Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

Vận dụng kí họa vào dạy học phân môn vẽ tranh trong chương trình mỹ thuật lớp 8 tại trường trung học cơ sở minh cường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.85 MB, 141 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG

NGUYỄN HUYỀN TRANG

VẬN DỤNG KÍ HỌA
VÀO DẠY HỌC PHÂN MÔN VẼ TRANH TRONG
CHƯƠNG TRÌNH MỸ THUẬT LỚP 8 TẠI TRƯỜNG
TRUNG HỌC CƠ SỞ MINH CƯỜNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BỘ MÔN MỸ THUẬT
Khóa 2 (2016 - 2018)

Hà Nội, 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG

NGUYỄN HUYỀN TRANG

VẬN DỤNG KÍ HỌA
VÀO DẠY HỌC PHÂN MÔN VẼ TRANH TRONG
CHƯƠNG TRÌNH MỸ THUẬT LỚP 8 TẠI TRƯỜNG
TRUNG HỌC CƠ SỞ MINH CƯỜNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BỘ MÔN MỸ THUẬT
Mã số: 8140111


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Nghĩa Phương

Hà Nội, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng
dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Nghĩa Phương. Các số liệu, kết quả
nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng công bố trong bất cứ
công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 29 tháng 06 năm 2018
Tác giả

Nguyễn Huyền Trang


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Bộ GD & ĐT:

Bộ Giáo dục và Đào tạo

MT

:

Mỹ thuật

NXB

:


Nxb

PPCT

:

Phân phối chương trình

SGK

:

Sách giáo khoa

THCS

:

Trung học Cơ sở


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ................ 11
1.1. Cơ sở lý luận về dạy học phân môn vẽ tranh trong chương trình Mỹ
thuật lớp 8 .................................................................................................... 11
1.1.1. Các khái niệm cơ bản của đề tài........................................................ 11
1.1.2. Khái quát về chương trình Mỹ thuật lớp 8 ........................................ 13
1.1.3. Khái quát phân môn vẽ tranh trong chương trình Mỹ thuật ở trường

Trung học cơ sở ........................................................................................... 18
1.1.4. Mục đích, yêu cầu của phân môn vẽ tranh........................................ 21
1.1.5. Phương pháp dạy học Mỹ thuật và phân môn vẽ tranh .................... 21
1.2. Khái quát về Kí họa.............................................................................. 24
1.2.1. Đặc điểm cơ bản của kí họa .............................................................. 24
Khái quát ngắn gọn hơn về các đặc điểm cơ bản của kí họa: ..................... 26
1.2.2. Phương tiện vẽ kí họa........................................................................ 27
1.2.3. Ngôn ngữ của kí họa trong tranh ...................................................... 30
1.2.4. Vai trò của kí họa .............................................................................. 34
1.3. Thực trạng dạy phân môn vẽ tranh trong chương trình mỹ thuật lớp 8
tại trường Trung học Cơ sở Minh Cường ................................................... 35
1.3.1. Vài nét về trường Trung học Cơ sở Minh Cường ............................. 35
1.3.2. Đặc điểm học sinh .............................................................................. 36
1.3.3. Cơ sở vật chất ..................................................................................... 37
1.3.4. Thực trạng về dạy và học phân môn vẽ tranh ................................... 38
Tiểu kết ........................................................................................................ 41
Chương 2: VẬN DỤNG KÝ HỌA VÀO DẠY HỌC PHÂN MÔN VẼ
TRANH TRONG CHƯƠNG TRÌNH MỸ THUẬT LỚP 8 .............................. 42
2.1. Sự cần thiết của kí họa với phân môn vẽ tranh .................................... 42


2.2. Vận dụng kí họa vào giảng dạy phân môn vẽ tranh............................. 47
2.2.1. Đề xuất giải pháp .............................................................................. 50
2.2.2. Các bài học ứng dụng ........................................................................ 56
2.3.1. Thực nghiệm sư phạm ....................................................................... 63
2.3.2. Đánh giá ............................................................................................ 78
Tiểu kết ........................................................................................................ 80
KẾT LUẬN ................................................................................................. 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 83
PHỤ LỤC .................................................................................................... 86



1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việc dạy và học môn mỹ thuật đã hiện diện khá lâu trong chương
trình phổ thông cơ sở của nước ta. Tuy nhiên tôi thấy ở môn Mỹ thuật lớp 8
khi bước vào loạt bài vẽ tranh theo các đề tài như tranh cổ động, minh họa
truyện cổ tích, bố cục tranh gia đình hay đề tài về Ngày nhà giáo Việt Nam
thì các học sinh rất lúng túng, rất nhiều học sinh không biết làm thế nào để
vẽ được hình theo ý mình. Thời gian làm bài trên lớp không đủ cho học
sinh vừa tư duy hình ảnh, vừa sáng tạo ý tưởng gắn liền nội dung bài học,
vừa ghi lại, hầu hết đành lấy các hình mẫu trên mạng hoặc từ sách báo để
chép và nộp cho có bài. Cách làm như vậy chưa đúng với mục đích giáo
dục trong bộ môn Mỹ thuật ở trường Trung học Cơ sở, thậm chí có thể làm
hỏng khả năng sáng tạo của học sinh.
Phân môn vẽ tranh trong chương trình giáo dục mỹ thuật Trung học
Cơ sở là phân môn có tính tổng hợp: vẽ theo mẫu, sử dụng màu sắc, sắp
xếp bố cục, khả năng quan sát, ghi nhớ... Nhằm vẽ lại, sáng tạo hình ảnh
của một phong cảnh, một bố cục sinh hoạt hay nêu lên một vấn đề trong
cuộc sống. Mục đích để phát triển khả năng sáng tạo của học sinh, đây
cũng là phân môn tạo được nhiều hứng thú học tập cho học sinh.
Bước đầu tôi tìm hiểu kỹ tất cả các bài vẽ tranh của môn Mỹ thuật
lớp 8 THCS để xem xét về các mặt: hiệu quả, tạo dáng nhân vật, lựa chọn
bối cảnh, cách thức bố cục, nguồn gốc các hình tượng nhân vật, hiệu quả
đường nét - hình mảng - đậm nhạt - màu sắc. Cần xem xét thực tế giảng
dạy môn mỹ thuật ở trường THCS - cụ thể ở đây là trường THCS Minh
Cường để tham khảo ý kiến các thầy cô về vần đề này. Được sự đồng ý của
thầy hiệu trưởng và các thầy cô giáo dạy bộ môn mỹ thuật trường THCS

Minh Cường, tôi đã dự một số giờ tập vẽ của các học sinh lớp 8.


2

Đúng là các học sinh đã rất lúng túng khi phải tìm bối cảnh và hình
tượng nhân vật cho các bài vẽ tranh theo đề tài. Không học sinh nào có sẵn
hình tượng do chính bản thân tìm ra từ thực tế hay từ ý tưởng mà học sinh
đó muốn, nếu có ý tưởng thì cũng không biết cách nào vẽ ra cho được. Vì
vậy các em đành lấy hình từ trên mạng hoặc sách báo, thậm chí lấy nguyên
cả bối cảnh - hình tượng, thậm chí cả bố cục và màu sắc… chép lại cho có
bài. Đây là cách học đối phó rất đáng trách. Tôi để ý đã từng có lần sách
giáo khoa mỹ thuật phổ thông in tranh của học sinh mà hóa ra em này chép
lại bức tĩnh vật của danh họa Matisse của Pháp (về sau sách tái bản đã bỏ
tranh này, có lẽ vì ban biên tập đã nhận ra và sửa sai). Đấy mới chỉ là một
ví dụ điển hình vì học sinh đó vẽ đẹp và khá giống tranh mẫu. Đôi khi vì
các bài giao về nhà làm (thời gian ở lớp không đủ) lại xảy ra việc các phụ
huynh vì thương con nên đã vẽ hộ. Như vậy, nếu để tình trạng này tiếp diễn
thì sẽ làm sai lệch mục đích giáo dục mỹ thuật cho học sinh cấp Trung học
Cơ sở.
Vì những lý do kể trên, tôi thử tìm tòi, nghiên cứu các cách thức dạy
kí họa cơ bản, từ trường quy cũng như qua thực tế của các bậc thầy kí họa
Việt Nam hay thế giới để lựa chọn và rút gọn sao cho thích hợp với học
sinh Trung học Cơ sở. Tôi muốn vận dụng kí họa vào việc xây dựng bài
giảng cho học sinh, để các em có thể tự tin ghi chép từ thực tế nhằm lấy tư
liệu cho bản thân để làm tranh theo ý mình cho đúng phương pháp mỹ
thuật, thoát khỏi cách chép hình rất có hại. Vì vậy, tôi chọn nghiên cứu đề
tài "Vận dụng kí họa vào dạy học phân môn vẽ tranh trong chương trình
Mỹ thuật lớp 8 tại trường Trung học Cơ sở Minh Cường". Tôi mong đây
sẽ là đề tài gợi mở về một trong số các phương pháp xây dựng bài giảng

cho đồng nghiệp, lên ý tưởng bài vẽ tranh phong phú và đa dạng.


3

2. Lịch sử nghiên cứu
2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Kí họa được đề cập rất nhiều trong các ấn phẩm nghiên cứu mỹ
thuật, những tài liệu mang tính khái quát, cung cấp nhiều ví dụ cụ thể, đưa
ra khái niệm mang tính lý thuyết.
Mary Suffudy (1988), Les secrets du croquis, Nxb Broquet,
Incorporated. Sách có 144 trang, nghiên cứu về kí họa nói chung, dụng cụ
và các kỹ thuật cơ bản; nêu một số các đề tài; kí họa hình dáng theo mẫu,
bố cục và các sắc độ; áp dụng từ kí họa đến vẽ tranh; sửa chữa hoàn chỉnh
tác phẩm. Nội dung đưa ra khá nhiều nhưng chưa sâu. Theo James Gurney
và Thomas Kiukade hai họa sĩ góp kiến thức xây dựng lên quyển sách này,
có bốn cách khác nhau khi vẽ kí họa: 1- vẽ nguệch ngoạc, 2- vẽ chơi, 3- vẽ
theo mẫu và 4- kí họa sắc độ. Sẽ học cách vẽ đường viền như thế nào,
hướng dẫn sử dụng bút than và mực nâu, đen để tạo ra những đường nét
tinh tế của cơ thể con người, sử dụng màu nước và sắc độ thích hợp với kí
họa thực hiện tại chỗ; bên ngoài phòng vẽ. Không chỉ giúp làm quen với
các dụng cụ chủ yếu cần để vẽ kí họa cũng với kỹ thuật thể hiện cơ bản, mà
còn hướng cho người đọc phong cách thẩm mỹ, cá tính của người vẽ thông
qua tác phẩm.
Ocvirk, Stinson, Wigg, Bone, Cayton (1997, tái bản lần thứ 8), Art
Rundamentals, Nxb McGraw-Hill. (Bản tiếng Việt là Lê Thành dịch
(2006), Những nền tảng của mỹ thuật, Nxb mỹ thuật - Công ty văn hóa
Minh Trí, nhà sách Văn Lang). Sách gồm 10 chương, trong đó có rất nhiều
lý thuyết và minh họa cụ thể, trở thành tài liệu tham khảo của đề tài nghiên
cứu: Bố cục, đường nét, tính chất biểu cảm của đường nét, sắc độ. Cụ thể

hơn ở chương 1 - Dẫn nhập, nói về nhu cầu và sự tìm kiếm nghệ thuật. Một


4

số định nghĩa đưa ra nhấn mạnh đến sự "vui thích" như là một thành tố của
nghệ thuật, những cố gắng nhằm định nghĩa nghệ thuật và cho thấy rằng
không phải ai cũng có cảm nghĩ giống nhau về nghệ thuật. Ngày nay, một
số nghệ sĩ cho rằng "cái đẹp" là cái đã lạc hậu, tôi nghĩ không hẳn vậy mà
cũng có thể là vậy. Bởi vì, "cái đẹp" luôn được số đông ưa chuộng, một số
khác đôi khi như tôi thích những cái mới lạ, độc đáo có thể chưa hoàn hảo
so với chuẩn mực chung nhưng lại đẹp theo cách riêng của nó và đẹp dưới
cách nhìn của tôi. Trong cuốn sách này còn cung cấp rất nhiều những kiến
thức cần thiết, không chỉ nêu ra những thành tố cơ bản của nghệ thuật: Đề
tài, bố cục, nội dung mà còn nêu ra các nguyên tắc cơ bản thứ tự thuộc thị
giác. Và việc dậy môn Mỹ thuật tại bậc Trung học Cơ sở bước đầu để học
sinh biết đánh giá nghệ thuật, biết thưởng thức cái đẹp bởi cái đẹp luôn
hiện hữu xung quanh chúng ta, Học sinh nắm được lý thuyết để thực hành,
từ đó hình thành năng lực thẩm mỹ của bản thân.
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Đã có nhiều nghiên cứu về mảng kí họa nói chung, sách dạy học mỹ
thuật và một số khóa luận đã đề cập liên quan đến đề tài.
Gia Bảo (2009), Mỹ thuật căn bản và nâng cao: VẼ KÝ HỌA NÉT:
Nxb Mỹ Thuật, Hà Nội. Sách gồm bốn chương, chương 1 nghiên cứu về
phương pháp học tập tốc họa, sao lại nhiều lần các bài vẽ, luyện vẽ nhiều
để nâng cao trình độ, cần đối chiếu với các tác phẩm ưu tú để so sánh, nâng
cao nhận thức và khả năng tư duy; luyện tốc họa từ chậm đến nhanh.
Chương 2: Hình thức và luyện tập chính của tốc họa. Xuất phát từ kết cấu
của hình thể tốc họa lấy đường nét là chính và kết hợp với các đường bề
mặt. Chương 3: Vận dụng đường; đường giao nhau, tương phản của đường,

tỉ lệ của đường, về kết cấu. Chương 4: Các bước và phương pháp cơ bản để


5

vẽ chậm chân dung người, quan sát chỉnh thể, nắm vững đối tượng; bố cục
cấu trúc của hình; định hình đặt bút vẽ; khẳng định về bố cục; hoàn thành
điều chỉnh. Sách chủ yếu dạy cách vẽ tốc họa, vẽ tốc họa bằng đường nét,
một số hình thức và luyện tập chính của tốc họa. Đa số các bài tốc họa điển
hình ở đây rất đẹp và chi tiết nhưng chỉ nghiên cứu vẽ người mà thiếu tốc
họa phong cảnh, động vật, tốc họa ở đây chỉ là một trong những hình thức
của kí họa, để nghiên cứu sâu về kí họa thì chưa đủ.
Gia Bảo (2013), Vẽ kí họa. Nxb Mỹ Thuật, Hà Nội. Gồm bẩy
chương, bao quát về dụng cụ chuẩn bị, phương pháp luyện tập, các bước
tiến hành, đôi điều cần biết về phương pháp vẽ nhanh, kỹ xảo vẽ thực, cải
tiến và cuối cùng là thưởng thức tác phẩm ví dụ. Có hình mẫu và hình kí
họa đặt cạnh, đi sâu vào kết cấu người, dựa theo phương pháp mô phỏng vẽ
phác họa ngũ quan chi tiết khuôn mặt; kết cấu của tay, chân; nếp nhăn
quần áo; kí họa dáng người và cảnh xung quanh, nhóm người, có nhiều
hình minh họa cụ thể. Nhưng chưa thực sự đầy đủ, thiếu về nghiên cứu kí
họa phong cảnh và mới giới thiệu dụng cụ chuẩn bị cơ bản có phần sơ sài
như: bút chì, giấy, kẹp vẽ..
Nguyễn Lăng Bình (2004), Kí họa. Nxb Đại học sư phạm. Giáo trình
đào tạo giáo viên Trung học Cơ sở hệ cao đẳng sư phạm, gồm ba chương
chính. Chương 1 nêu rõ khái niệm về kí họa; mục đích, yêu cầu của kí họa;
vai trò của kí họa trong học tập và sáng tác hội họa; các thể loại vẽ kí họa;
kí họa nhanh; kí họa thâm diễn; giới thiệu một số tranh vẽ kí họa của họa sĩ
Việt Nam và thế giới. Chương 2: Mục đích và yêu cầu kí họa cảnh; phương
pháp, cách vẽ kí họa cảnh bằng chì. Chương 3: Kí họa động vật, người.
Nêu mục đích, yêu cầu, phương pháp và cách thực hành vẽ kí họa dáng

tĩnh, động một người và của nhóm người.


6

Triệu Khắc Lễ (chủ biên) - Trần Tuấn - Khắc Tiến (2008), Giáo
trình kí họa 2. Nxb Đại học sư phạm. Giáo trình củng cố bổ sung về vẽ kí
họa cảnh, người và động vật chi tiết hơn, đặt ra những yêu cầu chung về vẽ
kí họa cảnh, người, động vật bằng mực nho, màu nước. Sự giống và khác
nhau trong sử dụng chất liệu, phương tiện kí họa người và động vật. Bổ
sung kiến thức vẽ nếp nhăn quần áo, vẽ kí họa dáng người chuyển động.
Triệu Khắc Lễ (2008), Giáo trình kí họa 3. Nxb Đại học sư phạm.
Giáo trình chia làm hai chương lớn. Bổ sung kiến thức cho hai cuốn giáo
trình xuất bản trước đó, vai trò của nét đậm và nét nhạt trong vẽ kí họa, vẽ
kí họa bằng bột màu và một số chất liệu khác, kí họa và bố cục tranh. Vẽ kí
họa sâu dáng người (đen, trắng), vẽ kí họa cảnh và người bằng màu bột,
màu goát. Đưa ra các câu hỏi để ôn lại kiến thức, hướng dẫn thực hiện và
đưa ra các bài tham khảo của họa sĩ và sinh viên.
Hồ Thị Hải, Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng phương pháp kí họa
vào bài vẽ tranh phong cảnh, Trường THCS Nguyễn Tất Thành [32]. Đối
tượng nghiên cứu của đề tài là các bài vẽ tranh phong cảnh, tranh đề tài
khối lớp 7 và khối lớp 9 trường THCS Nguyễn Tất Thành.
Lê Thị Hoạch (2011), Khóa luận tốt nghiệp: Kí họa phong cảnh
trong học tập và sáng tác mỹ thuật. Trường Đại học sư phạm nghệ thuật
trung ương. Khóa luận nêu ra một số nét chung về kí họa, kí họa phong
cảnh với sinh viên và họa sĩ trong quá trình sáng tác mỹ thuật.
Bộ giáo dục và đào tạo (2018), Chương trình giáo dục phổ thông
môn Mỹ thuật. Tóm tắt giáo dục mỹ thuật cho học sinh được chia thành hai
giai đoạn: giáo dục cơ bản và giáo dục định hướng nghề nghiệp, cụ thể ở
bậc trung học cơ sở nằm trong giai đoạn giáo dục thẩm mỹ cơ bản, Mỹ

thuật là một môn học bắt buộc. Chương trình đảm bảo cho học sinh về
năng lực thẩm mỹ: Kết hợp được các giác quan để khám phá đối tượng


7

thẩm mỹ, phát hiện và nhận biết được giá trị thẩm mỹ cơ bản trong các tác
phẩm. Cảm nhận, liên tưởng thẩm mỹ, nhận biết yếu tố thẩm mỹ, sáng tạo
và ứng dụng thẩm mỹ, thực hành sáng tạo, biết liên hệ những phong cách
nghệ thuật vào trong tác phẩm, nhận định và đánh giá thẩm mỹ.
Nhìn chung các cuốn giáo trình kí họa kể trên đã nghiên cứu rất kỹ
về kí họa cơ bản, nêu ra một số các chất liệu cơ bản hay dùng để kí họa. Để
ý kỹ thì lại thấy nhiều đề mục trùng nhau, vấn đề nghiên cứu lặp đi lặp lại.
Bộ sách dành cho mục đích đào tạo giáo viên dạy mỹ thuật THCS luyện tập
kí họa nâng cao trình độ nhưng lại không có ví dụ hoặc áp dụng vào bài
học cụ thể cho chương trình mỹ thuật mà chỉ nhấn mạnh vai trò của kí họa
trong học tập và sáng tác mỹ thuật của giáo viên.
Qua tìm hiểu tôi nhận thấy có nhiều sách, giáo trình nghiên cứu về kí
họa nói chung, sơ lược có, bài bản có dành cho các học sinh, sinh viên
bước đầu chập chững biết đến kí họa cần chuẩn bị những gì, tiến hành từng
bước ra sao, nói về sự quan trọng của kí họa trong học tập và sáng tác.
Nhưng chưa có ai nghiên cứu vận dụng kí họa vào giảng dạy phân môn vẽ
tranh trong chương trình mỹ thuật lớp 8 cụ thể.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Qua đề tài tôi muốn nêu lên những ưu điểm, giá trị nghệ thuật của ký
họa, sự cần thiết của tư liệu kí họa đối với phân môn vẽ tranh trong chương
trình mỹ thuật Trung học Cơ sở. Nghiên cứu về thực trạng dạy học môn mỹ
thuật nói chung và phân môn vẽ tranh nói riêng tại trường Trung học Cơ sở
Minh Cường. Từ đó, xây dựng bài giảng, nâng cao chất lượng dạy và học,

nâng cao khả năng nhận thức thẩm mỹ của học sinh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu


8

Để đạt được mục đích đã đề ra nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
thẩm mỹ cho học sinh tại trường Trung học Cở sở Minh Cường, luận văn
đặt ra bốn nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
Thứ nhất: Nghiên cứu cơ sở lý luận về chương trình dạy và học bộ
môn mỹ thuật nói chung và phân môn vẽ tranh trong chương trình đào tạo
mỹ thuật cấp Trung học Cơ sở nói riêng.
Thứ hai: Nghiên cứu thực trạng dạy - học phân môn vẽ tranh trong
chương trình mỹ thuật lớp 8 tại trường Trung học Cơ sở Minh Cường.
Thứ ba: Nghiên cứu về đặc trưng, đặc điểm của kí họa, cách thức
thực hiện vẽ kí họa cơ bản.
Thứ bốn: Khai thác kí họa để vận dụng vào dạy - học phân môn vẽ
tranh trong chương trình mỹ thuật lớp 8 tại trường Trung học Cơ sở Minh
Cường. Nâng cao kỹ năng tạo hình, khả năng sáng tạo, hứng thú với hoạt
động học tập môn mỹ thuật của học sinh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là kí họa vận dụng vào dạy học phân
môn vẽ tranh trong chương trình mỹ thuật lớp 8 tại trường Trung học Cơ sở
Minh Cường.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu chọn khoanh vùng một số ấn phẩm về kí họa tại Việt
Nam. Khảo cứu giờ học phân môn vẽ tranh trong chương trình mỹ thuật
lớp 8, trường Trung học Cơ sở Minh Cường.
5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn áp dụng bốn phương pháp sau:
Phương pháp điều tra: Là phương pháp dùng những câu hỏi nhất loạt
đặt ra cho một lượng người nhằm thu được những ý kiến chủ quan của họ
về một vấn đề nào đó. Dựa trên cơ sở lý luận, các thông tin điều tra được là


9

căn cứ đề xuất giải pháp cải thiện chất lượng bài học vẽ tranh hay tìm hiểu
mức độ yêu thích của học sinh đối với môn học.
Phương pháp thu thập, tổng hợp tài liệu: Sưu tầm các đề tài nghiên
cứu, các sách báo liên quan đến các vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của
luận văn, từ đó tổng hợp lại thông tin tìm ra hướng nghiên cứu phù hợp.
Phương pháp phân tích: Là phương pháp phân tích lý thuyết để nhận
thức khai thác các khía cạnh khác nhau của vấn đề từ đó chọn lọc những
thông tin cần thiết phục vụ cho đề tài nghiên cứu. Mỗi nguồn tài liệu đều có
giá trị riêng biệt, mỗi tác giả có cái nhìn riêng trước một đối tượng, cần
phân tích theo cấu trúc logic của nội dung phù hợp với đề tài nghiên cứu,
qua đó cũng đưa ra những bài tập rèn luyện phù hợp.
Phương pháp khảo sát, thực nghiệm: Sau khi nghiên cứu, phân tích
và đánh giá về tình hình học tập môn mỹ thuật lớp 8 tại một trường cụ thể
thì tôi viết giáo án cho bài giảng, sau đó xin phép hiệu trưởng của trường,
giáo viên bộ môn mỹ thuật của trường được dự giờ một số tiết học mỹ
thuật, sau đó giảng dạy bài giảng tại một lớp cụ thể và thu thập lại kết quả
để đối chiếu, so sánh giữa phương pháp mới mà tôi đưa ra có phù hợp, có
hiệu quả đối với phương pháp mà các thầy cô tại trường hiện đang sử dụng
hay không.
6. Những đóng góp của luận văn
Đóng góp về mặt lý luận: Góp phần nghiên cứu về vai trò, vẻ đẹp và
giá trị của kí họa không chỉ trong phân môn vẽ tranh ở chương trình mỹ

thuật THCS mà còn trong sáng tác hội họa của bạn bè, đồng nghiệp.
Tạo ra bước chuẩn bị hợp lý khi học sinh vẽ bài theo đề tài, tức là rất cần
kho dữ liệu về bối cảnh và tạo dáng nhân vật nhưng phải tự quan sát và vẽ
chứ không phải là lấy trên mạng và sách báo đã xuất bản.
Đóng góp thực tiễn: Nghiên cứu chỉ ra thực trạng về việc dạy và học
phân môn vẽ tranh trong chương trình Mỹ thuật lớp 8 THPT Minh Cường.


10

Làm tài liệu tham khảo cho đồng nghiệp, cụ thể là nâng cao chất lượng
giảng dạy bài vẽ tranh theo đề tài, vẽ minh họa truyện cổ tích.
7. Bố cục của luận văn
Cấu trúc của đề tài nghiên cứu ngoài phần Mở đầu, kết luận, tài liệu
tham khảo, phụ lục. Luận văn gồm hai chương cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực trạng dạy học phân môn vẽ tranh
trong chương trình lớp 8 tại trường Trung học Cơ sở Minh Cường.
Chương 2: Áp dụng kí họa vào dạy phân môn vẽ trong chương trình
lớp 8 tại trường Trung học Cơ sở Minh Cường.


11

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận về dạy học phân môn vẽ tranh trong chương trình
Mỹ thuật lớp 8
1.1.1. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.1.1.1. Phương pháp dạy học
Khái niệm về phương pháp: Dưới góc độ triết học (theo Georg

Wilhelm Friedrich Hegel - nhà triết học người Đức) "phương pháp là ý
thức về hình thức của sự vận động bên trong của nội dung". Phương pháp
hiểu theo nghĩa chung nhất là cách thức phải tiến hành để đạt tới mục tiêu.
Khái niệm dạy học: Dạy là hoạt động của giáo viên nhằm định
hướng, tổ chức, điều khiển giúp cho người học tự mình tìm kiếm chiếm
lĩnh kiến thức, hình thành kỹ năng thay đổi tình cảm và hình thành thái độ.
Học là quá trình tự biến đổi mình và làm phong phú mình bằng cách chọn
nhập và xử lí thông tin từ môi trường xung quanh.
Khái niệm phương pháp dạy học: Là những cách thức tổ chức dạy
học của giáo viên và của học sinh, giáo viên là người chỉ đạo và thông qua
hoạt động dạy truyền tài kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, hình thành thế giới
quan và năng lực cho học sinh. Học sinh chủ động tham gia các hoạt động
học tập do giáo viên đề ra nhằm đạt được mục tiêu dạy và học. Trong quan
hệ đó, phương pháp dạy quyết định, điều khiển phương pháp học, phương
pháp học là cơ sở để lựa chọn phương pháp dạy.
1.1.1.2. Học sinh Trung học Cơ sở
Học sinh, học trò là những thiếu nhi, thiếu niên trong độ tuổi đi học (6 18 tuổi) đang theo học tại các trường tiểu học, trung học, lứa tuổi cần có sự
giáo dục của cả gia đình và nhà trường. Học sinh trung học cơ sở (độ tuổi
thiếu niên) đây là độ tuổi của người chưa thành niên (điều 18 Bộ luật dân sự


12

Việt Nam năm 2005), giai đoạn chuyển tiếp trong sự phát triển của con người
giữa thiếu nhi và trưởng thành. Ở góc nhìn sinh học thì đây là lứa tuổi có bước
nhảy vọt về thể chất lẫn tinh thần, thời gian đến trường sinh hoạt và học tập có
tác động rất lớn đối với học sinh giai đoạn này.
1.1.1.3. Kí họa
Kí họa là khi họa sĩ vẽ vội một cách khái quát những đặc điểm
hình thái cơ bản của thiên nhiên, kiến trúc, đồ vật, động vật và con

người. “Kí họa là môn học ghi chép thực tế, từ nhanh vừa đến rất nhanh,
Nhằm ghi lại những nét cơ bản nhất của con người, cảnh vật và sự
chuyển động của nó về hình dáng, màu sắc, đậm nhạt diễn ra trong một
thời gian ngắn" [8, tr.11].
“Kí họa là môn học không thể thiếu trong mĩ thuật nói chung, hội
họa nói riêng. Kí họa giúp cho người học có tư liệu để xây dựng tác phẩm
và rèn luyện óc quan sát, kỹ năng ghi chép nắm bắt thực tế, tạo cảm hứng
sáng tác” [8, Tr.9]. Đó là vai trò của kí họa đối với các họa sĩ chuyên
nghiệp. Còn đối với những người vẽ nói chung thì kí họa giúp người vẽ
tiếp cận cuộc sống, tiếp cận thiên nhiên một cách nhanh nhất, hiệu quả
nhất. Cụ thể hơn thì kí họa là cách vẽ theo kiểu ghi chép nhanh mọi đồ vật,
cảnh vật cũng như các kiểu dáng hoạt động của động vật và con người để
người vẽ tạo ra kho tài liệu riêng và có ý tưởng nhằm mục đích sáng tác
tranh sau này. Thông thường kí họa được hiểu là vẽ trực tiếp (trực họa)
trước đối tượng, không chỉ đơn thuần ghi chép hình dáng mà còn ghi lại cả
sự rung cảm của người vẽ trước đối tượng đã chọn, như vậy việc vẽ lại qua
ảnh chụp khó lòng được tính vào trường hợp này.
1.1.1.4. Phân môn vẽ tranh
"Tranh phản ánh nhiều mặt về thế giới tự nhiên, về quá khứ, tương
lai và xã hội đương thời của cuộc sống con người. Tranh là một thể loại của


13

nghệ thuật thị giác được tạo ra trên mặt phẳng hai chiều do thủ pháp phối
hợp đường nét, màu sắc, sắc độ... của người sáng tạo" [7, tr.103]. Tranh
góp mặt trong nhiều lĩnh vực, được sử dụng rộng rãi và là loại hình nghệ
thuật lâu đời.
Vẽ tranh là một loại hình thể hiện nghệ thuật thị giác, phân môn vẽ
tranh có trong chương trình giáo dục thẩm mỹ dành cho học sinh từ bậc

tiểu học đến Trung học Cơ sở. Đây là học phần khó và mang tính chất tổng
hợp, kết hợp nhiều yếu tố về tạo hình, trí tưởng tượng, vận dụng kỹ năng
tạo hình, sử dụng bố cục, sử dụng màu sắc, mục đích cuối cùng là sáng tác
tranh vẽ có cá tính riêng. Mục đích chính để hình thành, hoàn thiện, phát
triển năng lực thẩm mỹ của học sinh.
Vận dụng kí họa vào phân môn vẽ tranh là khai thác sử dụng những
tư liệu kí họa do học sinh thực hiện để xây dựng lên bài vẽ tranh theo đề
tài, theo ý thích của bản thân.
1.1.2. Khái quát về chương trình Mỹ thuật lớp 8
Trong dạy học bộ môn mỹ thuật chương trình dành cho học sinh
THCS, có những phân môn sau: Phân môn vẽ trang trí, thường thức mỹ
thuật, vẽ theo mẫu và vẽ tranh.
1.1.2.1. Phân môn vẽ trang trí
Trang trí là một động từ mang tính sắp xếp, bố trí các vật có hình
khối, đường nét, màu sắc khác nhau sao cho tạo ra một sự hài hòa, làm đẹp
mắt một khoảng không gian nào đó. Trang trí cũng là một hình thái nghệ
thuật đặc biệt để thỏa mãn nhu cầu trao đổi thông tin giao tiếp, phản ánh về
mặt văn hóa xã hội, mỗi con người, mỗi thời đại. Nghệ thuật trang trí góp
mặt ở nhiều lĩnh vực của xã hội, ngay cả đến những vật dụng hằng ngày
như: bát, đũa, ấm, chén, quần áo hay các công trình kiến trúc, nội thất đình,
chùa, miếu mạo, đồ công nghệ cao... Mục đích làm cho cuộc sống tinh thần
của con người thêm phong phú hơn.


14

Nội dung phân môn vẽ trang trí được xây dựng trong khuôn khổ bài
học Mỹ thuật của chương trình Mỹ thuật lớp 8 tại các trường Trung học Cơ
sở như sau: Trang trí quạt giấy, tạo dáng và trang trí chậu cảnh, trình bày
khẩu hiệu, trang trí bìa sách, tạo dáng và trang trí mặt nạ, vẽ tranh cổ động,

trang trí lều trại, trang trí đồ vật dạng hình vuông; hình chữ nhật.
- Họa tiết trang trí: là khi vẽ người ta thường dùng các họa tiết hoa
lá, chim thú, các hình kỷ hà (vuông, tròn, tam giác...), đôi khi là hình dáng
người cách điệu. Học sinh cần có sự sáng tạo, tư duy ngoài ra còn biểu hiện
cảm xúc, phong cách riêng, cá tính riêng.
- Cách điệu họa tiết dùng cho trang trí từ một đối tượng người vẽ cần
khái quát hóa, đơn giản hóa, cách điệu hóa, cường điệu hóa hoặc biểu trưng
hóa hình tượng mẫu đưa vào bài vẽ. Nói đến cách điệu họa tiết từ một đối
tượng thật để đưa vào dùng trong trang trí thì không nên bỏ qua phương
pháp quan sát và kí họa, bởi kí họa là vẽ nhanh và nắm bắt đặc điểm đối
tượng một cách khái quát nhất, cụ thể nhất. Dựa vào những nét cơ bản phác
hình đã là khái quát, đơn giản hóa đối tượng hoặc từ đó đưa hình mẫu về
dạng biểu trưng để sử dụng vào bài trang trí. Biến cái ghi chép từ thực tế
thành họa tiết trang trí bằng cách lược bỏ những cái không cần thiết ngoài
bản chất và nâng nó lên một hình thức mới phù hợp nội dung và hình thức
trang trí cụ thể.
- Màu sắc trong trang trí thường có đặc điểm riêng, không giống thực
mà được cường điệu hóa so với thực tế.
- Bố cục trang trí "là sự sắp xếp các ngôn ngữ nghệ thuật tạo hình
như: đường nét, hình mảng, màu sắc sao cho gây được hiệu quả cao nhất
đối với chủ đề của sản phẩm" [7, tr.86]. Các hình thức thông thường trong
bố cục trang trí: Đăng đối (đăng đối đơn - đối xứng qua một trục, đăng đối
giả - hình thức giống đăng đối đơn nhưng khác nhau về dạng bề mặt của


15

họa tiết, đăng đối kép - đối xứng nhau qua nhiều trục), nhắc lại, xen kẽ,
xoay chiều, hàng lối, phá thế và bố cục theo hình thức tự do.
1.1.2.2. Phân môn vẽ tranh

Phân môn vẽ tranh trong khuôn khổ chương trình mỹ thuật lớp 8
mục đích giúp học sinh hiểu cách vẽ và vẽ được tranh phong cảnh, từ đó
yêu mến vẻ đẹp quê hương đất nước. Hiểu được nội dung và cách vẽ tranh
theo các đề tài, qua đó thể hiện tình cảm của mình. Phát huy trí tưởng
tượng sáng tạo, có kiến thức và kỹ năng để vẽ được một bức tranh theo ý
thích. Biết cách minh họa sách báo, minh họa thơ, một câu hát, truyện cổ
tích để các em thêm yêu câu chuyện cổ tích Việt Nam hơn, yêu nền văn
học của thế giới hơn.
Nội dung phân môn vẽ tranh được xây dựng trong khuôn khổ bài học
Mỹ thuật của chương trình Mỹ thuật lớp 8 tại các trường Trung học Cơ sở
như sau: Vẽ tranh phong cảnh, tranh đề tài ngày nhà giáo Việt Nam, tranh
đề tài gia đình, đề tài lao động, đề tài ước mơ của em, minh họa truyện cổ
tích, đề tài tự do.
- Hình ảnh dùng trong phân môn vẽ tranh: Có thể cách điệu quy về
hình đơn giản hoặc sử dụng các tư liệu kí họa nguyên bản thêm hoặc bớt
chi tiết, đẩy sâu hơn thành một bài vẽ tranh.
- Màu sắc trong tranh bố cục rất đa dạng, có thể giống hoặc không
giống thực tế. Yêu cầu ở người vẽ hiểu được ý nghĩa của màu sắc cũng như
cách sử dụng cần biết đặc điểm của màu như khi bố cục cần xác định đối
tượng nào là chính, đối tượng nào là phụ, vị trí đặt ở đâu trên bài vẽ. "Gần
tỏ xa mờ" nghĩa là cái gì ở gần, trung tâm tranh thì sẽ rõ ràng hơn, chi tiết
hơn những hình ảnh phụ ở xa trung tâm từ đó sử dụng màu sắc cho đúng.
Nhóm màu nóng tạo cảm giác gần (đỏ, vàng, da cam...), nhóm màu lạnh
tạo cảm giác xa (xanh, tím...).


16

- Bố cục: Hình thức bố cục trong phân môn vẽ tranh rất phong phú
và đa dạng. Bố cục ở mức đơn giản theo dạng dính - rời thường là chọn ít

hình ảnh, góc nhìn hẹp theo kiểu "2 dính - 1 rời", "3 dính - 1 rời, "3 dính - 2
rời"... để chia ra chính - phụ. Bố cục theo dạng liên kết cũng theo dạng dính
- rời hoặc là nhóm và những chỗ ráp ranh dính - rời hoặc nhóm đó sẽ có
thêm các đối tượng nhỏ khác để tạo sự liên kết và đa dạng. Bố cục theo
dạng nhóm mảng, bố cục dạng này tôi coi là một dạng khó bởi góc nhìn
rộng, phải kết hợp các nhóm mảng to - nhỏ, trong nhóm mảng lại có các
hình cụ thể nữa. Bố cục trong phân môn vẽ tranh có đôi chút khác với phân
môn vẽ trang trí ở chỗ cần tránh chia đôi tranh dù ngang hay dọc, các đối
tượng đặt trong tranh không nên bị đều đều dễ gây nhàm chán nếu không
khéo sắp đặt. Còn trong bố cục của phân môn vẽ trang trí thì ngược lại, bố
cục đối xứng qua trục, các họa tiết được lặp đi lặp lại.
1.1.2.3. Phân môn vẽ theo mẫu
Vẽ theo mẫu là vẽ lại mẫu bày trước, diễn tả lại đặc điểm tạo hình,
cấu tạo của hình mẫu.
Phân môn vẽ theo mẫu: Mục đích giúp học sinh biết cách bày mẫu
như thế nào là hợp lý, biết cách vẽ và vẽ được hình gần giống mẫu, cảm
nhận được vẻ đẹp của tranh tĩnh vật qua cách bố cục bài vẽ. Nắm được
những nét cơ bản về tỉ lệ các bộ phận trên khuôn mặt người, biết được sự
biểu hiện tình cảm trên nét mặt, tập vẽ được chân dung, thấy được vẻ đẹp
của tranh vẽ chân dung. Biết được sơ lược vể tỉ lệ cơ thể người, vẻ đẹp cân
đối của cơ thể người, nắm bắt được các hình dáng người trong các tư thế:
đứng, ngồi, đi, chạy, nhảy... Biết vẽ một vài dáng cơ bản để áp dụng vào
bài vẽ.
Nội dung cụ thể phân môn vẽ theo mẫu trong chương trình lớp 8 ở
các trường Trung học Cơ sở hiện nay như sau: Vẽ tĩnh vật lọ và quả, giới


17

thiệu tỉ lệ khuôn mặt người, vẽ chân dung bạn, giới thiệu tỉ lệ cơ thể

người, xé gián giấy lọ hoa và quả.
- Hình ảnh dùng trong phân môn vẽ theo mẫu: Bất kỳ đối tượng nào
có hình dạng cụ thể, để sắp xếp vào thành một bố cục.
- Màu sắc: Vẽ theo mẫu là vẽ lại như đối tượng như là một hình thức
ghi chép cụ thể, gần như chính xác mà các đối tượng lại rất phong phú nên
màu sắc sử dụng trong phân môn này cũng rất đa dạng, sinh động. Hạn chế
được việc học sinh tùy tiện sử dụng màu sắc theo cảm xúc, mà hướng học
sinh đến cách sử dụng màu qua cách nhìn của bản thân.
- Bố cục: Thường các đối tượng mẫu được sắp đặt theo dạng dính rời như các bố cục cơ bản. Có đối tượng chính hình dáng, màu sắc sẽ nổi
bật hơn các đối tượng phụ khác.
1.1.2.4. Phân môn thường thức mỹ thuật
Học sinh hiểu biết thêm về một số công trình mỹ thuật qua các
thời kỳ lịch sử, giới thiệu một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu của mỹ thuật
Việt Nam các giai đoạn. Học sinh biết quý, trân trọng, bảo vệ những giá
trị nghệ thuật của cha ông để lại. Tìm hiểu về một số chất liệu trong sáng
tác mỹ thuật, hiểu biết hơn về các trường phái hội họa. Nhận biết được
sự đa dạng trong nghệ thuật hội họa của các trường phái.
Nội dung cụ thể phân môn thường thức mỹ thuật trong chương
trình lớp 8 ở các trường Trung học Cơ sở hiện nay như sau: Một số công
trình mỹ thuật tiêu biểu của thời Lê, sơ lược về mỹ thuật Việt Nam giai
đoạn 1954 - 1975 và một số tác giả tác phẩm tiêu biểu ở giai đoạn này,
mỹ thuật hiện đại phương Tây từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX,
một số tác giả - tác phẩm tiêu biểu của trường phái hội họa ấn tượng.


18

1.1.3. Khái quát phân môn vẽ tranh trong chương trình Mỹ thuật ở
trường Trung học cơ sở
Trước hết, Mỹ thuật được hiểu là nghệ thuật về cái đẹp, cái đẹp do

con người hay thiên nhiên tạo ra mà mắt người nhìn thấy được. Mỹ thuật là
môn nghệ thuật có ngôn ngữ riêng, có nhiều cấp độ thưởng thức cái đẹp,
phụ thuộc vào sự hiểu biết, năng khiếu thẩm mỹ và ý thức của riêng từng
người mà quan niệm về thẩm mỹ cũng khác nhau.
Môn học mỹ thuật được giảng dạy trong các trường Trung học Cơ sở
hiện nay nhằm bồi dưỡng, phát triển học sinh ở năng lực thẩm mĩ. Quan sát
và nhận thức thẩm mĩ, sáng tạo và ứng dụng thẩm mĩ, phân tích và đánh giá
thẩm mĩ, người vẽ dùng hình ảnh thị giác để thể hiện cảm xúc, suy nghĩ của
bản thân và sự sáng tạo.
Phân môn vẽ tranh trong chương trình mỹ thuật dành cho học sinh
tiểu học và Trung học Cơ sở là phân môn rất quan trọng và không thể thiếu
với khối lượng bài học. Cụ thể ở chương trình mỹ thuật lớp 8 trung học cở
sở có 35 tiết, thì có đến 10 tiết là học vẽ tranh: Vẽ tranh theo đề tài, vẽ
minh họa truyện cổ tích, vẽ đề tài tự chọn.
Vẽ tranh tự do
"Tranh tự do là tranh mà người vẽ được quyền lựa chọn mọi vấn đề
mà mình thích, mình coi là sở trường và thường là các ý tưởng được nảy
sinh bất chợt trong quá trình suy nghĩ rồi thể hiện ra" [7, tr. 105]. Nếu nhìn
nhận ở góc độ khó và dễ thì vẽ tranh theo đề tài tự do sẽ khó hơn vẽ tranh
theo đề tài một chút, chính bởi không quy định, không gò bó về đề tài thể
hiện đôi khi sẽ khiến các học sinh phân vân lựa chọn nội dung, không xác
định chủ đề cụ thể khéo sẽ dễ lan tỏa theo chiều hướng phức tạp khác. Hơn
nữa, ở thể loại này đòi hỏi học sinh sự sáng tạo, phong cách riêng trong tạo
hình rất nhiều.


19

Nói đến sự sáng tạo hay muốn vẽ được chính xác những gì học sinh
nghĩ, tưởng tượng ra lại nảy sinh một vấn đề mới. Bởi nếu các em chưa

từng vẽ về đối tượng đó thì sẽ khó mà vẽ đúng như mình muốn, kí họa là
ghi chép nhanh lại đặc điểm chính của đối tượng, quan trọng là đòi hỏi học
sinh phải thực hành. Trước khi kí họa đã quan sát kỹ, nắm bắt được đặc thù
bao quát mới vẽ những nét vẽ nhanh và vẫn ra được cái mình muốn tả.
Trong quá trình ấy, học sinh ghi nhớ đối tượng một cách bài bản có chọn
lọc. Có câu "Trăm hay không bằng tay quen", dù nhìn thấy nhiều, biết
nhiều, nghĩ ra nhiều nhưng không thực hành làm sao tốt. Vì vậy, kí họa
nhiều sẽ tạo tiền đề tốt cho xây dựng bài vẽ tranh đạt hiệu quả về thị giác ở
việc thể hiện cấu trúc, dáng vóc, sự hài hòa về màu sắc trong một bài vẽ.
Vẽ tranh theo đề tài
"Là tranh vẽ theo một chủ đề cho trước, nhằm giúp người vẽ thể hiện
trong một phạm vi nhất định có tính chất cô đọng và tập trung vào một vấn
đề cụ thể chứ không kể lể" [7, tr.105]. Trong tranh hàm chứa nội dung và
các vấn đề liên quan nhưng nêu bật mục đích, trong khuôn khổ bài học vẽ
tranh theo đề tài ở cấp THCS là đưa ra hướng thể hiện cụ thể, rõ ràng để
học sinh dễ nắm bắt và thực hành.
Tên bài học vẽ tranh theo đề tài rất rộng như: Đề tài ước mơ của em,
đề tài ngày nhà giáo Việt Nam, đề tài gia đình, đề tài trò chơi dân gian, đề
tài an toàn giao thông, đề tài cuộc sống quanh em, đề tài lễ hội, đề tài
phong cảnh quê hương, đề tài bộ đội, thể thao văn nghệ, đề tài tự chọn.
Gồm tất cả các đề tài trong cuộc sống thực tế hoặc trong trí tưởng tượng.
Mục đích của vẽ tranh theo đề tài là giúp các em học sinh nắm được
những kiến thức cơ bản về bố cục tranh, cảm thụ và nhận biết được các
hoạt động trong đời sống hằng ngày. Cuộc sống quanh chúng ta mỗi ngày
trôi qua là một trải nghiệm, biết bao chuyện xảy ra, biết bao cái đẹp. Học


×