Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

CÁC NHÂN tố ẢNH HƯỞNG đến CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG tín DỤNG của NGÂN HÀNG THƯƠNG mại năm 2009 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.24 KB, 18 trang )

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO

TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
----------

BÀI TIỂU LUẬN NHÓM MÔN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGÂN HÀNG
ĐỀ TÀI: CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG
TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NĂM 2009-2013

LỚP:
GVHD: ThS. NGUYỄN THỊ MINH CHÂU

MỤC LỤC..........................................................................................................................1
I.

MỤC TIÊU VÀ CHIẾN LƯỢC KINH DOANH......................................................2
1.

Mục tiêu.................................................................................................................2
1


2.
II.

Chiến lược kinh doanh.........................................................................................2
VỐN TỰ CÓ VÀ ĐIỀU KIỆN NỘI LỰC CỦA NGÂN HÀNG...........................5


1.

Vốn tự có của ngân hàng......................................................................................5

2.

Điều kiện nội lực của ngân hàng.........................................................................6

III.

MÔI TRƯỜNG KINH TẾ VÀ XÃ HỘI TRONG NƯỚC....................................7

IV.

XU THẾ HỘI NHẬP QUỐC TẾ TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG.............11

1.

Hội nhập quốc tế về NHTM có những tác động tích cực như sau:.................12

2.
Sức ép của hội nhập quốc tế về ngân hàng đối với các NHTM là không nhỏ,
đó là:............................................................................................................................. 13
3.

Một số thành tựu nổi bật của hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng.....14

TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................................17

2



I.

MỤC TIÊU VÀ CHIẾN LƯỢC KINH DOANH
1. Mục tiêu
Ngân hàng thương mại hoạt động vì hai mục tiêu chính: cung cấp dịch vụ tài chính

cho khách hàng cá nhân và doang nghiệp; thu phí và tính lãi từ các sản phẩm và dịch vụ đã
cung cấp cho khách hàng với mục đích tạo ra lợi nhuận cho cổ đông. Ngân hàng thương
mại cung cấp rất nhiều dịch vụ đa dạng với nỗ lực đáp ứng tất cả nhu cầu tài chính của
từng khách hàng. Điều này sẽ tạo ra cơ hội tối đa hóa doanh thu từ mỗi khách hàng.
Các ngân hàng khác nhau sẽ có những mục tiêu khác nhau và trong một số ngân hàng, ở
những giai đoạn phát triển khác nhau các mục tiêu cũng sẽ được nhấn mạnh với các mức
độ khác nhau.
Cho thấy các ngân hàng đang nghiên về đảm bảo hoạt động vượt qua nền khủng
hoảng kinh tế vào năm 2009 hơn là mục tiêu lợi nhuận và đợi chờ sự khỏi sắc của nền
kinh tế trong các năm về sau.
2. Chiến lược kinh doanh.

 Điều chỉnh lãi suất Ngân hàng.
Từ năm 2009 đến nay, mặt bằng lãi suất đã có nhiều biến động theo những thăng
trầm của nền kinh tế. Về cơ bản, lãi suất tăng mạnh trong giai đoạn 2009-2011 do lạm phát
tăng cao khiến NHNN phải áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ. Điều này đã dẫn tới hiện
tượng khan hiếm tiền đồng trên toàn hệ thống, thúc đẩy các ngân hàng bước vào cuộc chạy
đua lãi suất mặc dù NHNN đã đưa ra nhiều chính sách để hạn chế tình trạng tăng lãi suất.
Năm 2011, NHNN đã 2 lần tăng lãi suất chiết khấu (từ 7% năm 2010 lên 13%), 4
lần tăng lãi suất tái cấp vốn (từ 9% lên 15%), 5 lần tăng lãi suất OMO (từ 8% lên 15%).
Lãi suất cơ bản đã được giữ nguyên 9% kể từ năm 2010.
Lãi suất bắt đầu leo thang kể từ đầu tháng 5/2011, có thời điểm huy động VND lên

đến 20%/năm, lãi suất cho vay nông nghiệp nông thôn lên 16,5-20%/năm, cho vay phi sản
xuất từ 25-28%/năm.

2


Quy định trần lãi suất 14%/năm khiến các NHTM gặp khó về thanh khoản và phải
đi vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao. Cá biệt, có những giao dịch lãi suất
lên tới mức 30-40%/năm kỳ hạn 1 tháng.
Khi NHNN chủ trương hạ lãi suất vào những tháng cuối năm 2011, lãi suất liên
ngân hàng đã hạ nhiệt nhờ NHNN bơm một lượng vốn đáng kể trên thị trường OMO.

 Trọng tâm hỗ trợ lãi suất
Ngân hàng đón chính sách hỗ trợ lãi suất hồ hởi, nhưng triển khai thận trọng. Đây
là chính sách chưa có trong tiền lệ, tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng tiếp cận
khách hàng và tăng trưởng tín dụng tốt hơn (lãi suất thấp, khả năng trả nợ của doanh
nghiệp tốt hơn). Ngược lại, vì chưa có tiền lệ, có nhiều thủ tục và vướng mắc trên thực tế
nên có sự thận trọng trong triển khai.
Tính đến ngày 17/12/2009, dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất đã đạt 415.216,48 tỷ đồng.
Trong đó, dư nợ của nhóm ngân hàng thương mại nhà nước và quỹ tín dụng nhân dân
Trung ương đạt 276.668,75 tỷ đồng; nhóm ngân hàng thương mại cổ phần đạt 108.762,04
tỷ đồng; nhóm ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng 100%
vốn nước ngoài đạt 21.222,83 tỷ đồng; công ty tài chính đạt 8.562,86 tỷ đồng.

 Tăng trưởng tín dụng vượt định hướng
3


Từ cuối năm 2008, chính sách tiền tệ bắt đầu có sự chuyển hướng, từ thắt chặt sang
dần nới lỏng. Cùng với chủ trương kích cầu và ngăn chặn suy giảm kinh tế, sự chuyển

hướng trên là một yếu tố tạo điều kiện để tín dụng tăng trưởng mạnh trở lại trong năm
2009.
Tuy nhiên, so với các mốc định hướng mà Ngân hàng Nhà nước dự kiến ở các thời
điểm trong năm, tăng trưởng tín dụng thực tế đã vượt xa. Cụ thể, đầu năm, tăng trưởng tín
dụng dự kiến từ 21% - 23%; giữa năm là định hướng không quá 30%; còn theo dự tính cả
năm con số này thực tế có thể lên tới trên 36%, tăng mạnh so với năm 2008 (21%) và ở
mức cao trong khoảng thời gian 10 năm trở lại đây.
Tăng trưởng tín dụng cao năm 2009 cũng là một cơ sở để Ngân hàng Nhà nước
xem xét bắt đầu có hướng thắt chặt dần chính sách tiền tệ, cụ thể ở tín hiệu nâng lãi suất
cơ bản, phòng ngừa lạm phát cao có thể trở lại trong năm 2010.

 Huy động vốn góp từ các ngân hàng ngoại
Tập trung cấp giấy phép từ cuối năm 2008, bước sang năm 2009, hệ thống ngân
hàng Việt Nam bắt đầu đón nhận những ngân hàng 100% vốn ngoại đầu tiên. Những thành
viên mới này được hoạt động đẩy đủ hơn, cạnh tranh toàn diện hơn thay vì phụ thuộc vào
các điều kiện kinh doanh hạn chế trước đó.
Trong năm 2009, 5 ngân hàng đầu tiên của khối này đã nhận giấy phép, thành lập
và mở rộng hoạt động, gồm HSBC, Standard Chartered, ANZ, Shinhan và Hong Leong;
trong đó, HSBC và ANZ đã nhanh chóng khai trương nhiều điểm giao dịch mới. Lợi thế
của khối này và áp lực cạnh tranh đã được đề cập nhiều từ năm 2007 và nay đang dần hiện
hữu.
Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, khối các tổ chức tín dụng nước ngoài tại
Việt Nam hiện có 45 chi nhánh của 33 ngân hàng nước ngoài, 5 ngân hàng liên doanh với
hơn 20 chi nhánh phụ thuộc, 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 8 tổ chức tín dụng phi
ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài; ngoài ra còn có 56 văn phòng đại diện của các tổ
chức tín dụng khác.

4



Theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước, nhóm thành viên này hiện đang hoạt động
hiệu quả. Dự tính, năm 2009, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng 100%
vốn nước ngoài đạt mức thu nhập trước thuế đạt 2.612 tỷ đồng, nguồn vốn huy động và dư
nợ tín dụng tăng 17,8% và 10,8%, tổng tài sản có tăng 14% so với cuối năm 2008; các
ngân hàng liên doanh đạt thu nhập trước thuế 477 tỷ đồng, huy động vốn tăng 18,2%, dư
nợ tín dụng tăng 34,3%, tổng tài sản có tăng 18,3% so với cuối năm 2008.

 Tăng trưởng tín dụng ngoại tệ
Năm 2010, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống đạt 29,81%; trong đó tín dụng VND
tăng 25,3%; tín dụng ngoại tệ tăng 49,3%. Nếu trừ hư số do tỷ giá và giá vàng tăng thì
tổng dư nợ tăng 27,6%; trong đó tín dụng VND tăng 25,3%, tín dụng ngoại tệ tăng 37,7%.
Hạ dự trữ bắt buộc, mở rộng đối tượng được vay và đặc biệt là chênh lệch lớn về lãi
suất là những yếu tố chính tạo nên một năm hiện tượng với sự bùng nổ của tín dụng bằng
ngoại tệ. Đây được cho là một áp lực nổi bật đối với những biến động của thị trường ngoại
hối.
Năm 2010 cũng ghi nhận sự khác biệt khi tốc độ tăng trưởng huy động luôn cao
hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng trong phần lớn thời gian của năm. Tuy nhiên, trong hai
tháng cuối năm, huy động vốn tăng chậm và tín dụng tăng cao hơn. Tính chung, huy động
vốn cả năm tăng 27,2%; nếu trừ hư số do tỷ giá và giá vàng tăng thì huy động vốn tăng
24,5%.

 Siết kinh doanh vàng
Năm 2010 ghi nhận sự can thiệp mạnh của nhà quản lý đối với hoạt động kinh
doanh vàng của các tổ chức tín dụng. Ngân hàng Nhà nước chính thức chỉ đạo đóng cửa
các sàn giao dịch vàng, tất toán trạng thái kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài.
Thị trường vàng trong năm 2010 cũng chứng kiến nhiều biến động, trong đó có
những thời điểm giá trong nước vượt trội so với giá thế giới. Biện pháp mà nhà điều hành
thường đưa ra là cho phép nhập khẩu để bình ổn, trong khi vẫn còn những tranh cãi quanh
con số khoảng 1.000 tấn vàng nằm trong dân.
5



II.

VỐN TỰ CÓ VÀ ĐIỀU KIỆN NỘI LỰC CỦA NGÂN HÀNG
1. Vốn tự có của ngân hàng
Quy mô vốn tự có là một trong những tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá mức độ

an toàn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng theo thông lệ quốc tế. Tại Việt Nam,
sự tăng trưởng vốn của ngân hàng luôn được sự quan tâm đặc biệt của các nhà quản trị
ngân hàng trong các mục tiêu, chiến lược, kế hoạch thực hiện. Vì thế, phải tăng vốn tự có
để đảm an toàn cho hệ thống tài chính.
Vốn tự có hay vốn chủ sỡ hữu ảnh hưởng trực tiếp tới việc mở rộng quy mô mạng
lưới cũng như quy mô hoạt động của ngân hàng. Ở giai đoạn 2009-2013, vốn chủ sở hữu
của các NHTM tăng qua từng năm với tỷ lệ trung bình đạt 23,92%, trong đó Vietinbank có
mức tăng trưởng bình quân cao nhất là 42,43% và ACB có mức tăng trưởng thấp nhất là
5.5%. Việc vốn chủ sở hữu tăng làm tăng độ an toàn của chất lượng tín dụng và sự tin cậy
của khách hàng về khả năng thanh khoản của ngân hàng.
Việc đảm bảo an toàn và phát triển vốn là nguyên tắc cơ bản và xuyên suốt trong
hoạt động kinh doanh của NHTM. Để đảm bảo an toàn cho phần tài sản có chứa đựng rủi
ro, ngân hàng cần duy trì một mức vốn tự có cần thiết được đo bằng tỷ lệ vốn an toàn tối
thiểu. Theo quy định của hiệp ước BASEL và theo quy định tại thông tư 13/2010/TTNHNN, hệ số an toàn vốn CAR (Capital Adequacy Ratio) của các NHTM Việt Nam tối
thiểu là 8%. Đến cuối năm 2013, các NHTM Việt Nam có hệ số CAR đều trên 9%.
2. Điều kiện nội lực của ngân hàng
Bên cạnh vốn tự có, các yếu tố nội lực khác như trình độ của đội ngũ nhân viên,
năng lực của nhà quản trị, cơ sở vật chất… cũng có ảnh hưởng rất lớn đến quy mô cũng
như hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng. Đội ngũ nhân viên tín dụng am hiểu nhiều
ngành nghề có thể cho phép ngân hàng đầu tư đa dạng các ngành kinh tế, cũng như chi
nhánh ngân hàng phủ khắp địa phương, với khả năng kiểm soát rộng cũng có thể thúc đẩy
sự đa dạng hóa về khu vực địa lý trên danh mục tín dụng.

Ngoài ra, quy mô, cơ cấu và chất lượng tài sản có sẽ quyết định đến sự tồn tại và
phát triển của NHTM. Việc đánh giá quy mô, chất lượng tài sản được thể hiện qua các chỉ
tiêu: tăng trưởng tổng tài sản, tỷ lệ cho vay..
 Tăng trưởng tổng tài sản: Tăng trưởng tổng tài sản của các NHTM Việt Nam bình
quân trong thời kỳ 2009-2013 là 16,7%. Trong đó, Vietinbank có mức tăng trưởng

6


tài sản cao nhất là 24,4%, ngân hàng ACB là ngân hàng có mức tăng tài sản bình
quân thấp nhất chiếm 9.7%.
Biểu đồ 2.2 Tăng trưởng tổng tài sản của các NHTM Việt Nam

(Nguồn Báo cáo tài chính các NHTM Việt Nam)
 Tỷ lệ cho vay: Tỷ lệ cho vay phản ánh việc sử dụng tài sản để cho vay của các ngân
hàng. Thực tế về cơ cấu tài sản, các khoản cho vay chiếm phần nhiều trong tổng tài
sản của ngân hàng. Ở giai đoạn năm 2009-2013, tỷ lệ cho vay cho vay của các ngân
hàng đều ở mức tăng trưởng nhẹ, tương đối ổn định qua các năm.
III.

MÔI TRƯỜNG KINH TẾ VÀ XÃ HỘI TRONG NƯỚC
Bước vào năm 2009, nền kinh tế nước ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức.

Khủng hoảng tài chính của một số nền kinh tế lớn trong năm 2008 đã đẩy kinh tế thế giới
vào tình trạng suy thoái, làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất khẩu, thị trường vốn, thị
trường lao động và tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh vực kinh tế-xã hội khác của nước ta. Ở
trong nước, thiên tai dịch bệnh xảy ra liên tiếp trên địa bàn cả nước cũng đã gây ảnh
hưởng lớn đến sản xuất và đời sống dân cư.
Trong bối cảnh không thuận lợi đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số
30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm,

duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội; Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 09/01/2009
về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội
và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2009. Ngày 6/4/2009, Bộ Chính trị đã ra Kết luận về
tình hình kinh tế-xã hội quý I/2009 và các giải pháp chủ yếu đến cuối năm 2009. Ngày
7


19/6/2009, kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khoá XII đã ra Nghị quyết số 32/2009/QH12 điều chỉnh
mục tiêu tổng quát của Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2009 là “Tập trung cao độ
mọi nỗ lực ngăn chặn suy giảm kinh tế, phấn đấu duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý,
bền vững, giữ ổn định kinh tế vĩ mô; chủ động phòng ngừa lạm phát cao trở lại, bảo đảm an
sinh xã hội, quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, trong đó,
mục tiêu hàng đầu là ngăn chặn suy giảm kinh tế”.
Gói kích cầu hỗ trợ các doanh nghiệp và hộ gia đình được thực hiện với nhiều giải
pháp thích ứng như giảm lãi suất cơ bản, hỗ trợ lãi suất vay vốn lưu động 4%/năm, bão
lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giãn thời gian nộp thuế...Nhờ sự lãnh đạo,
chỉ đạo quyết liệt của chính phủ, sự nỗ lực cố gắng của bộ, ngành, địa phương , các cơ sở
sản xuất và doanh nghiệp vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng hợp lí.
Năm 2010, trong bối cảnh kinh tế Châu Âu đang từng bước phục hồi sau những
khủng hoảng về nợ công tại một số quốc gia, việc phục hồi của nền kinh tế Mỹ gặp nhiều
khó khăn...vấn dề này ảnh hưởng đén tăng trưởng kinh tế và lạm phát ở VN dẫn đến ngân
hàng thương mại chịu ảnh hưởng không ít.
Các ngân hàng thương mại ở VN có nguy cơ vỡ nợ dây chuyền do dính vào tín
dụng đen bất động sản và quá trình tích tụ đó xuất phát từ khoảng giữa năm 2010
Trong nền kinh tế chuyển đổi, đang phát triển như VN, tổ chức tín dụng vẫn là kênh dẫn
vốn chính cho nền kinh tế, nên diễn biến chỉ số kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng sâu sắc đến
hoạt động kinh doanh ngân hàng và ngược lại.
Xuất phát từ thực tiễn, cuối năm 2010 tình trạng khu vực ngân hàng VN tiềm ẩn
nhiều rủi ro hệ thống, có thể làm nhân tố kích hoạt cho sự đỗ vợ kinh tế; lãi suất cho vay
tăng cao lên đến 20% và kéo dài từ 2009-2011; thanh khoản của hệ thống ngân hàng

thương mại gặp khó khăn,lãi suất cho vay liên ngân hàng lên đến 30%-40%; nợ xấu tăng
nhanh; hiệu quả và lợi nhuận giảm sút.
Chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng Việt Nam năm 2012 bị chi phối bởi
những mục tiêu và sức ép chính trị-xã hội trái ngược nhau. Một mặt phải thắt chặt hơn
chính sách tiền tệ để kéo lạm phát xuống một con số, giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng
nóng; bảo đảm thanh khoản cho cả hệ thống và ngăn chặn đổ vỡ của một số ngân hàng yếu
kém; xử lý nợ xấu cao và ngày một tăng nhanh để tạo điều kiện cơ cấu lại toàn diện hệ
8


thống ngân hàng. Mặt khác phải bơm thêm vốn tín dụng với lãi suất hợp lý, để giảm bớt
tình trạng khó khăn tài chính, đình đốn hoạt động của nhiều doanh nghiệp, bảo đảm tăng
trưởng hợp lý, hạn chế thất nghiệp và khó khăn đời sống của dân cư
Trong thực tế và xét trên nhiều phương diện thì Ngân hàng Nhà nước đã áp dụng
những giải pháp mà chiều hướng chung là nới lỏng tiền tệ-tín dụng hơn là thắt chặt.
Việc phân bổ hạn mức tín dụng được ấn định, và có sự phân biệt theo 4 nhóm ngân
hàng tùy theo sức khỏe: 17%, 12%; 8% và 0% để tạo mức tăng dư nợ hợp lý (dự kiến
khoảng 15-17 % cả năm), đồng thời không để những ngân hàng quản trị kém, tài chính
không lành mạnh vẫn tăng trưởng bất chấp rủi ro và gây tác động xấu đến cả hệ thống.
Song do dòng vốn tín dụng vẫn chảy vào sản xuất kinh doanh chậm hơn nhiều so với
mong muốn, nên Ngân hàng Nhà nước đã tăng thêm hạn mức tín dụng cho những ngân
hàng có nhu cầu; bỏ các hạn chế cho vay đối với một số lĩnh vực được gọi là “phi sản
xuất”; quy định các biện pháp khuyến khích tín dụng ưu tiên cho một số lĩnh vực như
nông nghiệp- nông thôn; xuất khẩu; doanh nghiệp nhỏ và vừa, v.v. Tuy nhiên mức tăng
tổng dự nợ của cả hệ thống năm 2012 chỉ đạt 8,91%, thấp xa so với dự kiến và với mức
trung bình của nhiều năm.
Trần lãi suất huy động vẫn được áp đặt, tuy chỉ với các khoản vốn có kỳ hạn dưới
một năm. Huy động và cho vay với kỳ hạn dài hơn được trở lại cơ chế thỏa thuận, mở ra
một lối đi đỡ chật hẹp hơn cho hoạt động ngân hàng. Đồng thời, kể từ giữa tháng 3. Ngân
hàng Nhà nước đã liên tục hạ trần lãi suất huy động và tương ứng là các lãi suất điều hành

(tái cấp vốn, tái chiết khấu, v.v.) với mức độ cao và tốc độ nhanh chưa từng có so với các
ngân hàng trung ương khác. Đến cuối năm 2012, lãi suất huy động đã được điều chỉnh
giảm 6 lần, từ 14% xuống 8%/năm. Mặc dù vậy, vốn huy động cả hệ thống vẫn tăng mạnh,
tăng gần 24% nhưng tăng trưởng dư nợ vẫn thấp và thanh khoản hệ thống tuy được cải
thiện nhưng vẫn chưa vững chắc. Hiện tượng xé rào vượt trần huy động vẫn xảy ra; lãi
suất cho vay vẫn chưa giảm về mức hợp lý nếu so với trần lãi suất huy động và mức lạm
phát thực tế. Thị trường liên ngân hàng bị thu hẹp đáng kể, một phần do có những qui định
mới giới hạn hoạt động; một phần khác là do mất sự tín nhiệm vốn có giữa các ngân hàng.
Đã có một nghịch lý là không ít ngân hàng thừa vốn, phải cạnh tranh cho vay khách hàng
tốt với lãi suất rất thấp hoặc/và đầu tư vào trái phiếu chính phủ, tín phiếu Ngân hàng Nhà
nước, mà vốn vẫn ứ đọng, hạn mức tín dụng không sử dụng hết. Ngược lại vẫn còn những
9


ngân hàng khó khăn thanh khoản; phải “xé rào” để huy động vốn lãi suất cao hơn qui định.
Nhiều khách hàng cần vốn không tiếp cận được nguồn tín dụng, hoặc với lãi suất cao hơn,
điều kiện khắt khe hơn.
Nợ xấu lớn, vượt ngưỡng an toàn và tăng nhanh là nguyên nhân chính gây nên
những nghịch lý và khó khăn cho hoạt động của hệ thống ngân hàng. Theo con số chính
thức của Ngân hàng Nhà nước, nợ xấu đã lên đến 8,82% vào cuối 2012; nhưng thiếu một
sự nhìn nhận đúng đắn, đồng thuận xã hội và quyết tâm chính trị đủ mạnh để xử lý kịp
thời và có hiệu quả vấn đề này. Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại đã có
những cố gắng không thể phủ nhận, nhưng chưa thật quyết liệt và chưa nhận được hỗ trợ
cần thiết từ nhiều phía hữu quan. Việc ban hành Quyết định 780/QĐ-NHNN ngày
23/4/2012 về việc phân loại nợ đối với nợ được được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ,
Ngân hàng Nhà nước góp phần giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp trong tiếp cận với
ngân hàng, nhưng không làm giảm nợ xấu thực tế. Việc thành lập công ty mua bán nợ tập
trung vẫn chưa thực hiện và nếu có cũng chỉ hoạt động được vào quý II/2013.

Ngân hàng Nhà nước đã huy động nhiều phương tiện, áp dụng nhiều giải pháp để

buộc các tổ chức tín dụng một mặt phải nỗ lực bơm vốn cho nền kinh tế vớilãi suất ngày
càng thấp hơn; mặt khác phải lành mạnh tài chính, tăng trích lập dự phòng rủi ro xử lý nợ
xấu; giảm lợi nhuận, tiền thưởng và các chi tiêu khác.
Thị trường ngoại tệ và tỷ giá hối đoái đã có một năm rất ổn định. Tỷ giá hối đoái
chính thức được giữ cố định ở mức 20.823 VND/USD trong suốt 2012. Tỷ giá giao dịch
thực tế cũng như tỷ giá trên thị trường chợ đen đều nằm trong biên độ 1% cho phép; sức
ép giảm giá VND chưa xuất hiện. Ngân hàng Nhà nước đã mua thêm một lượng lớn ngoại
tệ, tăng dự trữ ngoại hối đến mức xấp xỉ 12 tuần nhập khẩu theo chuẩn an toàn tối thiểu.
Tuy nhiên cũng cần thấy rằng chênh lệch lớn giữa lãi suất trong nước và lãi suất quốc tế,
giữa lãi suất VND và lãi suất USD đóng vai trò không nhỏ trong hiện tượng này và sẽ là
một rủi ro về ngoại hối cần tính đến khi tình hình thay đổi.
Các quy định về chấm dứt huy động và cho vay bằng vàng, quản lý chặt chẽ việc
sản xuất và lưu thông vàng miếng, và đóng trạng thái vàng (lúc đầu là trước 25/12/2012,
sau đó gia hạn đến 30/6/2013) đem lại một số kết quả tích cực nhất định song đã tạo thêm
nhiều khó khăn cho các tổ chức tín dụng. Triển vọng tới đây sẽ sử dụng nguồn tài sản bằng
10


vàng trong xã hội như thế nào cho hiệu quả vẫn chưa rõ. Việc cấm huy động vàng đối với
tổ chức tín dụng có thể làm giảm bớt một số rủi ro tài chính, nhưng lại làm mất đi một
nguồn vốn lãi suất thấp.
Đến 31/12/2012, tổng tài sản toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam tăng 2,54%; vốn tự
có tăng 8,97% (riêng vốn điều lệ tăng 11,24%); lợi nhuận giảm 50%; hệ số ROA là 0,79%,
giảm 0,46% so với 2011; hệ số ROE là 10,34%, giảm hơn 4% so với 2011.
Có thể nhận xét rằng năm 2012 là một năm đầy sóng gió đối với nền kinh tế Việt
Nam nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Vượt qua được sóng gió đó để bước vào
năm 2013, với những kỳ vọng tốt đẹp hơn, sẽ là một thành công.
 Môi trường pháp lý:
Ngay từ cuối năm 2008 và đầu năm 2009, Chính phủ đã có Nghị quyết số
30/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 với nhiệm vụ trọng tâm, cấp bbaschlaf tập trung mọi nỗ

lực để chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất
khẩu, kích cầu đầu tư và tiêu dùng, đảm bảo an sinh xã hội.
Trong quý I/2011, NHNN đã điểu chỉnh giảm dự trữ bắt buộc tiền gửi bằng ngoại
tệ, điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở, tái cấp vốn để hỗ trợ thanh khoản cho các
đơn vị tổ chức tín dụng và nền kinh tế, giữ ổn định mức lãi suất cơ bản, tái cấp vốn, tái
chiết khấu, áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay trung và dài hạn bằng
VND, điều chỉnh tỷ giá tăng cho phù hợp cung cầu thị trường và điều tiết kinh tế vĩ mô.
Thông tư số 07/2010/TT-NHNN của Ngân hàng nhà nước vào ngày 26/2/2010 và
thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 cho phép các ngân hàng thương mại thực
hiện lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay trung và dài hạn cũng như ngắn hạn và có
thể thỏa thuận với khách hàng để cho vay với lãi suất cao hơn lãi suất trần. Sự thông
thoáng về lãi suất này đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng cùng vốn cho các doanh nghiệp
với mục đích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh.
Nghị định 141/2006/NĐ-CP của Chính phủ về việc ban hành danh mục vốn pháp
định của các tổ chức tín dụng thì mức vốn điều lệ tối thiểu của các ngân hàng thương mại
cổ phần vào ngày 31/12/2008 ít nhất phải đạt 1000 tỷ đồng, từ năm 2010 vốn điều lệ tối
thiểu mỗi ngân hàng được nâng lên 3000 tỷ đồng để đảm bảo cho các ngân hàng thương
mại có đủ năng lực cạnh tranh trong bối cảnh mới.
11


IV.

XU THẾ HỘI NHẬP QUỐC TẾ TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG
Hội nhập kinh tế thế giới là tất yếu khách quan và trở thành xu thế không thể nào

đảo ngược của bất kỳ quốc gia nào. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó, chủ động
tham gia vào quá trình toàn cầu hoá và hội nhập sẽ giúp Việt Nam vươn lên, theo kịp các
nước trong khu vực và các nước phát triển, chuyển dịch cơ cấu ngành nghề và tăng tốc độ
lưu thông các yếu tố sản xuất, bổ sung vốn, kỹ thuật, tận dụng ưu thế của các nước đi sau,

thực hiện phát triển ngành nghề mới, tiến bộ công nghệ, đổi mới quản lý và phát triển toàn
bộ nền kinh tế.
Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng cũng không nằm ngoài cuộc. Việc đẩy
mạnh hội nhập quốc tế về ngân hàng thương mại, xây dựng vững mạnh hệ thống ngân
hàng thương mại (NHTM) trở thành kênh dẫn nhập vốn cho nền kinh tế một cách tốt nhất.
Trong quá trình hội nhập quốc tế, các NHTM không chỉ là nơi chuyển tải thông tin kinh tế
mà còn thực hiện vai trò quan trọng phân phối lại vốn đầu tư, thậm chí là nơi xuất phát
những thay đổi và những rối loạn về kinh tế vĩ mô. Nguồn vốn FDI, ODA sẽ bị sút giảm
khi một hệ thống tài chính thiếu lành mạnh. Sẽ gây ra sự lãng phí nguồn vốn, hiệu quả đầu
tư thấp khi phân bổ và sử dụng không hiệu quả các nguồn vốn, gây tác động tiêu cực đến
kinh tế quốc gia. Thực tế cho thấy cuộc khủng hoảng tài chính châu Á xuất phát từ những
nguyên nhân tiềm ẩn của một hệ thống ngân hàng yếu kém, mở rộng tín dụng quá mức, nợ
khó đòi gia tăng.
1. Hội nhập quốc tế về NHTM có những tác động tích cực như sau:
 Một là, Ngân hàng Trung ương các nước phải thiết lập các quy chế quản lý, kinh
doanh sao cho phù hợp với quy tắc thông lệ chung vì khi hội nhập quốc tế bắt buộc
phải thực hiện một luật chơi chung. Các ngân hàng thương mại muốn hoạt động tốt
trong điều kiện hội nhập thì mặc nhiên phải tuân thủ các quy chế này. Điều này làm
cho hoạt động ngân hàng dễ kiểm soát hơn và kiểm soát chặt chẽ hơn, nhưng cũng
sẽ thông thoáng hơn do Ngân hàng Trung ương sẽ loại bỏ những can thiệp không
phù hợp với cơ chế thị trường.
 Hai là, trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt và phức tạp khi hội nhập
quốc tế về tài chính ngân hàng thì các NHTM phải tự hoàn thiện và phát triển để
hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn.
 Ba là, NHTM các nước đang phát triển có điều kiện tranh thủ nguồn lực tài chính
từ các ngân hàng nước ngoài để phát triển khi hội nhập vào hệ thống ngân hàng
12


quốc tế. Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế về ngân hàng giúp NHTM trong nước tiếp

cận được thị trường mới, đồng thời nhờ tập trung vào lợi thế so sánh của mình,
NHTM trong nước có thể tăng hiệu quả kinh doanh.
 Bốn là, sự chuyển giao công nghệ sẽ diễn ra nếu có sự dịch chuyển lao động có tay
nghề cao trong lĩnh vực ngân hàng khi các ngân hàng nước ngoài hoạt động trên thị
trường nội địa. Trình độ quản lý khu vực ngân hàng được nâng cao thông qua sự
chuyển giao này, đặc biệt trong quản lỷ rủi ro ngân hàng, quản lý tín dụng và đối
với công cụ tài chính phái sinh, do các ngân hàng nước ngoài có nhiều kinh nghiệm
hơn nhiều trong khả năng định giá đối với các sản phẩm này.
 Năm là, hệ thống ngân hàng nội địa có cơ hội vươn lên chiếm lĩnh thị trường quốc
tế khi hội nhập quốc tế về ngân hàng.
2. Sức ép của hội nhập quốc tế về ngân hàng đối với các NHTM là không nhỏ, đó
là:
 Mở cửa và hội nhập hoạt động ngân hàng thương mại là chấp nhận tham gia vào
luật chơi chung bình đẳng áp dụng cho tất cả các nước. Trong điều kiện đó tình
trạng dịch chuyển thị phần huy động vốn và cho vay từ các ngân hàng thương mại
trong nước sang các ngân hàng nước ngoài chắc chắn sẽ xảy ra. Các ngân hàng
nước ngoài có thể sẽ thu hút, giành được các khách hàng truyền thống, có độ tín
nhiệm cao từ tay các NHTM trong nước, bán buôn với các doanh nghiệp, khách
hàng tốt nhất và để lại cho các ngân hàng trong nước những khách hàng nhỏ, nhiều
rủi ro.
 Cùng với việc thu hút, giành được các khách hàng tốt, các ngân hàng nước ngoài
với những điều kiện về cơ sở vật chất, kinh nghiệm quản lý, sử dụng nguồn nhân
lực sẽ thu hút cả nguồn nhân lực có trình độ cao của các NHTM trong nước, đặc
biệt là các NHTMNN. Sự dịch chuyển nguồn nhân lực như vậy sẽ làm cho các
NHTM trong nước – vốn đã thiếu nguồn nhân lực có trình độ, lại càng thiếu hơn.
 Các nhà đầu tư nước ngoài cũng được phép tham gia đầu tư góp vốn vào các ngân
hàng nội địa, từ đó sẽ tham gia vào quá trình quản trị các ngân hàng, do đó khả
năng “bị thôn tính” của các ngân hàng nội địa sẽ có thể xảy ra nếu như các ngân
hàng này không có khả năng kiểm soát tốt đối tác của mình cũng như không đủ vốn
để giữ được tỷ lệ ở mức kiểm soát. Ở mức độ cao hơn, quá trình thâm nhập này có

thể làm cho hoạt động tiền tệ ngân hàng không phát triển theo định hướng của Nhà
nước là phục vụ cho lợi ích của cộng đồng mà chuyển sang phục vụ cho mục đích
tối đa hóa lợi nhuận của các nhà đầu tư nước ngoài.
13


 Đối với NHTW, hội nhập tài chính quốc tế của NHTM cũng sẽ làm giảm tính độc
lập của CSTT do ảnh hưởng của quá trình tự do di chuyển các luồng vốn. Sự lựa
chọn này tạo ra sức ép rất lớn cho NHTW trong quản lý tiền tệ và hoạt động ngân
hàng.
 Hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng thương mại làm gia tăng tính phức tạp trong
quản lý, giám sát hoạt động ngân hàng cả tầm vĩ mô lẫn vi mô. Nếu không có đủ
năng lực và kinh nghiệm quản lý thì hoạt động kiểm soát ngân hàng không hiệu quả
và khó có thể can thiệp kịp thời khi xuất hiện các hành vi nguy hại cho hoạt động
của hệ thống ngân hàng nói riêng, cũng như nền kinh tế nói chung.
 Đối với các nước đang phát triển thì quá trình hội nhập diễn ra trong điều kiện bản
thân hệ thống ngân hàng thương mại trong nước hoạt động còn kém hiệu quả và
vốn nhỏ bé. Điều đó có thể dẫn đến tình trạng để cạnh tranh, các ngân hàng sẽ chấp
nhận một mức rủi ro cao hơn với hy vọng thu hút được nhiều lãi hơn để cải thiện
tình hình tài chính. Cách phản ứng như vậy có thể còn gặp rủi ro cao hơn.
Tóm lại, sức ép về hội nhập quốc tế của ngân hàng là không nhỏ. Thứ nhất, tạo sức
ép cạnh tranh rất mạnh bởi các ngân hàng nước ngoài về vốn, công nghệ ngân hàng, hệ
thống quản trị điều hành…Thứ hai, hội nhập quốc tế của ngân hàng thương mại là chấp
nhận cuộc chơi không cân sức, hệ thống ngân hàng thương mại trong nước muốn đứng
vững thì phải cố gắng rất nhiều.
3. Một số thành tựu nổi bật của hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng
 Về mở cửa thị trường ngân hàng
Là một thành viên kết nạp sau của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Việt Nam
đã mở cửa lĩnh vực dịch vụ ngân hàng, tài chính tương đối cao so với các nước có trình độ
phát triển chung trong khu vực và thế giới. Tới nay, các ngân hàng nước ngoài được phép

hiện diện tại Việt Nam dưới nhiều hình thức khác nhau, bao gồm: văn phòng đại diện, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh với số vốn góp nước ngoài không
vượt quá 50% vốn điều lệ, công ty cho thuê tài chính liên doanh, công ty cho thuê tài
chính 100% vốn nước ngoài, công ty tài chính liên doanh, công ty tài chính 100% vốn
nước ngoài và ngân hàng 100% vốn nước ngoài.

 Tăng cường tiếng nói, vị thế tại các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế

14


Bám sát chủ trương của Đảng và Chính phủ tại các Nghị quyết 06-NQ/TW và Nghị
quyết 38/NQ-CP, NHNN đã mở rộng tiến trình tự do hóa dịch vụ tài chính, ngân hàng
thông qua việc tham gia đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại tự do (FTA), mở ra
cơ hội mới về phát triển kinh tế - xã hội. Tính tới nay, đã có 13 FTA được ký kết, trong đó
hàm chứa nội dung về tự do hóa dịch vụ tài chính, ngân hàng, cụ thể bao gồm: CPTPP, các
FTA ký kết với tư cách là thành viên ASEAN (gồm AFTA, 6 FTA giữa ASEAN với các
đối tác Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Úc, New Zealand, Hồng Kông); 5 FTA
ký kết với tư cách là một bên độc lập (Chile, Nhật Bản, Hàn Quốc, Liên minh Kinh tế Á Âu, Cuba). Ngoài ra, còn có FTA đang trong quá trình rà soát pháp lý FTA với EU để ký
kết chính thức. Việt Nam đang nỗ lực thúc đẩy đàm phán để kết thúc sớm các Hiệp định
khác gồm RCEP, Việt Nam - EFTA, ATISA…
Song song với việc tạo liên kết đa phương, song phương thông qua các diễn đàn
khu vực, quốc tế và các đối tác FTA, NHNN tiếp tục thực hiện tốt vai trò là đại diện của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức tài chính quốc tế thông qua
việc duy trì, phát triển quan hệ hợp tác với các tổ chức IMF/WB/ADB/AIIB và tham
gia tích cực vào hoạt động của 2 ngân hàng quốc tế IIB, IBEC.
NHNN đã phối hợp với các tổ chức tài chính quốc tế tiến hành công tác truyền
thông về các chủ trương, chính sách mà Chính phủ Việt Nam kiên trì thực hiện với mục
tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Đồng thời, NHNN cũng phối hợp chặt
chẽ với các tổ chức tài chính quốc tế trong việc xây dựng và thực hiện chiến lược phát

triển của các tổ chức quốc tế như Chiến lược đối tác quốc gia ADB tại Việt Nam 20162020, Chiến lược phát triển ADB đến năm 2030, Báo cáo Khung đối tác Quốc gia với
Việt Nam 2017-2022 của WB, Báo cáo Việt Nam 2035 của WB...
NHNN đã tham mưu cho Chính phủ đàm phán thành công tiếp nhận được toàn
bộ số vốn ưu đãi IDA (ODA) mà WB dành cho Việt Nam trước khi tốt nghiệp IDA (từ
ngày 01/7/2017) cho 10 chương trình, dự án trị giá khoảng 1.435 triệu USD, trong đó
số vốn IDA ưu đãi là 1.149 triệu USD và đàm phán thành công 3 dự án vay vốn giá rẻ
(ADF) của ADB trị giá 356 triệu USD vốn ADF nhằm giúp Việt Nam đủ điều kiện thu
hút được 950 triệu vốn ADF trong 2 năm 2017 - 2018 trước khi tốt nghiệp vốn ADF
vào 01/01/2019. Các nguồn vốn thu hút từ các tổ chức quốc tế này sẽ là nguồn lực quan
15


trọng hỗ trợ Việt Nam hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao
đời sống của người dân Việt Nam.

 Hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới và khu vực
Tăng cường mối quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện giữa Việt
Nam và các nước ASEAN, ASEAN+3, APEC thông qua các hoạt động/sáng kiến hợp
tác tài chính, ngân hàng trong khuôn khổ tiến trình Hội nghị Bộ trưởng Tài chính và
Thống đốc NHTW ASEAN, ASEAN+3, APEC; phối hợp chặt chẽ và xem xét, phê
duyệt các vấn đề quan trọng trong hoạt động của Trung tâm Đào tạo và Nghiên cứu
NHTW các nước Đông Nam Á (SEACEN)...
NHNN tiếp tục thực hiện tốt chủ trương về hội nhập quốc tế của Bộ Chính trị đề
ra tại Nghị quyết số 22-NQ/TW, Nghị quyết số 06-NQ/TW tích cực phối hợp với các
đơn vị liên quan đàm phán, ký kết hoặc hoàn thiện thủ tục phê chuẩn và triển khai các
Hiệp định thương mại tự do trong lĩnh vực ngân hàng như: Đàm phán, ký kết hoặc hoàn
thiện thủ tục phê chuẩn và triển khai các Hiệp định thương mại tự do như: Hiệp định
Thương mại Tự do Việt Nam - Hàn Quốc (VKFTA), Hiệp định Thương mại Tự do Việt
Nam - EU (EVFTA), Hiệp định Thương mại Tự do giữa Việt Nam và Khối Thương mại
tự do châu Âu (EFTA), Hiệp định RCEP, Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam Israel (VIFTA), Hiệp định thương mại dịch vụ ASEAN (ATISA)...


16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình hoạt động kinh doanh ngân hàng trường đại học Ngân hàng TPHCM
file:///E:/Tải%20về/2_Co_so_ly_luan_ve_hoi_nhap_quoc_te_trong_ngan_hang.pdf
/>centerWidth=80%25&dDocName=SBV329583&leftWidth=20%25&rightWidth=0%
25&showFooter=false&showHeader=false&_adf.ctrlstate=7wj33mulw_9&_afrLoop=3801872146873406#%40%3F_afrLoop
%3D3801872146873406%26centerWidth%3D80%2525%26dDocName
%3DSBV329583%26leftWidth%3D20%2525%26rightWidth
%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state
%3D8fp94a01y_125
/> /> />
17



×