tra theo đúng tinh thần quy định của luật. Nhiều
luật sư bị Cơ quan điều tra và Điều tra viên gây khó dễ, tìm cách không cho họ gặp

thân chủ. Thậm chí có Điều tra viên còn ép bị can viết giấy từ chối luật sư.
Có thể nói, trong bốn giai đoạn tiến hành tố tụng: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
của một vụ án hình sự, đứng về một phương diện nào đó, luật sư tham gia điều phải
phụ thuộc các cơ quan tiến hành tố tụng. Theo Bộ luật Tố tụng hình sự Điều 58 quy
định người bào chữa tham gia từ khi khởi tố bị can. Tuy nhiên trên thực tế quy định đó
hiếm được thực hiện, kể cả đối với những vụ án buộc phải có người bào chữa. Tuy luật
sư được cấp giấy chứng nhận bào chữa nhưng chỉ đến khi việc điều tra kết thúc khi đó
người bào chữa mới được thông báo đến để có mặt cho hợp pháp về hình thức hoặc để
ký biên bản giao nhận bản kết luận điều tra. Đến giai đoạn truy tố, xét xử, luật sư cũng
phải đối mặt với những khó khăn như thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa, luật quy
định luật sư được cấp giấy chứng nhận bào chữa trong thời hạn 3 ngày nếu có đủ các
điều kiện, căn cứ pháp luật. Nhưng thực tế lại hiếm khi Cơ quan điều tra thực hiện
đúng quy định này
22


Đề tài: Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự
- Bên cạnh những trở ngại nêu trên, một trong những vấn đề bất cập hiện nay là
do phẩm chất đạo đức của luật sư còn kém, trong quá trình hoạt động, một số luật sư
không thực hiện đúng chức năng của mình để bảo vệ quyền lợi của thân chủ, tìm ra sự
thật khách quan của vụ án mà lợi dụng tâm lý lo lắng của bị can, bị cáo và gia đình họ
để vòi tiền làm mất lòng tin trong nhân dân. Tình trạng luật sư “chạy án” vẫn đang
diễn ra, một số luật sư vi phạm đạo đức nghiêm trọng gây ảnh hưởng đến uy tín của
đội ngũ luật sư.
- Việc tuân thủ quy tắc đạo đức nghề nghiệp và kỷ luật hành nghề luật sư vẫn
chưa được nhận thức một cách đầy đủ, chưa trở thành ý thức tự giác đối với mỗi cá
nhân luật sư trong hành nghề và trong cuộc sống.

2.2. Một số giải pháp nâng cao vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự
2.2.1. Phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, mạnh về chất lượng

Nghị quyết số 49/NQ-TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra
nhiệm vụ “đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị,
đạo đức, có trình độ chuyên môn”. Việc phát triển số lượng luật sư đủ đáp ứng nhu
cầu của xã hội là yêu cầu thường xuyên và lâu dài. Để đạt được mục tiêu này, cần thực
hiện một số biện pháp sau đây:
- Một là, cần đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cơ quan, tổ chức
và của mỗi người dân về vị trí, vai trò của luật sư trong xã hội, góp phần tăng tính hấp
dẫn của nghề luật sư, thu hút ngày càng đông đội ngũ cử nhân luật mới ra trường tham
gia hành nghề luật sư.
- Hai là, có quy hoạch, kế hoạch cụ thể phát triển số lượng luật sư phù hợp với
nhu cầu của xã hội. Nhà nước cần có các chính sách thu hút những người có điều kiện
trở thành luật sư để từng bước duy trì và phát triển đội ngũ luật sư. Đối với các thành
phố lớn, một mặt đáp ứng được nhu cầu của những người có đủ điều kiện và có
nguyện vọng gia nhập Đoàn luật sư, mặt khác bảo đảm điều kiện và chất lượng tập sự,
bảo đảm sự quản lý chặt chẽ của Đoàn luật sư đối với đội ngũ luật sư tập sự của Đoàn.
Đối với những địa phương có khó khăn về nguồn bổ sung luật sư, cần có các biện pháp

23


Đề tài: Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự
chủ động phát hiện, động viên những người có đủ điều kiện, đang sinh sống tại địa
phương gia nhập Đoàn luật sư.
- Ba là, cải tiến nội dung, phương pháp giảng dạy để nâng cao chất lương đào
tạo nghề luật sư, nâng cao chất lượng tập sự hành nghề luật sư thông qua việc các
Đoàn luật sư thực hiện nghiêm túc cơ chế giám sát người tập sự hành nghề luật sư, luật
sư hướng dẫn, tổ chức hành nghề luật sư trong việc tuân theo Quy chế tập sự hành
nghề luật sư; tạo điều kiện thuận lợi để người tập sự được nghiên cứu, tiếp cận những
kiến thức pháp luật mới, đồng thời tạo cơ hội cho người tập sự được trực tiếp tham gia
hoạt động nghề nghiệp, nâng cao kỹ năng hành nghề, cần quan tâm đến việc hướng

dẫn và giám sát việc thực hiện Quy chế tập sự hành nghề luật sư.
- Bốn là, định kỳ tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng hành
nghề cho các luật sư cũng như tổ chức tổng kết, trao đổi kinh nghiệm hành nghề luật
sư và thực hiện các biện pháp khác nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho
đội ngũ luật sư.
- Năm là, có phương hướng và biện pháp xây dựng đội ngũ luật sư hành nghề
chuyên sâu. Để đào tạo đội ngũ luật sư đạt chất lượng tốt, đủ để đáp ứng yêu cầu của
xã hội, đòi hỏi phải xây dựng các cơ sở đào tạo cử nhân luật và đào tạo nghề luật sư
rộng khắp trong cả nước. Cần cải tiến, nâng cấp cơ sở hạ tầng các cơ sở hiện có, ngoài
ra cần phải xây dựng thêm các cơ sở giảng dạy ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Đào tạo đội ngũ cán bộ giảng dạy thật sự có chuyên môn, có trình độ và có trách
nhiệm và đạo đức nghề nghiệp cao, bên cạnh đó cần đỏi mới phương pháp giảng dạy,
có chính sách hổ trợ học viên có hoàn cảnh khó khăn, khen thưởng những học viên có
thành tích xuất sắc tạo điều kiện thu hút số lượng học viên tham gia học ngày càng
đông.
- Sáu là, Nhà nước cần quan tâm đầu tư thỏa đáng cho việc đào tạo và bồi
dưỡng đội ngũ luật sư, Nhà nước cũng cần có những chính sách đầu tư tạo điều kiện
cho luật sư tự nghiên cứu, học tập để bổ túc những kiến thức bổ trợ cho nghề nghiệp.
Bên cạnh đó, nên quan tâm hỗ trợ về vật chất cho Đoàn luật sư (trụ sở làm việc và một
phần kinh phí hoạt động) để Đoàn thực hiện tốt chức năng xã hội nghề nghiệp của
mình, Đoàn từng bước tập hợp, xây dựng được một đội ngũ luật sư có tâm huyết với
24


Đề tài: Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự
nghề, đáp ứng nhu cầu cho xã hội và phục vụ cho chiến lược cải cách tư pháp của
nước ta ngày càng tốt hơn.
Ngoài ra, Nhà nước cần có những chính sách ưu đãi về thuế để hoạt động luật sư
có thể duy trì và phát triển mạnh hơn, thật sự là chổ dựa vững chắc cho người dân về
mặt pháp lý, góp phần hoàn thiện thể chế tư pháp theo tinh thần chỉ đạo của Đảng và

Nhà nước.
2.2.2. Đào tạo đội ngũ luật sư có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất
đạo đức tốt để phát huy vai trò của mình trong quá trình tố tụng
Để thực hiện tốt vai trò của mình trong quá trình tố tụng, góp phần tích cực trong
việc bảo vệ quyền lợi của công dân. Luật sư phải là những con người có bản lĩnh vững
vàng, có phẩm chất đạo đức tốt và lương tâm nghề nghiệp. Chỉ có những người có
phẩm chất chính trị vững vàng, có tư chất đạo đức tốt thì mới có thể trở thành luật sư
chân chính được.
Muốn như thế, đội ngũ luật sư cần không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn,
rèn luyện kỹ năng, tích lũy kinh nghiệm trong quá trình hoạt động thực tế, từng bước
khẳng định nâng lực và bản lĩnh của mình trong quá trình hội nhập.
Cần không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức, tránh xa những biểu hiện tiêu
cực. Quán triệt đường lối, tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, học tập và làm
theo tấm gương đạo đức tốt đẹp của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ban chủ nhiệm các Đoàn luật sư cần thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo
chuyên đề và quan tâm đến việc bồi dưỡng giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho Luật sư. Trước hết từng Đảng viên
trong Chi bộ của Đoàn Luật sư phải là người đầu tàu, gương mẫu thực hiện. Sớm khắc
phục những quan điểm lệnh lạc về văn hóa trong ứng xử và đạo đức trong hành nghề
Luật sư.
Hội đồng Khen thưởng – Kỷ luật phải tăng cường công tác giám sát và đề xuất
xử lý đối với những Luật sư có vi phạm Điều lệ, vi phạm quy tắc đạo đức nghề nghiệp
Luật sư một cách kịp thời và nghiêm minh, coi đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu;

25


×