Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

CHÍNH DANH TRONG NHO GIÁO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.64 KB, 14 trang )

Tìm hiểu thuyết chính danh trong Nho giáo

MỞ ĐẦU
Triết học Trung Hoa cổ đại và trung đại là một bộ phận quan trọng của
Triết học phương Đông, trong đó có thể nói Nho giáo là một trường phái quan
trọng và có giá trị vào loại bậc nhất. Mặc dù ra đời là để phục vụ cho chế độ
phong kiến nhưng đến nay nhiều tư tưởng, quan niệm về xã hội, con người, đạo
đức, giáo dục … của Nho giáo vẫn còn giá trị và mang tính thời sự như tư tưởng
nhân nghĩa và học thuyết chính danh. “Nhân nghĩa” có ý nghĩa trong mọi mặt
của đời sống nhưng “chính danh” lại tác động sâu sắc tới việc đảm bảo trật tự và
ổn định xã hội, đặc biệt là ở lĩnh vực chính trị.
“Chính danh” theo Khổng Tử đề xướng là một nguyên tắc cai trị xã hội,
được hiểu là: một vật trong thực tại cần phải cho phù hợp với cái danh nó mang,
có nghĩa là đảm bảo sự phù hợp giữa cái danh và cái thực. Đây là một học thuyết
có giá trị không chỉ trong thời kì phong kiến mà cả trong thời hiện đại. Chúng ta
sẽ tìm hiểu giá trị của học thuyết này trên hai phương diện: đối với sự phát triển
tư tưởng triết học và giá trị về mặt thực tiễn.
Nhận thức được vấn đề trên, em đã lựa chọn tìm hiểu vấn đề: “Tìm hiểu
thuyết chính danh trong Nho giáo”.

NỘI DUNG
HVTH: TÀO THỊ HOÀNG OANH

Trang 1


Tìm hiểu thuyết chính danh trong Nho giáo

1. Nội dung tư tưởng của Khổng Tử
Khổng Tử tên thật là Khổng Khâu tự là Trọng Ni, người làng Xương
Bình, huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông ngày nay. Ông sinh năm 551 trước


công nguyên, đó là lúc mà xã hội Trung Quốc cổ đại loạn lạc, các vua chúa
chuyên tâm hưởng thụ hoặc chém giết nhau để xưng hùng, xưng bá. Đạo lý
nhân luân xáo trộn, vinh nhục không rõ ràng. Thiện ác khó phân biệt.
Năm 33 tuổi, nước Lỗ loạn lạc Khổng Tử đến nước Tề, sau đó lại quay
về nước Lỗ, dạy học và nghiên cứu sách. Ông san định Kinh thi, Kinh thư,
Kinh dịch, Kinh lễ... và soạn Kinh Xuân thu. Môn đệ của ông chép lại những
lời dạy làm thành bộ “Luận ngữ”. Ông hệ thống hóa những tri thức, tư tưởng
đời trước và quan điểm của ông thành học thuyết đạo đức - chính trị nổi tiếng,
gọi là Nho giáo.
Nội dung cơ bản của tư tưởng Khổng Tử gồm có 3 vấn đề cơ bản, đó
là: Thế giới quan, luân lý đạo đức và học thuyết “Chính danh”.
Trong quan điểm về thế giới quan, xuất phát từ tư tưởng của “Kinh
dịch”, Khổng Tử cho rằng, vạn vật trong vũ trụ luôn sinh thành, biến hóa
không ngừng theo đạo của nó. Sự vận động và biến đổi ấy của vạn vật bắt
nguồn từ mối liên hệ, tương tác giữa hai lực “âm” và “dương” trong một thể
thống nhất “Thái cực”. Cái lực vô hình để âm - dương tương tác, trung hòa, để
vạn vật sinh hóa không ngừng ấy, Khổng Tử gọi là “Đạo”, là “Thiên lý”.
Nhưng vì “Đạo” hay “Thiên lý” là huyền bí, sâu kín, mầu nhiệm, nó lưu hành
khắp vũ trụ, định phép sống cho vạn vật mà con người ta không thể cưỡng lại
được, nên Khổng Tử gọi là “Thiên mệnh”.
Do tin vào “Thiên mệnh”, nên Khổng Tử coi việc hiểu biết mệnh trời là
một điều kiện tất yếu để trở thành con người hoàn thiện, ông viết “Không biết
mệnh trời thì không lấy gì làm quân tử” (“Luận ngữ”, Nghiêu viết, 3). Đã tin
có mệnh biết mệnh thì phải sợ mệnh và thuận mệnh. Đó là cái đức của người
quân tử. Khổng Tử khuyên: “Người quân tử có ba điều sợ: sợ mệnh trời, sợ
bật đại nhân, sợ lời thánh nhân” (“Luận ngữ”, Quý thị, 8). Do quan niệm như
HVTH: TÀO THỊ HOÀNG OANH

Trang 2



Tìm hiểu thuyết chính danh trong Nho giáo

vậy, nên Khổng Tử tin vào số mệnh và ông đã nói : Sống chết có mệnh, giàu
sang do ở trời (“Luận ngữ”, Nhan Uyên, 5). Tuy nhiên, Khổng tử lại không tán
thành quan điểm cho rằng, con người cứ nhắm mắt dựa vào “Thiên mệnh”. Ông
luôn luôn yêu cầu con người phải chú trọng vào sự nổ lực học tập, làm việc tận
tâm, tận lực, còn việc thành hay bại như thế nào, lúc đó mới là tại ý trời.
Khổng Tử cũng tin có quỷ thần và cho rằng, quỷ thần là do khí thiêng
trong trời đất tạo thành, mắt ta không nhìn thấy được, tai ta không nghe thấy
được... Tuy nhiên, ông phê phán mê tín sung bái quỷ thần, kêu gọi mọi người
hãy chú trọng vào công việc làm của mình, bời vì: “Đạo thờ người chưa biết
thì sao biết được đạo quỷ thần. Không hiểu được con người sống, thì không có
tư cách hỏi chuyện sau khi chết” (“Luận ngữ”, Tiên Tấn, 11). Theo ông, trí
thông minh, khôn ngoan của con người đối lập với mê tín quỷ thần. Ông dạy
bọn thống trị hãy từ bỏ sùng bái quỷ thần, ra sức nghiên cứu chính sách cai trị
cho hợp lý (“Luận ngữ”, Nhan Uyên, 7).
Như vậy, trong quan điểm về thế giới, tư tưởng của Khổng Tử luôn có
những tính chất mâu thuẫn. Khi chống lại chủ nghĩa thần bí, tôn giáo đương
thời, ông thừa nhận sự vật, hiện tượng trong tự nhiên luôn tự vận động, biến
hóa, không phụ thuộc vào mệnh lệnh của trời. Đó là yếu tố duy vật chất phác
và tư tưởng biện chứng tự phát, nhưng mặt khác, ông lại cho rằng Trời có ý
chí và có thể chi phối vận mệnh của con người, đó là một bước lùi trong tư
tưởng triết học của ông. Cũng như thế, một mặt Khổng Tử tuyên truyền sức
mạnh của quỷ thần, nhưng mặt khác, ông lại nhấn mạnh đến vai trò quan trọng
của hoạt động con người trong đời sống. Thực chất mâu thuẫn trong tư tưởng,
tâm trạng và thái độ của Khổng Tử là phản ánh những mâu thuẫn của đời sống
hiện thực thời bấy giờ.
Cùng với quan điểm về vũ trụ và con người, học thuyết về luân lý đạo
đức; chính trị xã hội là một trong những vấn đề cốt lõi và là thể thống nhất

hữu cơ trong triết học của Khổng Tử trên tư tưởng “thiên nhân tương đồng”.
Những nguyên lý đạo đức căn bản nhất trong học thuyết đạo đức của Khổng
Tử là: nhân, lễ, trí, dũng… cùng với hệ thống quan điểm về chính trị, xã hội
HVTH: TÀO THỊ HOÀNG OANH

Trang 3


Tìm hiểu thuyết chính danh trong Nho giáo

như “nhân trị”, “Chính danh”, “thượng hiền”, “quân tử”, “tiểu nhân” của ông.
Trong những phạm trù đạo đức ấy của Khổng Tử, chữ “nhân” được ông đề
cập với ý nghĩa sâu rộng nhất. Nó được coi là nguyên lý đạo đức cơ bản quy
định bản tính con người và những quan hệ giữa người với người từ trong gia
tộc đến xã hội. Nó liên quan đến các phạm trù đạo đức, chính trị khác như một
hệ thống triết lý chặt chẽ, nhất quán, tạo thành bản sắc riêng trong triết lý nhân
sinh của ông.
Về tư tưởng chính trị Khổng Tử dựa trên tư tưởng đạo đức của ông. Ông
cho rằng chính phủ tốt nhất là chính phủ cai trị bằng “lễ nghĩa” và đạo đức tự
nhiên của con người, chứ không phải bằng vũ lực và mua chuộc. Ông đã giải
thích điều đó tại một trong những đoạn quan trọng nhất của cuốn Luận Ngữ:
Dùng mệnh lệnh, pháp luật đễ dẫn dắt chỉ đạo dân, dùng hình phạt để quản lý
dân, làm như vậy tuy có giảm được phạm pháp, nhưng người phạm pháp
không biết xấu hổ, sỉ nhục. Dùng đạo đức để hướng dẫn chỉ đạo dân, dùng lễ
nghĩa để giáo hoá dân, dùng hình phạt để quản lý dân, làm như vậy chẳng
những dân hiểu được thế nào là nhục nhã khi phạm tội, mà còn cam tâm tình
nguyện sửa chữa sai lầm của mình tận gốc từ mặt tư tưởng” sự biết sỉ nhục là
sự mở rộng của trách nhiệm nơi mà hành động trừng phạt đi trước hành động
xấu xa, chứ không phải đi sau nó như trong hình thức luật pháp của pháp gia.
Trong khi ủng hộ ý tưởng về một vị hoàng đế đầy quyền lực, có lẽ vì tình

trạng hỗn loạn ở Trung quốc thời kỳ đó, các triết lý của Khổng Tử chứa đựng
một số yếu tố hạn chế quyền lực của các nhà cai trị. Ông cho rằng lời lẽ phải
luôn ngay thật; vì thế tính trung thực có tầm hàng đầu. Thậm chí trên nét mặt,
phải luôn thể hiện sự trung thực. Khi bàn luận mối quan hệ về thần dân và
vua, ông nhấn mạnh sự cần thiết phải có sự tôn trọng của người dưới với
người trên. Điều này đòi hỏi người dưới phải đưa ra lời khuyên cho người trên
nếu người trên có hành động sai lầm. Tư tưởng này của ông được học trò là
Mạnh Tử phát triển thêm khi nói rằng nếu vua không ra vua, ông ta sẽ mất

HVTH: TÀO THỊ HOÀNG OANH

Trang 4


Tìm hiểu thuyết chính danh trong Nho giáo

thiên mệnh và sẽ phải bị lật đổ. Vì vậy hành động giết bạo chúa là đúng đắn
bởi lẽ kẻ bạo chúa giống một tên trộm hơn là nhà vua.
Những tư tưởng sâu sắc của Khổng tử về thế giới, về xã hội, về con
người, đặc biệt là học thuyết “Chính danh” và đạo đức đã đưa ông lên tầm cao
của nhà triết học thông thái, nhà chính trị tài ba và nhà giáo dục nổi tiếng.
2. Những nội dung cơ bản của học thuyết “Chính danh”
Khổng Tử khi sinh thời, ông thường nói với học trò rằng “(Ngô) thuật nhi
bất tác, tín nhi hiếu cổ” nghĩa là: Ta chỉ thuật lại mà không trước tác, tin vào
đạo lý đời xưa. Các nhà nghiên cứu về Nho giáo và Khổng tử ngày nay đều
cho rằng, trong các tác phẩm như Kinh Thi, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu, Luận
Ngữ… thì chỉ có quyển Luận Ngữ được xem là đáng tin cậy nhất vì những lời
phát biểu của Khổng tử trong sinh thời mà phần lớn là đàm thoại với học trò
của ông.
Do đâu mà Khổng tử đề ra học thuyết “Chính danh”? Trong thời đại của

mình, Khổng Tử nhận thấy tình trạng rối ren, phức tạp của xã hội phong kiến
thời Chu. Xã hội mà tôn ti trật tự bị rối ren, đảo lộn. Ông lấy làm tiếc cái thời
đầu nhà Chu như Chu Võ Vương, Chu Công… sao mà thời đại tươi đẹp,
phong hóa tốt tươi đến thế! Ông nhìn thấy tình cảnh “tôi thí vua, con giết cha
không phải nguyên nhân của một sáng một chiều”. Mọi sự việc, nguyên nhân
đều có cái cớ của nó. Mà cái cớ này không tự dưng mà có, nó được tích tập
dần dần qua thời gian mà đến một thời điểm nào đó, thì sẽ xảy ra kịch tính
như trên. Kinh dịch có câu “Đi trên sương mà băng giá tới” (Lý sương kiên
băng chí) là thuận với lẽ diễn tiến tự nhiên của mọi sự vật.
Khổng tử thấy tình trạng xã hội thời ông hỗn loạn đến nỗi “tôi giết vua,
con giết cha” là tệ hại lắm rồi, nhưng ông là người không thích bạo lực, không
thích làm cuộc thay đổi triệt để để triệt tiêu cái tệ trên bằng bạo lực cho nên
ông mới đề ra học thuyết “Chính danh” nhằm để cải tạo xã hội, giáo hóa xã
hội dần dần. Bản tính ông thích ôn hòa, thích giáo huấn dần dần hơn là bạo
lực, mà bạo lực chưa chắc gì đã giải quyết triệt để cái tệ “tôi giết vua, con giết
cha” nói trên mà bất quá chỉ thay thế cuộc thí quân này bằng cuộc thí quân
khác hoặc vụ giết cha này bằng vụ giết cha khác. Bạo lực bất quá chỉ giải
HVTH: TÀO THỊ HOÀNG OANH

Trang 5


Tìm hiểu thuyết chính danh trong Nho giáo

quyết việc trước mắt, tức thời, chỉ trị được ngọn chứ làm sao trị được gốc của
tình hình trên, chỉ có cuộc cách mạng tư tưởng mới trị được gốc của cái tệ tôi
giết vua, con giết cha nói trên.
Khổng tử cho rằng mỗi vật và mỗi người trong xã hội đều có một công
dụng nhất định. Nằm trong mối quan hệ nhất định mỗi vật, mỗi người đều có
một địa vị bổn phận nhất định và tương ứng với nó là một danh nhất định. Mỗi

“danh” điều có tiêu chuẩn riêng. Vật nào, người nào mang “danh” nào phải
được thực hiện và phải thực hiện bằng được những tiêu chuẩn của danh đó,
nếu không phải thì gọi bằng “danh” khác. Đó chính là học thuyết “Chính
danh” của Khổng Tử - một học thuyết được xem là quan trọng trong toàn bộ
tư tưởng của ông. Khổng tử đã giải thích: “Chính danh là làm mọi việc cho ngay
thẳng” (“Luận ngữ”, Nhan Uyên, 1). “Chính danh” thì người nào có địa vị, bổn
phận chính đáng của người ấy, trên dưới, vua tôi, cha con trật tự phân minh
“Vua lấy lễ mà khiến tôi, tôi lấy trung mà thờ vua” (“Luận ngữ”, Bát Dật, 19).
“Vua cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha cho ra cha, con cho ra con” (“Luận ngữ”,
Nhan Uyên, 11). Đó là một nước thịnh trị, lễ nghĩa, nhân, đức, danh phận vẹn
toàn. Khi Tử Lộ hỏi về việc chính trị, Khổng Tử nói, muốn trị nước, trước tiên
“ắt phải sửa cho chính danh”, vì “nếu không chính danh thì lời nói sẽ không
đúng đắn sẽ dẫn tới việc thi hành sai… Cho nên nhà cầm quyền xưng danh thì
phải đúng với phận với nghĩa; đã xưng đúng danh phận, thì phải tùy theo đó
mà làm” (“Luận ngữ”, Tử Lộ, 3). Theo học thuyết “Chính danh”, Khổng Tử
đã chia xã hội thành những mối quan hệ cơ bản, trong đó mỗi quan hệ là một
“luân”. Trong xã hội, theo Khổng Tử có 5 mối quan hệ chính là: vua tôi, cha
con, vợ chồng, anh em, bạn bè. Đặc biệt trong luân lý, đạo đức, Khổng Tử
luôn nhấn mạnh đến quan hệ vua tôi và cha con.
Đối với quan hệ vua tôi, Khổng Tử chống việc duy trì ngôi vua theo
huyết thống và chủ trương “thượng hiền” không phân biệt đẳng cấp xuất thân
của người ấy. Trong việc chính trị, vua phải biết “trọng dụng người hiền đức,
tài cán và rộng lượng với những kẻ cộng sự…” (“Luận ngữ”, Tử Lộ, 2), “vua
phải tự mình làm thiện, làm phải trước thiên hạ để nêu gương và phải chịu khó
HVTH: TÀO THỊ HOÀNG OANH

Trang 6


Tìm hiểu thuyết chính danh trong Nho giáo


lo liệu giúp đỡ dân” (“Luận ngữ”, Tử Lộ, 1). Ông còn nói, nhà cầm quyền cần
phải thực hiện ba điều: “Bảo đảm đủ lương thực cho dân được no ấm, phải
xây dựng được lực lượng binh lực hùng mạnh để đủ bảo vệ dân, phải tạo lòng
tin cậy của dân đối với mình. Nếu bất đắc dĩ phải bỏ bớt những điều kiện trên
thì trước hết hãy bỏ binh lực, sau đó đến bỏ lương thực, nhưng không thể bỏ
lòng tin của dân đối với vua, nếu không, chính quyền xã tắc sẽ sụp đổ” (“Luận
ngữ”, Nhan Uyên, 7).
Nếu “việc chính trị, vua cai trị nước nhà mà biết đem cái đức mình bỏ
hóa ra, thì mọi người đều phục theo. Tuy như ngôi sao Bắc Đẩu ở một chỗ mà
có mọi vì sao chầu theo” (“Luận ngữ”, Vi Chính, 1). Ngược lại dân và bề tôi
đối với vua phải như đối với cha mẹ mình, phải tỏ lòng “trung” của mình đối
với vua. Ấy là “Chính danh”, là “phục lễ vi nhân”.
Về đạo cha con, Khổng Tử cho rằng con đối với cha phải lấy chữ “hiếu”
làm đầu và cha đối với con phải lấy lòng “từ ái” làm trọng. Trong đạo hiếu
của con với cha mẹ, dù rất nhiều mặt, nhưng cốt lõi phải ở “tâm thành kính”.
“Đời nay hễ thấy ai nuôi được cha mẹ thì người ta khen là có hiếu. Nhưng loài
thú vật như chó ngựa người ta cũng nuôi được vậy. Cho nên, nuôi cha mẹ mà
chẳng kính trọng thì có khác gì nuôi thú vật đâu” (“Luận ngữ”, Vi Chính, 7).
Trong việc trị nước như tu thân, học đạo sửa mình để đạt được đức
“nhân”, “lễ” được Khổng Tử rất mực chú trọng. Lễ ở đây là những quy phạm,
nguyên tắc đạo đức của nhà Chu. Ông cho rằng, do vua không giữ đúng đạo
vua, cha không giữ đúng đạo cha, con không giữ đúng đạo con…nên thiên hạ
“vô đạo”. Phải dùng lễ để khôi phục lại trật tự, phép tắc, luân lý xã hội, khiến
cho mọi người trở về với “đạo”, với “nhân” và trở thành “Chính danh”. Lễ ở
Khổng Tử là những phong tục, tập quán, những quy tắc quy định trật tự xã hội
và cả thể chế pháp luật nhà nước, như: sinh, tử, tang, hôn, tế, lễ, triều sinh,
luật lệ, hình pháp… Theo Khổng Tử, lễ quan hệ với nhân rất mật thiết. Nhân
là chất, là nội dung, lễ là hình thức biểu hiện của nhân. “Nhân là cái nền tơ lụa
trắng tốt mà trên đó người ta vẽ nên những bức tranh đẹp” (“Luận ngữ”, Bát

Dật, 8). Ông khuyên người “ta chớ xem điều trái lễ chớ nghe điều trái lễ, chớ
HVTH: TÀO THỊ HOÀNG OANH

Trang 7


Tìm hiểu thuyết chính danh trong Nho giáo

nói điều trái lễ và chớ làm điều trái lễ” (“Luận ngữ”, Nhan Uyên, 1), thì khi đó
sẽ đạt được “nhân”, xã hội ổn định, vua tôi, cha con, anh em, chồng vợ… đều
“Chính danh định phận”.
Như vậy, trong triết học của Khổng Tử các phạm trù, “nhân”, “lễ”, “trị”,
“dũng”, “chính danh định phận… có nội dung hết sức phong phú, thống nhất
với nhau và luôn thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nó luôn cố
gắng giải đáp những vấn đề đặt ra của lịch sử và đây có lẽ là thành quả kết
tinh rực rỡ nhất trong triết lý nhân sinh của ông. Song, do hạn chế bởi điều
kiện lịch sử và lợi ích giai cấp, học thuyết triết học của Khổng Tử luôn chứa
đựng những mâu thuẫn, giằng co, đan xen giữa những tư tưởng tiến bộ với
những quan điểm bảo thủ, phản ánh tâm trạng giằng xé của ông trước biến
chuyển của thời cuộc.
Hầu hết các nhà Nho, các nhà nghiên cứu về Nho giáo và Khổng tử đều
thừa nhận rằng học thuyết “Chính danh” là một phát kiến mới của Khổng tử.
Do chính ông quan sát thấy được tình trạng lộn xộn, mất tôn ti trật tự, trên cho
ra trên, dưới cho ra dưới, vua cho ra vua, tôi cho ra tôi,… nên ông mới đề ra
học thuyết “Chính danh”. Thực chất, học thuyết “Chính danh” không những
chỉ có giá trị ở thời ông. Nói theo cách nói của học giả Nguyễn Hiến Lê khi
viết lời mở đầu cho cuốn Khổng Tử đã phát biểu rằng “Triết thuyết nào cũng
chỉ để cứu cái tệ của một thời thôi. Muốn đánh giá một triết thuyết thì phải
đặt nó vào thời của nó, xem nó có giải quyết được những vấn đề của thời đó
không, có là một tiến bộ so với các thời trước, một nguồn cảm hứng cho các

đời sau không. Và nếu sau mười thế hệ, người ta thấy nó vẫn còn làm cho đức
trí con người được nâng cao thì phải coi nó là một cống hiến lớn cho nhân
loại rồi.”
3. Những giá trị tích cực và hạn chế của học thuyết “chính danh” của
Nho giáo
3.1. Những giá trị tích cực
Nho giáo là một học thuyết đức trị, lễ trị, nhân trị, văn trị, khẩu hiệu của nó
là thu phục lòng người. Học thuyết chính danh đề ra là bài thuốc để chữa trị xã
hội loạn, nhằm mục đích thu phục lòng người. Do vậy, dù đứng ở một góc độ
HVTH: TÀO THỊ HOÀNG OANH

Trang 8


Tìm hiểu thuyết chính danh trong Nho giáo

nào đi chăng nữa thì đây cũng chính là một học thuyết chính trị, xã hội, nó đưa
xã hội vào kỷ cương có lợi cho giai cấp thống trị.
Khổng Tử đưa ra học thuyết chính danh, đòi hỏi nhà cầm quyền phải có tài
đức xứng với địa vị của họ, lời nói và việc làm phải đi đôi với nhau, trọng việc
làm hơn lời nói. Dùng đạo đức của người cầm quyền để cai trị, cai trị bằng giáo
dục, giáo dưỡng, giáo hóa chứ không phải là cai trị bằng gươm giáo, bằng bạo
lực. Đây là giá trị phổ biến tích cực cho đến ngày nay. Bởi vì dù chính trị có
hiện đại cỡ nào đi chăng nữa thì giáo dục, giáo dưỡng, giáo hóa rất quan trọng,
kết hợp giáo dục với pháp luật chúng ta sẽ rèn dũa con người vào kỷ cương hơn.
Lời lẽ học thuyết rất dân dã, ít tối tân, ít tư biện, ít mang tính bác học vì vậy
nó dễ hiểu, dễ nhớ nên người ta dễ vận dụng, nó là món ăn tinh thần của nhiều
người. Chính danh là học thuyết mà ngoài những hạn chế thì có những yếu tố
hợp lý, rất có ý nghĩa đối với xã hội hiện đại. Nếu chúng ta thực hiện nó thì sẽ
đưa xã hội vào trật tự kỷ cương.

Học thuyết “chính danh” cũng đặt ra vấn đề coi trọng người hiện tài, sử
dụng người hiền tài đúng với trình độ của họ. Như vậy sẽ phát huy được hết tài
năng của người hiền tài, phục vụ cho dân cho nước.
Đây cũng là một học thuyết coi trọng sự học tập, có học mới được làm
quan, coi sự học để là tiêu chí vào chính trị. Sự học ở đây là có giáo dục, được
giáo dục, giáo dục hóa để rèn dũa những phẩm chất đạo đức, rèn khí tiết, tu khí
tiết, tu tâm.
Học thuyết chính danh còn có giá trị là khi thực hiện nó làm cho con người
có trách nhiệm với bản thân hơn, có trách nhiệm của công việc mình hơn, từ đó
phấn đấu để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
3.2. Những hạn chế
Học thuyết của Khổng Tử quá tuyệt đối hóa đạo đức, cho đạo đức là tất cả,
từ đấy đánh giá con người quy về đạo đức hết. Ông khẳng định, vua chỉ cần có
đạo đức là đủ hay khi đánh giá hiền tài, ông đưa tiêu chuẩn đạo đức làm mục
tiêu, nhân đức là chỗ dựa còn cái tài là chỉ để chơi.
Học thuyết chính danh của Khổng Tử còn có hạn chế đó là hoài cổ, bao
hàm ý bảo thủ, phải trọng danh cũ, phải hành động hợp với tiêu chuẩn cũ. Trong
HVTH: TÀO THỊ HOÀNG OANH

Trang 9


Tìm hiểu thuyết chính danh trong Nho giáo

học thuyết chính danh của Khổng Tử vẫn trọng danh hơn thực, trọng xưa hơn
nay, từ đó ông đã gạc bỏ nhiều giá trị đạo đức mang tính nhân đạo.
Học thuyết chính danh mà Khổng Tử đưa ra “Bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ
chính”, “thứ nhân bất nghị” là không cho dân có quyền bàn việc nước. Chỉ một
ý đó thôi cũng cho ta thấy ở đây không có dân chủ mặc dù ông rất yêu dân, lo
cho dân. Không cho dân bàn việc nước vì dân không được học, không đủ tư

cách bàn việc nước, cho họ làm việc nước thì sẽ loạn.
Hơn nữa, học thuyết chính danh còn thể hiện rõ sự bất bình đẳng, thang bậc
trong xã hội, coi thường phụ nữ, coi thường lao động chân tay và vì ông không
dam đã động đến “tông pháp” của Chu Công nên học thuyết chính danh của ông
có vẻ lưng chừng, không triệt để và là chỉ là lí thuyết suông vì đương thời danh
và thực mâu thuẫn nhau sâu sắc. Cái thực của đời sống xã hội, trật tự xã hội đã
có nhiều biến đổi làm cho cái danh phận cũ được quy định theo lễ chế của nhà
Chu không còn phù hợp nữa. Do đó không thể làm được.
4. Ý nghĩa của học thuyết “Chính danh” đối với công tác tuyển chọn
cán bộ ở nước ta hiện nay
Học thuyết “Chính danh” do đức Khổng tử phát kiến cách đây hơn 2.500
năm từ thời Trung Quốc còn đang ở chế độ phong kiến phân quyền với lòng
mong muốn của ông phục hồi lại chế độ, lễ lạt tốt đẹp của thời nhà Chu ban
đầu khi ông nhận thấy tình trạng xã hội khá lộn xộn, mất tôn ti trật tự. Ông
vốn là người khoan hòa, tuy có tư tưởng cách mạng như không thích chiến
tranh, do đó ông mới đề ra học thuyết chính danh để cải tạo xã hội một cách
dần dần.
Nghiên cứu về đức Khổng Tử, ai cũng phải công nhận rằng học thuyết
“Chính danh” là một phát kiến của ông và đó là đóng góp quan trọng của ông
cho Trung Quốc nói riêng và nhân loại nói chung.
Dân tộc Việt Nam, tuy có biết đến học thuyết “Chính danh” của Khổng
tử nhưng lại vận dung nó rất uyển chuyển để cứu dân, cứu nước, chống xâm
lăng điển hình qua một số vị anh hùng trung lịch sử dân tộc như Sư Vạn Hạnh,
Lê Lợi, Nguyễn Huệ….

HVTH: TÀO THỊ HOÀNG OANH

Trang 10



Tìm hiểu thuyết chính danh trong Nho giáo

Đảng Cộng Sản Việt Nam nêu cao chính nghĩa để chiến đấu vì độc lập tự
do, giải phóng dân tộc, chống quân xâm lược, Pháp, Nhật, rồi Mỹ được cả dân
tộc và nhân dân tiến bộ hòa bình thế giới ủng hộ vì cuộc chiến đấu của dân tộc
Việt Nam là cuộc chiến đấu chính nghĩa, nên cuối cùng, dù kẻ thù có mạnh cỡ
nào, chúng có nham hiểm đến đâu đi chăng nữa thì chúng ta cũng giành được
thắng lợi chung cuộc, buộc kẻ thù phải chấp nhận sự thất bại trước ý chí và
“chính nghĩa” của dân tộc ta.
Bên cạnh những hạn chế do điều kiện lịch sử và quyền lợi giai cấp trong
học thuyết “Chính danh” của Khổng Tử có thể thấy được những giá trị rất to
lớn mà công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội hiện nay ở nước cần phải khai
thác. Học thuyết của ông làm phong phú thêm lý luận trong quá trình đổi mới
đồng thời còn có ý nghĩa về mặt thực tiễn trong xây dựng bộ máy nhà nước,
đặc biệt là trong tuyển chọn đội ngũ cán bộ công chức. Cụ thể, trong giai đoạn
hiện nay cần tuyển chọn đào tạo và sử dụng một đội ngũ cán bộ công chức
vừa hồng, vừa chuyên với một “Chính” (hiệu) “danh” (chính xác) đáp ứng
đúng yêu cầu của một xã hội mới xã hội Xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta biết rằng, tuyển chọn, xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là
cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp, vững vàng về chính trị, gương mẫu về
đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động
thực tiễn, sáng tạo, gắn bó với nhân dân, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là chủ trương và chính sách lớn trong nội dung công
tác cán bộ của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Đại hội toàn quốc lần thứ X của
Đảng đã nhấn mạnh: “Mục tiêu chung là xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh
chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu, tham
nhũng, lãng phí...”, “Nhiệm vụ quan trọng nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, trước hết là cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược và người đứng đầu tổ
chức các cấp, các ngành của hệ thống chính trị...”, "Đổi mới mạnh mẽ, triển
khai đồng bộ các khâu: đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển,

bố trí, sử dụng, xây dựng và thực hiện chính sách cán bộ...", "Xây dựng và
thực

hiện

chính

sách

HVTH: TÀO THỊ HOÀNG OANH

phát

triển



Trang 11

trọng

dụng

nhân

tài…(1)


Tìm hiểu thuyết chính danh trong Nho giáo


Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr 292 - 296
Đảng ta rất chú trọng công tác tuyển chọn và xây dựng đội ngũ cán bộ đủ
“đức và tài” phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Người cán bộ có “Chính danh” và mẫu mực thì nhân dân mới tin yêu,
nể phục. Đảng ta thực hiện đúng đắn nguyên tắc thống nhất lãnh đạo công tác
cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ
chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán
bộ. Làm tốt công tác quy hoạch và đào tạo nguồn cán bộ. Đánh giá, bồi
dưỡng, lựa chọn, sử dụng cán bộ trên cơ sở tiêu chuẩn, lấy hiệu quả công tác
thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu. Đổi mới, trẻ hóa
đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý, kết hợp các độ tuổi, bảo đảm tính liên tục,
kế thừa và phát triển. Thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ lãnh đạo và
quản lý. Xây dựng, chỉnh đốn hệ thống các học viện, trường và trung tâm
chính trị, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Mặt khác, trong tuyển chọn và xây dựng đội ngũ cán bộ cần coi trọng
việc đổi mới cơ chế, chính sách, phương phức và lề lối làm việc. Mỗi cán bộ
trong tổ chức phải có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm rõ ràng,
hay nói khác hơn là phải thể hiện “cái danh” của mình.
Trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa hiện nay, cán bộ được
tuyển chọn phải là người có phẩm chất đạo đức trong sáng, có năng lực, nhiệt
tình trong công tác và bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với
sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta; coi trọng sự nỗ lực cá nhân,
xây dựng mối quan hệ tốt đẹp, bền vững giữa cán bộ với nhân dân, phát huy
quyền làm chủ và chăm lo sự nghiệp của đông đảo quần chúng nhân dân lao
động. Tiêu chuẩn chung của cán bộ trong thời kỳ mới của sự nghiệp cách
mạng, trước hết là, phải có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân
dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực
hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Liên hệ thực tế:

HVTH: TÀO THỊ HOÀNG OANH

Trang 12


Tìm hiểu thuyết chính danh trong Nho giáo

Khổng tử cho rằng, việc chính trị hay hay dở là do ở người cầm quyền.
Người cầm quyền nào biết theo đường ngay chính để sửa đạo nhân thì việc gì
cũng thành ra ngay chính hết thảy. Ngài bảo Quý Khang tử rằng “Chính giả
chính dã, tử suất dĩ chính, thục cảm bất chính.” Nghĩa là: làm chính trị là làm
cho mọi việc ngay thẳng, ông lấy ngay thẳng mà khiến người, thì ai dám không
ngay thẳng? Cho nên, hễ người trên ngay thẳng thì người dưới bắt chước mà làm
theo. Vua mà ngay chính thì không sai khiến người ta cũng làm theo điều phải,
còn vua mà không ngay chính thì có sai khiến người ta cũng không ai theo cả
(kỳ thân chính, bất lệnh nhi hành, kỳ thân bất chính, tuy lệnh bất tòng. Luận
Ngữ, thiên Tử Lộ).
Theo chúng tôi nghĩ, người cầm quyền thời nào cũng phải nêu cao cái đức
của mình. Theo Khổng tử, người cầm quyền trước hết phải sửa mình cho đoan
chính cái đã. Đó là ý tứ trong câu bốn chữ của Khổng tử “chính giả, chính dã”.
Người cầm quyền theo Khổng tử phải là người quân tử, vì người quân tử ắt phải
rèn đức tức là tu thân, rồi sau đó mới có quyền bắt người trong nhà khuôn theo
phép tắc mà ông ta đưa ra tức là tề gia. Có tề gia giỏi thì mới có thể trị quốc tốt,
ngày nay có thể gọi là lãnh đạo quốc gia, quản lý xã hội. Có trị quốc tốt thì thiên
hạ mới theo về mình thì coi như đã bình được thiên hạ rồi. Theo ý kiến cá nhân
tôi, thuật “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” được hiểu là như vậy.
Ta thử ví dụ, nếu lãnh đạo của chúng ta tham nhũng, mất đức thì nói ai nghe?
Con cái trong nhà họ chưa chắc là nghe họ nữa là. Như thế thì họ có tư cách gì
để lãnh đạo quốc gia, lãnh đạo xã hội nữa? Lại càng không có tư cách đứng trên
trường quốc tế để phát biểu. Trường hợp như vậy họ đã mất chính danh, làm mất

luôn chức vụ cũng giống như các vua chúa thời xưa một khi đã mất chính danh
thì mất luôn thân phận làm vua.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu nội dung học thuyết chính danh của Nho giáo, nếu chúng
ta gạt bỏ đi những yếu tố bất hợp lí như bất bình đẳng, thang bậc xã hội, gạn lọc
những nhân tố hợp lý của học thuyết thì nó rất ý nghĩa đối với xã hội hiện đại.
Vận dụng nó để xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa có tâm trong sáng, có
HVTH: TÀO THỊ HOÀNG OANH

Trang 13


Tìm hiểu thuyết chính danh trong Nho giáo

trí tuệ, thể lực tốt, có lập trường, quan điểm vững vàng, có trách nhiệm với
mình, với mọi người, có lòng yêu thương đồng loại, luôn phấn khởi và tin tưởng
đem hết nhiệt huyết, trí tuệ và năng lực của mình, đóng góp một cách tích cực
vào cuộc đấu tranh chung của cả nước và thế giới.
Để phát triển đất nước giàu mạnh thì chúng ta phải phát huy nhân tố con
người, khuyến khích người dân học tập, nâng cao trình độ, phải học tập khí tiết
học, tinh thần học, thái độ học của nho giáo để không những tu dưỡng rèn luyện
thành con người có đức mà còn phải học khoa học kỹ thuật để áp dụng và phát
triển đất nước. Phải tôn trọng và sử dụng người hiền tài, tạo điều kiện cho họ
làm việc phù hợp với sở trường của họ để tạo ra được giá trị cao trong lao động.

HVTH: TÀO THỊ HOÀNG OANH

Trang 14




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×